Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Nguyễn an ninh với phong trào yêu nước và cách mạng ở nam kỳ (1922 – 1931)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 83 trang )

ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HÒ CHÍ MINH
BAN CHẤP HÀNH TP.HỒ CHÍ MINH

CÔNG TRÌNH Dự THI GIẢI THƯỞNG
“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - EURÉKA”
LẦN THỨ 11 NĂM 2009

TÊN CÔNG TRÌNH:

NGUYỄN AN NINH VỚI PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
VÀ CÁCH MẠNG Ở NAM KỲ (1922 - 1931)

LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: LĨNH VỰC XÃ HỘI CHUYÊN
NGÀNH: LỊCH SỬ TÁC GIẢ: NGUYỄN THỊ LIÊN

-------------------------------------------------------------------


Mã số công trình ........................

MỤC LỤC
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH ................................................................................................... 1
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................................. 3
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của công trình ............................................................. 9
4. Đối tuợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 9
5. Phuơng pháp nghiên cứu ................................................................................................... 10
6. Ý nghĩa thục tiễn và những đóng góp của đề tài ............................................................... 11
7. Két cấu của đề tài .............................................................................................................. 11
PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC XUẤT THÂN VÀ QUÁ TRÌNH
HỌC TẬP................................................................................................................................. 12
1.1 Nguồn gốc xuất thân ......................................................................................................... 12
1.2 Quá trình học tập ............................................................................................................. 13
CHƯƠNG H: HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN AN NINH TRONG
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG Ở NAM KỲ (1922 - 1931).... 19
2.1. Bối cảnh lịch sử những năm đầu thập niên 20 ............................................................... 19
2.1.1 Bối cảnh quốc tế ........................................................................................................ 19
2.1.2

Bối cảnh trong nuớc .................................................................................................. 19

2.2. Những hoạt động tiêu biểu của Nguyễn An Ninh trong phong trào yêu nuớc
và cách mạng ở Nam Kỳ (1922 - 1931) ................................................................................... 21
Thức tỉnh và giác ngộ cho quần chúng nhân dân ................................................................ 23
2.2.1

Huớng dẫn quần chúng đấu tranh ............................................................................. 25

2.2.2

Truyền bá những tutuởng tiến bộ .............................................................................. 31

2.2.3

Thành lập và lãnh đạo tổ chức Thanh niên Cao vọng .............................................. 33

CHƯƠNG HI: VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA NGUYỄN AN NINH TRONG
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG Ở NAM KỲ
(1931-1939)............................................................................................................................... 44

3.1 Vai trò của Nguyễn An Ninh trong phong trào yêu nuớc ở Nam Kỳ .............................. 44
3.2 Những đóng góp của Nguyễn An Ninh trong quá trình vận động thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam ......................................................................................................... 51
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 55


TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................... 57
PHỤ LỤC ............................................................................................................................... 61


1

TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
Đe tài ngoài phần Dần luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, có ba chuơng nội dung và phần Kết luận.
Dưới đây là nội dung cụ thể của từng phần:
Chương I: Nguồn gốc xuất thân và quá trình học tập giới thiệu nguồn gốc gia đình và
thời thơ ấu của Nguyễn An Ninh, làm rõ ảnh hưởng của những người thân đối với sự hình thành
chí hướng của ông. Quá trình học tập, rèn luyện của Nguyễn An Ninh từ tiểu học (1910) đến khi
tốt nghiệp đại học Sorbone (1922) ; hoạt động và những mối quan hệ của Nguyễn An Ninh trong
quá trình du học tại Pháp là nội dung trọng tâm của chương này.
Chương II: Hoạt động của Nguyễn An Ninh trong phong trào yêu nước và cách mạng
ở Nam Kỳ (1922 - 1931) đi sâu tìm hiểu những hoạt động tiêu biểu của Nguyễn An Ninh trong
giai đoạn 1922 - 1931: thức tinh tinh thần yêu nước; hướng dẫn quần chúng đấu tranh; truyền bá
những tư tưởng tiến bộ; tập dượt đấu tranh cho quần chúng thông qua việc thành lập và lãnh đạo
tổ chức Thanh niên Cao vọng. Trong chương này, chúng tôi đưa ra một số ý kiến về một số vấn
đề sau:
1, Trong các sách, báo xuất bản trước đây, những hoạt động của Thanh niên Cao vọng
được đề cập rất ít, chủ yếu là việc tham gia tổ chức đám tang cho cụ Phan Châu Trinh. Trong
chương 2 của đề tài, chúng tôi phác họa rõ nét hơn về một số hoạt động khác của tổ chức này như:
tổ chức đám giỗ cho cụ Phan trong năm 1927 và 1928, cuộc vận động chống nộp thuế thân do

Nguyễn An Ninh khởi xướng và trực tiếp đi tuyên truyền.
2, Trong chương này, chứng tôi đưa ra những bằng chứng về chủ trương khởi nghĩa vũ
trang của tổ chức Thanh niên Cao vọng.
Chương III: Vai trò và vị trí của Nguyễn An Ninh trong phong trào yêu nước và
cách mạng ở Nam Kỳ (1922 - 1931) đưa ra một số đánh giá và nhận định về vai trò của Nguyễn
An Ninh trong phong trào yêu nước ở Nam Kỳ giai đoạn 1922 - 1931. Nguyễn An Ninh là thủ
lĩnh số một của phong trào yêu nước ở Nam Kỳ trong thập niên 20 của thế kỷ XX. Ông đã có
những cống hiến quan trọng trong quá ưình vận động thành lập chính đảng vô sản ở nước ta.
Trong chương này, chứng tôi đưa ra những bằng cứ chứng minh: năm 1929 Nguyễn An Ninh đã
thông qua vợ là bà Trương


2
Thị Sáu trao một phần lực lượng cốt cán của tổ chức Thanh niên Cao vọng cho An Nam Cộng sản
đảng.
Phần Kết luận của đề tài bên cạnh việc khẳng định cống hiến và vai trò của Nguyễn An
Ninh trong phong trào yêu nước và cách mạng ở Nam Kỳ giai đoạn 1922 - 1931; còn gợi mở thêm
một số vấn đề cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu về nhân vật lịch sử Nguyễn An Ninh.


3
A DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn An Ninh là nhân vật lịch sử lớn. Ông đã có những cống hiến quan trọng trong
phong trào yêu nước và cách mạng ở Nam Kỳ giai đoạn 1922 - 1939. Không chỉ là chiến sĩ cách
mạng tiên phong, Nguyễn An Ninh còn là một trí thức lớn, một nhà báo tài năng. Khối lượng tác
phẩm mà ông để lại khá đồ sộ, thuộc nhiều thể loại khác nhau: báo chí, tác phẩm lý luận phê bình,
tuồng hát... Đây không chỉ là kho tư liệu lịch sử quí giá mà còn là những tác phẩm có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật cao. Vì vậy, nghiên cứu về Nguyễn An Ninh là một trong những đề tài cấp
thiết và thú vị không chỉ với khoa học lịch sử, đặc biệt là lịch sử cận đại Việt Nam; mà còn là đề

tài mới, hấp dẫn đối với nhiều chuyên ngành khác như văn học, triết học, báo chí...
Từ khi nhà trí thức yêu nước Nguyễn An Ninh hy sinh đến nay đã có không ít sách, báo
viết về ông. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề về nhân vật Nguyễn An Ninh còn đang
gây tranh luận trong giới sử học như: “tư tưởng Cộng sản của Nguyễn An Ninh” được hình thành
từ khi nào? năm 1929 Nguyễn An Ninh đã trao lực lượng của Thanh niên Cao vọng cho cụ Tú
Kiên, cho đồng chí Châu Văn Liêm hay cả hai? Nguyễn An Ninh có phải là người đưa ra sáng
kiến tổ chức Đông Dương Đại hội? Bên cạnh những vấn đề trên vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều giai
đoạn trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn An Ninh cần được tiếp tục làm rõ như: hoạt động của
Nguyễn An Ninh trong những lần sang Pháp, trong những chuyến đi vận động thành lập tổ chức
Thanh niên Cao Vọng, những năm tháng cuối cùng của ông ở Côn Đảo... Hiện vẫn còn nhiều
nguồn tài liệu về Nguyễn An Ninh như: các tác phẩm báo chí của ông, tài liệu của mật thám và
chính quyền thực dân... vẫn chưa được nghiên cứu.
Đó là những lý do chính khiến tác giả quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học về
nhân vật lịch sử Nguyễn An Ninh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong thập niên 50, 60 của thế kỷ trước trên các báo Tiếng Dội, Thần Chung có đăng một
số bài viết về Nguyễn An Ninh với nội dung ca ngợi công lao và những đóng góp của ông đối với
dân tộc. Trong thời kỳ này, một cuốn sách về Nguyễn An Ninh đã được xuất bản với tựa đề “Hội
kín Nguyễn An Ninh” của Lê Văn Thử do Nhà in Nam Việt ấn hành, với nội dung chủ yếu kể về
cuộc đời hoạt động của Nguyễn An Ninh. Trong thời kỳ đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, cuộc đời hoạt động và tư


4
tưởng của Nguyễn An Ninh tiếp tục được đề cập đến với những đánh giá rất khác nhau. Tại miền
Nam Việt Nam, đã xuất hiện một số tác phẩm viết về ông. về sách, tiêu biểu nhất là cuốn “Nhà
cách mạng Nguyễn An Ninh - thân thế và sự nghiệp'’'1 của tác giả Phương Lan. Cuốn sách nói về
nguồn gốc gia đình, kể lại những sự kiện chính trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn An Ninh và
cho đăng lại một số tác phẩm của ông. Trong những dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày mất của Nguyễn
An Ninh, nhiều tờ báo xuất bản ở Sài Gòn như Tiếng Dội Miền Nam, Dân Quyền, Điện Tín đã có

bài lược thuật, đánh giá về tư tưởng và cuộc đời hoạt động của Nguyễn An Ninh. Tuyệt đại đa số
các bài báo đều ca ngợi tài năng, đề cao những cống hiến của ông đối với dân tộc, gọi ông là “Nhà
cách mạng lừng danh của miền Nam”, “con người đã làm cho dân tộc này hãnh diện” (báo Điện
Tín số ra ngày 14/8/1972).
Nhìn chung, những sách, báo xuất bản ở Sài Gòn thời kỳ 1954 - 1975 đã cung cấp một số
tư liệu quí về cuộc đời hoạt động nhất là hoạt động diễn thuyết, về một số tác phẩm cũng như ảnh
hưởng của Nguyễn An Ninh trong quần chúng ở Nam Kỳ. Tinh thần chung của những tác phẩm
này đều ca ngợi tài năng, đạo đức và đề cao những đóng góp to lớn của ông đối với lịch sử dân
tộc. Tuy nhiên do những định kiến chính trị, những bài viết này thường né tránh hoặc nói rất sơ
lược về quá trình hoạt động của ông kể từ năm 1930 cho đến trước khi bị bắt giam lần cuối cùng
năm 1939. Trên báo Điện Tín có bài lược thuật về cuộc đời hoạt động của ông kèm theo một nhận
định: ông chơi thân với cả những người theo Đệ tứ và Đệ tam nhưng không bị “Cộng sản hóa” và
cho rằng ông đã “vượt lên trên đảng phái, giai cấp”1.
Ở miền Bắc trong thời kỳ 1954-1975, những tư liệu về Nguyễn An Ninh rất hiếm. Trong
các kho lưu trữ hầu như không có một tác phẩm nào của ông. Do thiếu thốn về mặt tư liệu cùng
với một số nguyên nhân khác nên trong suốt 21 năm không có công trình nào viết riêng về cuộc
đời và sự nghiệp của Nguyễn An Ninh. Trong suốt giai đoạn 1975 - 1986, trên tạp chí Nghiên cứu
lịch sử chỉ đăng tải một bài báo trên mục ‘Dính chính tư liệu” viết về ông là bài “Đòi trả tự do
cho Nguyễn An Ninh trên báo Việt Nam hồn”. Trong các văn kiện của Đảng và trên giảng đường
các trường đại học ở miền Bắc thời kỳ trước năm 1975, quan điểm đánh giá về Nguyễn An Ninh
luôn xem ông là người thuộc phe “quốc gia cách mạng”2.

1

Báo Điện Tín số ra ngày 14/8/1972.

2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Đảng toàn tập, tập 4 (1932 - 1934), Nxb CTQG, HN, ưang95.



5
Năm 1986, đất nước bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới về tư duy,
nhận thức được xem là yếu tố tiên phong. Quan điểm đánh giá về một số nhân vật lịch sử giai
đoạn trước Cách mạng tháng Tám do đó cũng trở nên rộng mở hơn, bớt định kiến, cứng nhắc.
Những vấn đề về cuộc đời hoạt động, về tư tưởng, về những đóng góp của Nguyễn An Ninh được
đưa ra thảo luận công khai dưới nhiều góc nhìn khác nhau.
Năm 1987 nhân kỷ niệm Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo tàng cách mạng thành
phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo về Nguyễn An Ninh do ban Tuyên huấn Thành uỷ thành
phố Hồ Chí Minh chủ trì. Cuộc hội thảo lần thứ nhất này đã công khai hai quan điểm đánh giá về
Nguyễn An Ninh. Quan điểm thứ nhất cho rằng Nguyễn An Ninh là nhà yêu nước lớn của Nam
Kỳ, được đồng bào tôn vinh, nhưng vẫn đánh giá Nguyễn An Ninh là người theo chủ nghĩa quốc
gia cải lương. Quan điểm thứ hai đòi hỏi cần phải nhìn nhận lại những đánh giá về nhân vật
Nguyễn An Ninh. Ông Dương Đình Thảo là người đầu tiên nêu lên quan điểm này. Giáo sư Trần
Văn Giàu cũng ủng hộ ý kiến của ông Thảo và phát biểu đại ý: tự bản thân Nguyễn An Ninh đã
đẹp, không cần chứng ta phải tô điểm gì thêm, chỉ cần chứng ta nghiên cứu và đánh giá một cách
khách quan, nghiêm túc. Hầu hết những vị lão thành cách mạng tham dự Hội thảo đều ủng hộ
quan điểm thứ hai.
Năm 1988, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hành cuốn sách “Nguyễn An
Ninh”. Cuốn sách tập hợp nhiều tham luận đã được trình bày trong Hội thảo lần thứ nhất và một
số bài viết về cuộc đời hoạt động của Nguyễn An Ninh qua hồi ức của những người sống cùng
thời với ông như Hà Huy Giáp, Trần Vãn Giàu, Phan Văn Voi, Nguyễn Thị Một, Trương Thị Be,
Mai Huỳnh Hoa, Thanh Minh... Những bài viết và tham luận được trình bày trong cuốn sách đã
cung cấp nhiều tư liệu quí về cuộc đời hoạt động, về quan điểm của Nguyễn An Ninh thể hiện
qua tác phẩm Tôn giáo, về tổ chức Thanh Niên Cao Vọng do ông sáng lập và trực tiếp lãnh đạo...
Trong suốt ba năm sau khi Hội thảo lần thứ nhất được tổ chức, trên các báo và tạp chí
chuyên ngành không xuất hiện bài nghiên cứu nào về Nguyễn An Ninh. Đến ngày 19/9/1990 trên
báo Nhân Dân có đãng bài của ông Tràn Bạch Đằng. Trong bài viết này, ông Trần Bạch Đằng
nhấn manh: “Cần nói thẳng rằng trong hệ thống nghiên cứu giai đoạn lịch sử Việt Nam cận đại
của các cơ quan khoa học và giáo dục nước ta,



6
kể cả lịch sử Đảng và học viện Đảng cao cấp, cụ Nguyễn An Ninh chưa có được một chỗ đứng
đúng với tầm vóc của cụ. Tôi không tin chỉ vì thiếu tư liệu mà vì thái độ đánh giá nhân vật lịch
sử của chúng ta ít nhiều còn mang tính biệt phái1”.
Hội thảo lần thứ hai về Nguyễn An Ninh được tổ chức năm 1990 nhân dịp kỷ niệm 90
năm ngày sinh của Nguyễn An Ninh. Hội thảo được tổ chức tại Bảo tàng cách mạng Việt Nam tại
Hà Nội do Viện sử học Việt Nam và Viện Bảo tàng cách mạng Việt Nam phối hợp tổ chức. Hội
thảo lần này có sự tham gia của các vị lão thành cách mạng, nhiều giáo sư, nhà nghiên cứu nổi
tiếng của Viện sử học, Viện triết học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nhìn chung, hầu hết các
tham luận trong hội thảo lần này đều đánh giá cao những đóng góp to lớn của Nguyễn An Ninh
đối với dân tộc và nhất trí cho rằng chúng ta chưa đánh giá đúng vị trí của Nguyễn An Ninh. Hội
thảo cũng đặt ra một số vấn đề mới cần được tiếp tục nghiên cứu như: Nguyễn An Ninh có phải
là người đầu tiên đưa chủ nghĩa Marx - Lénine vào Việt Nam? Tại sao Nguyễn An Ninh xây dựng
tổ chức Thanh niên Cao vọng với lực lượng khá hùng hậu nhưng không phát triển lên mà quyết
định trao cho Đảng Cộng sản? Đứng trên quan điểm coi Thanh niên Cao vọng là một tổ chức
chính trị, nhà nghiên cứu Thanh Đạm đề xuất vấn đề nên tìm hiểu thêm về chương trình, điều lệ
của tổ chức này. Sự thật về những năm cuối đời của Nguyễn An Ninh tại nhà tù Côn Đảo? Trong
thời gian này ông có suy sụp tinh thần hay không?
Trong suốt ba năm sau ngày diễn ra hội thảo lần thứ 2, không có một tác phẩm nào về
Nguyễn An Ninh được công bố. Đen ngày 30/7/1993 trong một đoạn phim tài liệu thời sự của
Xưởng phim thành phố Hồ Chí Minh có ghi lại lời phát biểu của cố Thủ tướng Phạm Vãn Đồng
về Nguyễn An Ninh. Trong đó cố Thủ tướng “khẳng định rằng Nguyễn An Ninh là một nhà yêu
nước, một chiến sĩ cách mạng kiên cường, kiên quyết đấu tranh vỉ Tổ quốc và dân tộc cho đến hơi
thở cuối cùng. Nguyễn An Ninh có tầm vóc một nhà lãnh đạo một cuộc cách mạng, cho nên chúng
ta phải ghi nhớ những cống hiến quan trọng của một nhân vật có tầm vóc lịch sử”2. Trong bài phát
biểu này cố Thủ tướng cũng nói về những năm tháng bị giam cùng ông Nguyễn An Ninh trong
Khám Lớn. Trên báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 14/8/1993 cố Tổng Bí thư


Báo Nhân dân số ra ngày 19/9/1990.
Phất biểu của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng do xưởng phim tư liệu thành phố Hồ Chí
Minh ghi lại ngày 30/7/1993.
1

2


7
Nguyễn Vãn Linh cũng đưa ra nhận định: “Nguyễn An Ninh là nhà yêu nước vĩ đại, là một trí thức
tầm cỡ1”.
Ke từ năm 1993, được sự động viên của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và cố Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh, những thành viên trong gia đình Nguyễn An Ninh đã sưu tầm và biên dịch
nhiều tác phẩm cũng như những tài liệu liên quan đến cuộc đời hoạt động của ông. Vĩ vậy, kể từ
nửa cuối thập niên 90 đến nay, nguồn tư liệu về Nguyễn An Ninh được công bố nhiều hơn, rộng
rãi hơn. Trong đó phải kể đến ba cuốn sách sau:
Cuốn thứ nhất là: “Nguyễn An Ninh” của tác giả Nguyễn An Tịnh - con trai ông Nguyễn
An Ninh - do nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1996. Cuốn sách đã tóm lược những nét chính trong
cuộc đời hoạt động, đưa ra một số thông tin mới liên quan đến quan điểm đấu tranh, những mối
quan hệ của Nguyễn An Ninh với Đảng Cộng sản Đông Dương và Đảng Cộng sản Pháp.... Phần
nội dung chính của cuốn sách là bản dịch một số tác phẩm của Nguyễn An Ninh bao gồm các bài
báo trên tờ La cloche fêlée, L’Annam, Dân Chúng, Đuốc Nhà Nam..., đãng lại hai bài diễn thuyết
“Chung đúc nền học thức cho dân An Nam” và “Cao vọng của bọn thanh niên An Nam”', tuồng
hát “Hai Bà Trưng”', những cuốn sách tiêu biểu của ông bao gồm: Nước Pháp ở Đông Dương,
Tôn giáo, Phê bình Phật giáo.
Cuốn sách thứ hai là “Nguyễn An Ninh: "Tôi chỉ làm cơn gió thổi”” của bà Nguyễn Thị
Nguyệt Minh - con gái Nguyễn An Ninh - do nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2001. Cuốn sách đã
kể lại chi tiết về toàn bộ cuộc đời: từ nguồn gốc gia đình, thời niên thiếu, quá trình đi học đến
những hoạt động sôi nổi của Nguyễn An Ninh từ năm 1922 đến khi ông mất. Cuốn sách đã gợi
mở nhiều vấn đề rất thú vị về cuộc đời hoạt động của ông như mối quan hệ với những nhân vật

trong nhóm Ngũ Long đặc biệt là mối quan hệ với Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền; đưa ra
một số lý do giải thích vì sao Nguyễn An Ninh không gia nhập Đảng Cộng sản; về mối quan hệ
và thái độ của Nguyễn An Ninh đối với những người Trốtkit ở Nam Kỳ ...
Cuốn thứ ba là hồi ký của bà Trương Thị Sáu - vợ ông Nguyễn An Ninh: “Cùng anh đi
suốt cuộc đời”. Cuốn sách kể về những năm tháng hoạt động của Nguyễn An Ninh từ khi bà Sáu
và ông quen biết rồi kết hôn cùng nhau cho đến ngày ông mất tại Côn Đảo. Đây là một trong
những tư liệu quí giá về cuộc đời hoạt động của ông.

1

Bản viết tay ngày 9/8/1993.


8
Kể từ năm 1990 đến năm 2002, nhiều bài viết về Nguyễn An Ninh đã đuợc đăng tải trên
các báo. Năm 2003 nhân kỷ niệm 60 năm ngày mất của Nguyễn An Ninh (14/8/1943 - 14/8/2003)
Hội khoa học lịch sử, Trung tâm nghiên cứu Khoa học xã hội và nhân vãn thành phố Hồ Chí Minh
đã phối hợp tổ chức cuộc hội thảo mang tên “Nguyễn An Ninh nhà tri thức yêu nước”. Hội thảo
lần này được tổ chức tại Nhà tưởng niệm Nguyễn An Ninh ở quận 12. Hội thảo thu hút sự tham
gia của nhiều giáo sư, nhà nghiên cứu sử học, các đồng chí lão thành cách mạng cùng đông đảo
nhân dân trong vùng. Hội thảo lần này nhất trí đánh giá cao công lao của Nguyễn An Ninh đối
với lịch sử dân tộc nói chung, đối với lịch sử báo chí Việt Nam nói riêng. Những tham luận được
trình bày tại Hội thảo đã được tập hợp in thành sách “Nguyễn An Ninh - nhà trí thức yêu nước”
do Tạp chí Xưa và Nay ấn hành.
Năm 2008 vừa qua, một Đe tài nghiên cứu sinh viên cấp bộ về Nguyễn An Ninh đã được
thực hiện mang tên “La cloche fêlée một thời vang bóng” của tác giả Phạm Thúy An. Đe tài tập
trung nghiên cứu về tờ La cloche fêlée của Nguyễn An Ninh. Trong đó tác giả khẳng định La
cloche fêlée là tờ báo có hình thức tiến bộ nhất thời bấy giờ; L’Annam và La cloche fêlée là một;
L’Annam nối tiếp La cloche fêlée và đều do Nguyễn An Ninh sáng lập, không phải của Phan Văn
Trường như nhiều người trước đây vẫn lầm tưởng. Đe tài cũng đi sâu tìm hiểu những nội dung

tiến bộ của tờ La cloche fêlée, đánh giá tác động của tờ báo đối với nhân dân Nam Kỳ thời bấy
giờ, đánh giá ý nghĩa của tờ báo trên nhiều phương diện...Đây là đề tài về lịch sử báo chí nhưng
cũng cung cấp một số tư liệu quí giá cho quá trình nghiên cứu về cuộc đời, tư tưởng của Nguyễn
An Ninh dưới góc độ lịch sử.
Bên cạnh những sách, báo và tham luận kể trên còn có một số bài viết, hồi ký đáng chú ý
về Nguyễn An Ninh hiện đang được lưu giữ tại Nhà tưởng niệm trên đường Nguyễn Anh Thủ,
phường Trung Mỹ Tây, quận 12 và Nhà thờ gia tộc Nguyễn An Ninh. Tất cả những tham luận,
bài viết và phát biểu kể trên cùng với những sách, báo viết về Nguyễn An Ninh là nguồn tư liệu
quí giá, và là một trong những cơ sở quan trọng giúp chúng tôi thực hiện đề tài này.
Nhìn chung cho đến nay, các nhà nghiên cứu sử học nước ta đều đánh giá cao những cống
hiến to lớn của Nguyễn An Ninh đối với lịch sử dân tộc. Dưới góc độ lịch sử, hiện vẫn đang tồn
tại nhiều vấn đề cần được tiếp tục thảo luận kỹ lưỡng hơn; còn tồn tại nhiều “khoảng trống” tri
thức về nhân vật lịch sử này. Trong đó nổi bật là


9
những vấn đề sau: Nguyễn An Ninh đến với chủ nghĩa Marx - Lénine từ khi nào? Hoạt động của
Nguyễn An Ninh trong những lần sang Pháp? về tổ chức Thanh niên Cao vọng: đây là một đảng
phái, tổ chức chính trị, hay một tổ chức quần chúng yêu nước? Mục đích thành lập, những hoạt
động tiêu biểu, vai trò lịch sử của tổ chức này? Khi bị giam trong Khám Lớn từ năm 1929-1931,
Nguyễn An Ninh đã giới thiệu lực lượng của Thanh niên Cao vọng cho cụ Tú Kiên hay cho Châu
Văn Liêm? Quan điểm, thái độ của Nguyễn An Ninh đối với những người Trốtkit? Vì sao Nguyễn
An Ninh đứng trên lập trường của chủ nghĩa Marx - Lénine nhưng ông không gia nhập Đảng Cộng
sản Đông Dương? Vai trò của Nguyễn An Ninh trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam? Hoạt động của Nguyễn An Ninh trong năm lần bị bắt giam đặc biệt là những ngày
ông bị giam cầm tại nhà tù Côn Đảo
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của công trình
Thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học này, tác giả hướng đến thực hiện hai nhiệm vụ chủ
yếu. Thứ nhất: đi sâu tìm hiểu cuộc đời hoạt động và các tác phẩm của Nguyễn An Ninh được viết
trong giai đoạn 1922-1931. Thứ hai: đánh giá vai trò, vị trí và những cống hiến lớn lao của Nguyễn

An Ninh đối với phong trào yêu nước và cách mạng. Thông qua việc thực hiện hai nhiệm vụ này,
chúng tôi hướng tới mục tiêu: góp phần tái hiện cụ thể cuộc đời hoạt động của nhà trí thức yêu
nước Nguyễn An Ninh; đồng thời góp thêm một số ý kiến nhằm giải quyết một số vấn đề về cuộc
đời và sự nghiệp của Nguyễn An Ninh hiện vẫn chưa có được sự đồng thuận trong giới nghiên
cứu.
4. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
Nghiên cứu và đánh giá về một nhân vật lịch sử cần căn cứ vào hoạt động của nhân vật,
những tác phẩm, phát ngôn của nhân vật đó; đồng thời cũng căn cứ vào bối cảnh lịch sử thời kỳ
nhân vật đó sống. Vì vậy đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này bao gồm những hoạt động
của Nguyễn An Ninh trong phong trào yêu nước, những tác phẩm của ông mà chủ yếu là các tác
phẩm được đãng trên tờ La cloche fêlée, L’Annam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
về mặt thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu những hoạt động và các tác phẩm của Nguyễn
An Ninh được viết trong giai đoạn từ tháng 10 năm 1922 đến ngày 3/10/1931. Tháng 10 năm 1922
là thời điểm Nguyễn An Ninh về đến Sài Gòn sau


10
chuyến sang Pháp lần thứ 2 và chuẩn bị cho quá trình hoạt động trong phong trào yêu nước tại
Nam Kỳ. Ngày 3/10/1931 là ngày Nguyễn An Ninh được trả tự do sau 3 năm bị bắt giam vì tội
lập Hội kín.
về mặt không gian: đề tài tập trung tìm hiểu những hoạt động của Nguyễn An Ninh tại
Nam Kỳ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp lịch sử và Phương pháp lôgic
Phương pháp tổng hợp và phương pháp phân tích
Phương pháp so sánh
Phương pháp phỏng vấn: trong quá trình thực hiện đề tài, chứng tôi đã nhiều lần gặp gỡ

và trao đổi với bà Nguyễn Thị Nguyệt Minh - con gái nhà trí thức yêu nước Nguyễn An Ninh (bút
danh của bà là Nguyễn Thị Minh, Nguyễn Nguyệt Minh, Nguyễn An) để được cung cấp thêm
thông tin về cuộc đời hoạt động và các tác phẩm của ông Ninh.
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của công trình
Công ưình này đóng góp một số ý kiến góp phần thảo luận và giải quyết một số vấn đề
liên quan đến nhân vật lịch sử Nguyễn An Ninh mà giới nghiên cứu lịch sử hiện vẫn chưa đi đến
thống nhất. Công trình cũng góp phần giới thiệu và lưu giữ bản dịch một số tác phẩm của Nguyễn
An Ninh trước đây chưa từng được công bố. Công trình nghiên cứu khoa học này là nguồn tài liệu
tham khảo cho những người quan tâm đến nhân vật lịch sử Nguyễn An Ninh, cung cấp một số tài
liệu tham khảo cho quá trình giảng dạy một số vấn đề lịch sử Việt Nam thời cận đại.
7. Kết cấu của đề tài
Đồ tài này ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục còn bao gồm ba
chương:
Chương I: Nguồn gốc xuất thân và quá trình học tập
Chương II: Hoạt động của Nguyễn An Ninh ưong phong trào yêu nước và cách mạng ở
Nam Kỳ (1922-1931)
Chương

ni: Vai trò của Nguyễn An Ninh trong phong trào yêu nước và cách mạng ở

Nam Kỳ (1922- 1931)


11

CHƯƠNG I
NGUỒN GỐC XUẤT THÂN VÀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
1.1. Nguồn gốc xuất thân.
Nguyễn An Ninh sinh ngày 15/9/1900 tại quê ngoại là làng Long Thuợng, tổng Phước
Điền Thượng, tỉnh Chợ Lớn (nay là xã Long Thượng huyện cần Giuộc tỉnh Long An). Ông là con

út trong gia đình có bốn anh em. Hai anh và chị gái của ông đều mất khi còn nhỏ tuổi.
Nguyễn An Ninh sinh ra trong một dòng họ tài hoa, giàu lòng yêu nước. Theo gia phả của
gia đình, gốc gác xưa nhất của dòng họ Nguyễn là ông Lê Công Nam - một quan lại cao cấp trong
chính quyền nhà Lê. Dòng họ Đoàn đã sinh ra hai nhân vật nổi tiếng là Tiến sĩ Đoàn Doãn Luân
và nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
Ông Nguyễn Chuẩn Trực - ông nội Nguyễn An Ninh - có bốn người con, trong đó có
Nguyễn An Nghi. Ông Nghi được sinh ra ở đất Bình Định. Dưới thời vua Tự Đức, triều đình
khuyến khích dân chúng vào Nam khẩn hoang lập ấp, ông Nghi bỏ đất Bình Định, một mình vào
Nam lập nghiệp. Sau này, khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông theo nghĩa quân Trương
Định đánh Pháp. Khi nghĩa quân tan rã, ông thất chí, thu xếp đưa cả gia đình về quê vợ thuộc
Phước Quảng (tức cần Giuộc - Long An ngày nay). Ông mất năm 1886, thọ 62 tuổi.
Ông Nguyễn An Nghi có với người vợ thứ hai ba người con sau này đều nổi danh là
Nguyễn Thị Xuyên (1856), Nguyễn An Khương (1860) và Nguyễn An Cư (1864). Ông Nguyễn
An Cư là một danh y nức tiếng của đất Gia Định xưa. Bà Xuyên và ông Khương đều tham gia
phong trào yêu nước từ rất sớm. Năm 1896 ông Khương đưa gia đình lên Sài Gòn, mướn căn nhà
số 49 đường Kinh Lấp mở tiệm may. Sau này khi làm ăn phát đạt, ông mở thêm tiệm ăn và thuê
thêm căn nhà số 47 để lập khách sạn “Chiêu Nam Lầu” - tức là nơi chiêu đãi người Nam. Chiêu
Nam Lầu không chỉ là cơ sở kinh doanh mà còn là nơi tá túc, nơi gặp gỡ của các sĩ phu yêu nước
khắp ba miền. Những nhà yêu nước nổi tiếng như cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Bội Châu, ông
hoàng Cường Để, cụ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Qúi Anh, Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Côn,
Nguyễn Thần Hiến, Trần Chánh Chiếu, cụ Nguyễn Sinh sắc... đều đã từng tá túc tại đây. Chiêu
Nam Lầu còn là cơ sở tài chính của phong trào Đông Du. Tiền lời từ việc kinh doanh khách sạn
được ông Khương dùng để tài trợ cho du học sinh Nam Kỳ


12
đang theo học tại Nhật Bản, Hương Cảng, thông qua việc đóng góp vào quĩ “Khuyến du học hội”.
Mặc dù trong gia đình không có ai tham gia du học tại Nhật Bản hay Hương Cảng nhưng cả ông
Khương và bà Xuyên đều là những yếu nhân của phong trào Đông Du tại Nam Kỳ. Ông Khương
cũng là người đầu tiên tại Nam Kỳ in tài liệu tuyên truyền cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.

Ngoài ra cả hai ông bà đều hoạt động rất tích cực trong phong trào Minh Tân tức phong
trào Duy tân tại Nam Kỳ. Với việc mở Chiêu Nam Lầu, ông Khương là người Việt đầu tiên tại
Nam Kỳ đi tiên phong trong lĩnh vực kinh doanh tiệm bán cơm. Ông cũng kêu gọi đồng bào bỏ
vốn mở thêm nhiều tiệm cơm như Chiêu Nam Lầu để cùng nhau buôn bán nhằm phát triển nền
thương nghiệp của người Việt hiện đang còn quá nhỏ bé so với của Hoa kiều.
Ông Khương gặp và kết thân với Gilbert Trần Chánh Chiếu tại Chiêu Nam Lầu. Hai ông
đã hợp tác với nhau cùng cho ra tờ Nông cổ mín đàm1 và Lục tỉnh Tân văn (tờ báo ra đời năm
1908, do Nguyễn An Khương làm chủ sự) là hai tờ báo có xu hướng tiến bộ thời bấy giờ. Hai ông
còn kêu gọi mọi người hùn vốn lập một nhà in riêng của người Việt để phục vụ cho công cuộc mở
mang dân trí.
Ngoài việc kinh doanh giỏi, ông Khương còn là người tinh thông Nho học, từng dạy và
soạn sách giáo khoa chữ quốc ngữ. Ông đã dịch nhiều tác phẩm Trung Quốc ra chữ quốc ngữ như:
Tam quốc diễn nghĩa, Nhạc Phi diễn nghĩa, Ngũ hổ bình Tây, Vạn huê lầu diễn nghĩa....vốn Nho
học mà Nguyễn An Ninh có được một phần chính là nhờ sự truyền dạy của cha. Ông Khương còn
được cha mình truyền dạy những bí quyết gia truyền về y thuật, vì vậy ông còn là một lương y
giỏi, nhất là trong lĩnh vực chữa trị những căn bệnh về bại liệt.
Ông Nguyễn An Khương và bà Nguyễn Thị Xuyên đều là những người tài giỏi, giàu lòng
yêu nước, tiêu biểu cho tinh thần “trọng nghĩa khinh tài” của người dân Nam bộ. Việc tham gia
tích cực vào các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Minh Tân chứng tỏ ông bà đều là
những người có tư tưởng tiến bộ. Hai người đã trực tiếp nuôi dạy Nguyễn An Ninh khôn lớn, vì
vậy tinh thần yêu nước và tiến bộ của họ có ảnh hưởng rất lớn đến Nguyễn An Ninh. Ông Khương
và bà Xuyên là nguồn cổ vũ,

Nông cổ min đàm ra đời năm 1901 là tờ báo đầu tiên về nông nghiệp ờ Nam kỳ, nghĩa nôm của tờ báo
là: uống trà nói chuyện nghề nông.Ngoài ra báo còn đăng một số truyện dài, truyện ngắn, thi phổ tức là
những sáng tác thơ văn mới, sưu tầm văn học dân gian, dịch truyện Tàu ra chữ quốc ngữ, tổ chức cuộc
thi truyện ngắn đầu tiên trong lịch sù văn học Việt Nam.
1



13
động viên rất lớn của Nguyễn An Ninh trong cuộc đấu tranh bền bỉ, đầy thử thách với thực dân
Pháp và tay sai. Sự giúp đỡ của ông bà về mặt tài chính đã giúp Nguyễn An Ninh rất nhiều trong
việc duy trì tờ La cloche fêlée. Sau này, ngôi nhà của vợ chồng Nguyễn An Ninh giống như một
Chiêu Nam Lầu thứ hai: nơi đọc sách, an dưỡng sau khi ra tù, là nơi liên lạc, gặp gỡ của những
người hoạt động trong phong trào yêu nước và cách mạng. Tất cả những anh em gặp khó khăn
đều được vợ chồng Nguyễn An Ninh giúp đỡ rất nhiệt tỉnh, không gợn một chút so đo tính toán
ngay cả khi trong nhà đang thiếu thốn.
1.2. Quá trình học tập
Sau khi cha mất, ông Khương đưa cả gia đình về thị trấn Tân An vừa dạy học, dịch sách,
vừa bốc thuốc chữa bệnh không lấy tiền cho người nghèo theo tâm nguyện của cha. Sau này ông
lấy bà Trương Thị Ngự. Hai ông bà có với nhau bốn người con nhưng ba người con đầu đều mất
khi còn nhỏ, ông bà chỉ còn lại một mình Nguyễn An Ninh. Nguyễn An Ninh được sinh ra tại quê
ngoại và được gửi ở gia đình ngoại nuôi nấng từ khi còn nhỏ. Ông ngoại Nguyễn An Ninh là ông
Trương Dương Lợi, lĩnh chức Hội đồng, là một điền chủ giàu có, sở hữu hơn trăm mẫu ruộng ở
làng Long Thượng. Ông chăm lo cho các con nhỏ và cháu rất chu đáo, bắt học chữ Nho và Tứ
thư, Ngũ kinh từ khi mới lên 5 để chúng không quên chữ nghĩa thánh hiền và cũng là để học đạo
làm người.
Trong số các con, cháu mà ông Trương nuôi dạy, ông đặc biệt yêu quí Nguyễn An Ninh.
Ngay từ nhỏ đứa cháu này đã tỏ ra thông minh, học đâu hiểu đó, lại sớm tỏ ra là người có chí. Một
lần bị ông ngoại phạt, bắt xích chân vào cột, Nguyễn An Ninh đã ngâm bài thơ do chính mình
sáng tác:
Xích xiềng rèn đúc tự bên Tây Cớ
sao đem tới nước Nam này Để ta
phải chịu chân cùm trói Chùng
nào tháo được xích xiềng đây1
Năm mười tuổi, Nguyễn An Ninh đã thông thạo chữ Hán, hiểu được Tứ thư, Ngũ kinh.
Lúc đó ông Trương mới đưa cháu lên Sài Gòn sống cùng cha mẹ để tiện việc học tập. Ông Khương
xin cho con vào học trường dòng Tabert. Chương trình học của trường ngoài những môn cơ bản
như ở các trường khác, học sinh còn phải học


1

Nguyễn Thị Minh, sđd, trang 26.


14
thuộc Thánh kinh và lễ đạo. Nhờ thông minh, chăm chỉ nên môn tiếng Pháp Nguyễn An Ninh học
rất giỏi, lại thuộc lòng nhiều đoạn trong kinh Thánh. Nguyễn An Ninh còn nhỏ nhưng rất ham đọc
sách nhất là những sách về Phật Thích Ca. Ở trường học về chúa Jésu, về nhà lại say mê đọc thêm
sách về đạo Phật nên ngay từ thời niên thiếu Nguyễn An Ninh đã tích lũy được khá nhiều kiến
thức về hai tôn giáo này.
Học xong tiểu học, Nguyễn An Ninh thi đậu Certificat và được nhận vào học ở trường
trung học Chasseloup Laubat. Nguyễn An Ninh chăm học, thông minh nên được lĩnh học bổng
thường xuyên. Năm 1916 Nguyễn An Ninh tốt nghiệp trung học loại ưu, được đặc cách tuyển
thẳng vào trường Cao đẳng Đông Dương mà không cần có bằng tú tài. Ban đầu Nguyễn An Ninh
xin vào học ngành y, sáu tháng sau quyết định chuyển sang học luật. Trong quá trình học ở trường
này, ngoài chương trình học dành cho sinh viên năm thứ I, Nguyễn An Ninh còn mượn thêm sách
vở của các anh chị lớp trên để tìm hiểu và nhận thấy: nội dung các sách và toàn bộ chương trình
học chỉ nhằm đào tạo ra những người có vốn hiểu biết ít ỏi về pháp luật mà chủ yếu là luật cai trị
của Pháp, không thể trở thành trạng sư giỏi để có thể giúp đồng bào mình. Vĩ thế, sau một năm
theo học, Nguyễn An Ninh quyết định thôi học. Nhân kỳ nghỉ hè, Nguyễn An Ninh xin phép về
quê thăm gia đình nhưng thực chất là để xin cha sang Pháp du học.
Thời gian này chính quyền thuộc địa chủ trương hạn chế đến mức tối đa việc thanh niên
Việt Nam đi du học kể cả du học tại Pháp để ngăn cản họ tiếp xúc với những luồng tư tưởng tiến
bộ, nhằm thực hiện triệt để chính sách “ngu dân”. Vĩ chính quyền hạn chế người bản xứ đi du học,
thêm vào đó gia đình Nguyễn An Ninh lại bị đưa vào diện tình nghi do từng tham gia tích cực
trong phong trào Đông Du, Duy Tân nên Nguyễn An Ninh không thể sang Pháp bằng con đường
công khai. Do đó, ông Khương phải nhờ ông Huỳnh Tấn Kiệt1 đưa Nguyễn An Ninh lên tàu
Amiral Nielly, nhờ các thủy thủ cho ở tạm trên boong tàu.

Năm 1918 Nguyễn An Ninh đặt chân lên đất Pháp, ở trọ trong một xóm bình dân. Sau khi
chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, một bộ phận binh lính người Việt giải ngũ được Pháp
bố trí công ăn việc làm, họ sống tập trung ở một số vùng trong đó có Paris. Nguyễn An Ninh tới
trọ ở đây một phần vì muốn gần gũi đồng bào,

ông Huỳnh Tấn Kiệt sau này lấy bà Nguyễn Thị Phòng - em con dì ruột của Ninh. Ông là người yêu
nước, làm việc trên hãng tàu Les Chargeurs Réunis.
1


15
phần vì nơi đây rất gần đường Villa des Gobelins nơi cụ Phan Châu Trinh đang ở nên tiện việc đi
lại thăm hỏi; phần nữa cũng vĩ là xóm bình dân nên giá thuê phòng trọ ở đây rẻ, phù hợp với điều
kiện gia đình.
Khi sang Pháp Nguyễn An Ninh vẫn chưa có bằng tú tài. Nhưng nếu muốn vào học ở một
trường đại học tại Pháp thì bằng tú tài là điều bắt buộc phải có, họ không có chế độ tuyển thẳng
đối với những học sinh tốt nghiệp trung học loại ưu như ở Cao đẳng Đông Dương. Nhưng trong
thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, nhiều học sinh trung học của Pháp phải bỏ học để
lên đường nhập ngũ. Khi chiến tranh kết thúc, chính quyền Pháp chủ trương cứ cách ba tháng lại
tổ chức cho số thanh niên này được thi bù để lấy bằng tú tài. Theo chỉ dẫn của luật sư Phan Văn
Trường, Nguyễn An Ninh cũng đăng kí tham gia những kỳ thi đặc biệt này để nhanh chóng lấy
bằng tú tài Pháp.
Một thời gian sau, Nguyễn An Ninh thi đậu vào trường đại học Sorbone - một trong những
trường đại học danh tiếng của nước Pháp thời bấy giờ. Trong suốt quá trình theo học ở Sorbone,
hàu như Nguyễn An Ninh chỉ chuyên tâm vào việc học, vừa chăm chỉ học tập vừa đi làm thêm.
Nguyễn An Ninh học giỏi có tiếng, lại rất giỏi Pháp văn, ngay đến những học sinh người Pháp
cũng phải kính nể. Cứ ba tháng nhà trường lại tổ chức thi định kỳ theo kiểu “vượt cấp”. Nguyễn
An Ninh thường xuyên đăng kí tham gia và đạt kết quả cao. Nhờ thông minh, ham học hỏi nên
Nguyễn An Ninh đã hoàn thành chương trình Tú tài và Cử nhân luật trong vòng hai năm.
Từ khi sang Pháp cho đến khi lấy bằng Cử nhân năm 1920, Nguyễn An Ninh thường

xuyên lui tới nhà số 6 Villa des Gobelins. Tại đây Nguyễn An Ninh có dịp gặp gỡ và trò chuyện
cùng cụ Phan Châu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn Tất Thành mới đến Pháp năm 1919
và có gặp cả Nguyễn Thế Truyền lúc này đang theo học kỹ sư Hoá học ở Toulouse, chỉ thỉnh
thoảng mới ghé qua Paris. Cụ Phan Châu Trinh vốn là bạn thân của cụ Nguyễn An Khương nên
khi Nguyễn An Ninh sang Pháp cụ Khương đã viết thư gửi gắm con trai cho cụ Trinh. Ông Phan
Vãn Trường là một luật sư giỏi, là giáo sư giảng dạy ở nhiều trường đại học Pháp và một số nước.
Vì theo học ngành luật nên Nguyễn An Ninh đã nhiều lần đến gặp ông đặc biệt là trong thời gian
chuẩn bị thi Cử nhân. Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành đã quen biết nhau từ trước. Khi cụ
Nguyễn Sinh sắc bị bãi quan ở Bình Định, lưu lạc vào Nam có thời gian tá túc tại Chiêu Nam Lầu
và được cụ Khương giúp đỡ. Nguyễn Tất Thành đã từng


16
tới Chiêu Nam Lầu thăm cha và có gặp Nguyễn An Ninh1. Năm 1919 khi Nguyễn Tất Thành tới
sống cùng cụ Phan và ông Trường tại nhà số 6 Villa des Gobelins Nguyễn An Ninh và Nguyễn
Tất Thành mới gặp lại nhau. Lúc này “bác Quốc luôn bị mật thám bám chặt nên bác hay nhờ ba
tôi làm liên lạc giùm bác, dần dần tình cảm giữa ba tôi và bác Quốc càng nhiều hơn” 2. Thời kỳ
Nguyễn An Ninh đang chuyên tâm học luật cũng là lúc giữa cụ Phan, ồng Trường và Nguyễn Tất
Thành thường xảy ra những cuộc tranh luận gay gắt về con đường cứu nước nhưng cuối cùng vẫn
rơi vào bế tắc. Cuộc tranh luận về con đường cứu nước của ba người có tác động mạnh đến suy
nghĩ và chí hướng của chàng sinh viên trẻ tuổi Nguyễn An Ninh. Bản thân Nguyễn An Ninh thời
kỳ này vẫn chưa xác định được con đường giải phóng dân tộc. Ở Nguyễn An Ninh mới chỉ hình
thành ý tưởng sẽ về nước hoạt động ngay trên quê hương mình.
Trong quá trình theo học ở đại học Sorbone, Nguyễn An Ninh học giỏi và được nhiều
giảng viên quí mến. Trong số đó có giáo sư Marcel Cachin3. Giáo sư là người trực tiếp hướng dẫn
Nguyễn An Ninh thực hiện các luận văn chuẩn bị cho luận án Tiến sĩ. Chính giáo sư đã dẫn
Nguyễn An Ninh tới các câu lạc bộ nơi gặp gỡ của các văn hào, trí thức, nhà cách mạng nổi tiếng
như: Paul Vaillant Couturier4, Andrée Viollis Léon Werth5, Romain Rolland, Jacques Duclos,
Maurice Thorez... Mối quan hệ rộng rãi với giới trí thức và những đảng viên Đảng Cộng sản Pháp
đã giúp Nguyễn An Ninh tạo được sự hậu thuẫn ngay trong lòng nước Pháp. Trong suốt quá trình

đấu tranh của Nguyễn An Ninh, những người bạn Pháp đã giúp đỡ ông rất nhiều đặc biệt khi ông
bị bắt giam lần thứ nhất năm 1926 và trong làn tuyệt thực năm 1936 _____
Tháng 7 năm 1920 sau khi đậu Cử nhân luật, Nguyễn An Ninh nhận được điện của cha
gọi về để hỏi vợ. Nguyễn An Ninh trở về nước sau một tháng lênh đênh trên biển. Sau khi làm
đám hỏi với cô Émilie - con gái một điền chủ giàu có ở Sóc Trăng - đến tháng 8 năm 1920 Nguyễn
An Ninh trở lại Paris. Lần sang Pháp thứ hai này, Nguyễn An Ninh chuẩn bị tài liệu để làm luận
án Tiến sĩ về “Tính dân chủ ở các làng xã Việt Nam” Nguyễn An Ninh thuê phòng trọ ở phố
Cujas, gần trường đại học

Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Nguyệt Minh.
Nguyễn Thị Minh, sđd, trang 47.
Marcel Cachin (1869-1958) là nhà hoạt động xuất sắc của phong trào công nhân Pháp và quốc tế. Từ năm
1912-1918 là thành viên Ban biên tập báo Nhân Đạo-cơ quan ngôn luận của trung ương Đảng xã
hộiPháp.Năm 1918 ông là chủ bút của tờ báo này. Dan theo Hồ Chí Minh biên niên tiểu sù, Nxb CTQG,
4HN, 1993, trang 281.
Một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Ông là nhà báo, nhà hoạt động chính trị nổi
tiếng, nguyên Nghị sĩ quốc hội Pháp, là tổng biên tập báo Nhân Đạo (1928-1937).
5
Đầu năm 1924 ông sang thăm Nguyễn An Ninh. Ông cũng là tác giả của cuốn sách “Cochinchine” trong
đó có đoạn viết về Nguyễn An Ninh.
1

2


17
Sorbone. Khi tới thăm ngôi nhà số 6, Nguyễn An Ninh chỉ gặp Nguyễn Ái Quốc vì cụ Phan đã
chuyển đi nơi khác, còn ông Trường thì đang giảng dạy ở Đức, chưa trở về. Đây là dịp để hai
người trò chuyện riêng và trao đổi với nhau, thắt chặt hơn mối quan hệ thân thiết vốn có.
Trong những năm 1918-1920 Nguyễn An Ninh chỉ chuyên tâm vào việc học thì trong lần

sang Pháp thứ hai này Nguyễn An Ninh không chỉ lo chuẩn bị tài liệu phục vụ cho việc làm luận
án Tiến sĩ mà còn tham gia rất tích cực trong phong ưào yêu nước của kiều bào Việt Nam tại Pháp.
Năm 1920 là năm đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đi tìm con đường cứu nước của Nguyễn
Ái Quốc khi Người đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Marx - Lénine. Đối
với Nguyễn An Ninh, năm 1920 cũng là một mốc quan trọng trong suốt cuộc đời hoạt động sôi
nổi của ông. Sự kiện ông Phan Vãn Trường - một người mà Nguyễn An Ninh rất kính trọng - đã
từng nghiên cứu chủ nghĩa Marx - Lénine từ rất sớm nhưng không gia nhập Đảng Cộng sản Pháp
và cũng thôi không tham gia vào Đảng Xã hội; trong khi người bạn Nguyễn Ái Quốc lại bỏ phiếu
tán thành Quốc tế m, quyết định đi theo chủ nghĩa Marx - Lénini đã tác động rất nhiều đến suy
nghĩ của Nguyễn An Ninh. Bắt đầu từ đây Nguyễn An Ninh tìm mua sách báo về chủ nghĩa Marx
- Lénine gửi về nước theo đường dây bí mật của thuỷ thủ. Ông Paul Vaillant Couturier có ý định
giới thiệu Nguyễn An Ninh gia nhập Đảng Cộng sản Pháp nhưng ông từ chối.
Những hoạt động sồi nổi của kiều bào ta tại Pháp đã lôi cuốn tâm trí Nguyễn An Ninh. Vỉ
vậy mặc dù luận án đã được chuẩn bị xong nhưng Nguyễn An Ninh không thi để lấy bằng (để sau
này có cớ xin sang Pháp). Năm 1921 và 1922 Nguyễn An Ninh gia nhập Hội người Việt Nam yêu
nước, Hội liên minh nhân quyền và Hội liên hiệp thuộc địa do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Nguyễn
An Ninh tham gia viết bài cho báo La Tribune Annamite, Le Libertaire 1, tham gia viết bài và sửa
bài cho tờ Le Paria do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Trong thời gian này Nguyễn
An Ninh còn xin vào làm không công cho một số nhà in để học xếp chữ và học in, vào rừng ven
Paris để tập diễn thuyết. Từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1922 Nguyễn An Ninh đi tham quan một số
quốc gia châu Âu: Đức, Ý, Áo, Thụy Sĩ, Hà Lan, Bỉ để tìm hiểu cuộc sống của người dân, tìm
hiểu tổ chức chính quyền và chế độ cai trị của những quốc gia này.

'Nguyễn Thị Minh, sđd, trang 53.


18
Truyền thống yêu nước của gia đình đã tác động sâu sắc đến sự hình thành chí hướng của
Nguyễn An Ninh thời niên thiếu. Trong 4 năm từ 1918-1922, được tiếp xúc với những nhà yêu
nước lớn, dấn thân vào thực tế phong trào đấu tranh của kiều bào đã giúp Nguyễn An Ninh từng

bước hình thành nên chí hướng, con đường hoạt động cụ thể cho mình đồng thời tích lũy được
vốn kinh nghiệm hoạt động đáng quí. Đây cũng là giai đoạn để ông học hỏi, trau dồi kiến thức
phong phú thuộc nhiều lĩnh vực. Trong qúa trình học tập, dưới sự giúp đỡ và bảo trợ của các giáo
sư người Pháp, Nguyễn An Ninh đã xây dựng được mối quan hệ bạn bè rộng rãi với nhiều nhân
vật trí thức cấp tiến. Sự giao lưu tiếp xúc với họ đã giúp Nguyễn An Ninh mở mang tầm hiểu biết
đồng thời thiết lập được khối hậu thuẫn quan trọng ngay trong lòng nước Pháp.
Đen tháng 9, Nguyễn An Ninh lên Bộ Thuộc địa xin phép về nước. Ba tháng đầu tiên sau
khi về nước là khoảng thời gian Nguyễn An Ninh nghiền ngẫm, suy nghĩ, sắp xếp ý tưởng và tập
diễn thuyết trước dân chúng. Đó là thời gian ấp ủ và chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh phong phú,
sôi nổi và bền bỉ với chính quyền thực dân.


19

CHƯƠNG II
HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN AN NINH
TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG
Ở NAM KỲ (1922 -1931)

2.1. Bối cảnh lịch sử những năm đầu thập niên 20
2.1.1. Bối cảnh quốc tế
Thập niên 20 đánh dấu sự phát triển manh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước châu Á. Ản Độ là nơi phong trào đấu tranh diễn ra sớm nhất. Thủ lĩnh của phong trào đòi
độc lập ở Ấn Độ là Mahatma Gandhi. Gandhi chủ trương không sử dụng những biện pháp có tính
bạo lực mà huy động lực lượng tinh thần của cả dân tộc Ản Độ, dùng lực lượng tay không này để
chống lại thực dân Anh. Thời kỳ đầu ông vẫn nuôi niềm tin vào “một nước Anh khác”, cho rằng
những điều tệ hại diễn ra ở An Độ chỉ là một ngoại lê, và ông tin rằng khi chính phủ Anh biết về
tình trạng ở Ấn Độ, họ sẽ nhanh chóng đưa ra những cải cách cần thiết. Hưởng ứng lời kêu gọi
của Gandhi, hàng triệu người dân Ẩn Độ đã tham gia trong phong trào tẩy chay hàng dệt máy của
Anh. Nhiều cuộc đấu tranh qui mô lớn, quyết liệt đã nổ ra ở Bombay, Cancutta... Trước sức ép

đấu tranh của quần chúng thực dân Anh buộc phải nhượng bộ. Nhưng sau đó họ nhanh chóng trở
mặt: huỷ bỏ tất cả những quyền tự do, dân chủ đã ban hành, bắt giam Gandhi, đàn áp phong trào
đấu tranh của quần chúng.
Năm 1921 Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập. Trước họa ngoại xâm của đế quốc
Nhật, Tôn Trung Sơn đưa ra chủ trương hợp tác với Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân đảng, phong trào đấu tranh của nhân
dân Trung Quốc tiếp tục phát triển manh mẽ. Năm 1924 Công xã Quảng Châu được thành lập.
Nhưng sau đó không lâu, Tưởng Giới Thạch phản bội, quay ra đàn áp Công xã. Sự kiện này là
một minh chứng về tính chất hai mặt của giai cấp tư sản trong đấu tranh.
2.1.2 Bối cảnh trong nước
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, thực dân Pháp đẩy mạnh công cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai tại Đông Dương: tăng cường vơ vét tài


20
nguyên, bóc lột nhân công, tăng cường đầu tư vốn vào lĩnh vực nông nghiệp, khai mỏ, công nghiệp
chế biến...Dưới tác động của cuộc khai thác, đời sống nhân dân Việt Nam càng thêm điêu đứng,
khổ cực. Xã hội Việt Nam tiếp tục phân hoá sâu sắc. Giai cấp nông dân tiếp tục bị bần cùng hóa.
Nhiều người trở thành tá điền làm thuê, một bộ phận trở thành công nhân trong các đồn điền cao
su, hầm mỏ, nhà máy. Giai cấp địa chủ tiếp tục bị phân hóa. Đa số đại địa chủ có quyền lợi gắn
chặt với đế quốc, trung thành với chính quyền thuộc địa. Một bộ phận khác mà chủ yếu là địa chủ
loại vừa và nhỏ vẫn tham gia trong các phong trào yêu nước. Thời gian chiến tranh thế giới lần
thứ nhất diễn ra là “cơ hội vàng” để tư sản người Việt mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh,
số lượng và thế lực của họ tăng lên nhanh chóng. Những năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc,
giai cấp tư sản Việt Nam đã hình thành. Tuy nhiên thế lực của họ còn quá nhỏ bé so với tư sản
Pháp. Sự yếu kém về kinh tế là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thái độ bạc
nhược về chính trị nói chung của giai cấp này. Trong quá trình đấu tranh, lực lượng của giai cấp
tư sản bị phân hóa rõ rệt thành hai bộ phận: một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn bó mật
thiết với thực dân, tuyên bố trung thành với chính quyền thuộc địa và là cơ sở xã hội của chủ nghĩa
cải lương. Bộ phận còn lại có mâu thuẫn với thực dân, có tinh thần dân tộc nhưng tỏ thái độ hai

mặt trong đấu tranh. Bước sang thập niên 20, số lượng giai cấp công nhân có tăng lên (đến năm
1929 trên cả nước có khoảng 29 vạn công nhân) nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ quá nhỏ so với dân
số cả nước1. Đời sống của giai cấp công nhân vô cùng điêu đứng: phải lao động từ 12-16 tiếng
đồng hồ trong điều kiện độc hại với đồng lương chết đói, luôn luôn bị đe dọa, đánh đập...Trong
công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, lực lượng tiểu tư sản từng bước phát triển và trở thành
giai cấp. số lượng trí thức, công chức, học sinh tăng lên. Đây là bộ phận tiến bộ nhất trong giai
cấp tiểu tư sản, nhạy bén trong tiếp thu những học thuyết, hệ tư tưởng mới.
Trong suốt giai đoạn kể từ sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc cho đến đầu
thập niên 20, tại các đô thị không có một phong trào đấu tranh chống Pháp quy mô lớn nào nổ ra.
Ở nông thôn, các Hội kín vẫn tiếp tục tồn tại nhưng không manh như trước, không có hoạt động
nào nổi bật. Nhiều thủ lĩnh của các Hội kín bị bắt, xử tử hình hoặc lưu đày. Sau những thất bại
nặng nề trong hai lần đánh vào Sài Gòn - Chợ Lớn, quần chứng nhân dân đã nhận ra: bùa chú
không thể giúp gì được cho họ trước

1

Viện Sử học: Lịch sù Việt Nam, tập VIII (1919 - 1930), Nrf> KHXH, HN, 2007, ưang 363.


21
súng ống, vũ khí hiện đại của quân xâm lược. Thiếu một thủ lĩnh dẫn đường, chưa tìm ra hướng
đấu tranh mới, vĩ vậy phong trào chống Pháp của nông dân Nam Kỳ đi xuống rõ rệt và rơi vào bế
tắc. Lãnh tụ các phong trào đấu tranh trước đây như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh
Thúc Kháng, Nguyễn Quyền...người bị bắt, người đang lưu lạc xứ người. Phong trào giải phóng
dân tộc bế tắc về đường lối, thiếu vắng một thủ lĩnh tiên phong .
Trong suốt giai đoạn này hầu như chỉ có tiếng nói của giai cấp tư sản trên các báo và tạp
chí nhằm cổ vũ cho chủ nghĩa cải lương. Họ còn xin chính quyền thuộc địa ban hành một số quyền
tự do dân chủ cơ bản như tự do đi lại, tự do báo chí, xin cho Đông Dương độc lập như nước Anh
đã thực hiện với Canada. Do ảnh hưởng tuyên truyền của những tờ báo, tạp chí nói trên, không ít
người nhất là những người thuộc giai cấp tư sản, đại địa chủ và một bộ phận giai cấp tiểu tư sản

ở thành thị tin tưởng vào lời hứa cải cách của chính quyền thực dân, tin tưởng vào khả năng sẽ có
ngày người Pháp trả lại tự do cho Đông Dương hoặc ban hành những cải cách dân chủ.
Nam Kỳ là đất thuộc địa của Pháp, không còn quan hệ phụ thuộc với Nam triều. Tại vùng
đất này, qui định của thực dân Pháp có phần nới lỏng hơn: cá nhân được quyền tự do diễn thuyết
với điều kiện nội dung bài diễn thuyết không được xúi giục dân chúng chống lại nhà cầm quyền.
Các báo bằng tiếng Việt bị kiểm duyệt rất gắt gao, nhưng báo viết bằng tiếng Pháp thì được tự do.
Người Việt cũng có thể ra báo bằng Pháp ngữ miễn là có một người quốc tịch Pháp đứng tên làm
chủ bút. Dân chúng được quyền hội họp dưới 20 người mà không cần xin phép...Đó là những điều
kiện thuận lợi để hoạt động công khai mà vẫn gây được ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng.
2.2. Những hoạt động tiêu biểu của Nguyễn An Ninh trong phong trào yêu nước và
cách mạng ở Nam Kỳ giai đoạn 1922-1931.
Trở về nước, Nguyễn An Ninh đem theo hai hình thức đấu tranh mới là: ra báo đối lập và
diễn thuyết. Ngày 10/12/1923 Nguyễn An Ninh cho ra đời tờ La cloche fêlée mà đồng bào Nam
Kỳ thường gọi là Tiếng Chuông Rè. Nguyễn An Ninh là người sáng lập, là chủ nhiệm kiêm chủ
bút, tự viết bài, sửa bài. Sau khi báo ra được mấy số đầu, nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách làm
khó dễ cho tờ báo: đe dọa nhà in và các sạp báo, ra lệnh cấm học sinh, công chức không được đọc
báo. Nguyễn An Ninh phải tự đảm nhận cả công việc sắp chữ, in và tự đem báo đi bán. Sau đó vì
thiếu


22
nguồn tài chính nên ngày 14/7/1924 báo phải tự đình bản sau khi ra được 19 số. Một thời gian sau
Nguyễn An Ninh sang Pháp đón cụ Phan Châu Trinh về nước. Đen ngày 26/11/1925 tờ La cloche
fêlée được tục bản với số lượng phát hành lớn hơn (5000 bản) do luật sư Phan Vãn Trường làm
chủ nhiệm chính trị. Nội dung đấu tranh của tờ báo rất phong phú. Tờ báo còn đăng lại toàn bộ
tác phẩm “Nước Pháp ở Đông Dương”1. Đến ngày 3/5/1926, tờ La cloche fêlée đổi tên thành
L’Annam. Trong đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học cấp bộ “La cloche fêlée một thời vang
bóng” tác giả Phạm Thúy An đã chứng minh L’Ann am là của Nguyễn An Ninh, không phải của
Phan Văn Trường như nhiều người vẫn lầm tưởng.
Thời kỳ đầu, Nguyễn An Ninh chủ yếu diễn thuyết ở đô thị. Đối tượng diễn thuyết mà ông

hướng tới trong hai buổi diễn thuyết đầu tiên tại Hội quán của Hội Khuyến học Nam Kỳ là trí
thức, công chức, học sinh sinh viên. Ngoài ra ông còn tranh thủ diễn thuyết cho người dân lao
động nghèo ở thành thị ngay trên đường phố, khu chợ... « bù lại cho giới lao động bình dân không
đọc được báo mình, ông Ninh diễn thuyết cho họ nghe ít nhất mỗi ngày một lần....từ anh phu kéo
xe đến chị bán hàng2 ». Nhưng kể từ sau năm 1927, Nguyễn An Ninh không tham gia buổi diến
thuyết qui mô lớn nào ở thành thị. Nguyên nhân thứ nhất vì ông đang dồn sức cho quá trình vận
động thành lập Thanh niên Cao vọng ở nông thôn. Nguyên nhân thứ hai vì trong phiên toà xét xử
Nguyễn An Ninh, thực dân Pháp đã dùng những lời nói của ông trong buổi diễn thuyết ở Pháp tại
hội quán Sociétés Savantes để buộc tội, như vậy không thể tiếp tục tin vào việc áp dụng nguyên
tắc « khẩu thuyết vô bằng ». Vỉ vậy, kể từ năm 1927, địa bàn diễn thuyết chính của ông chuyển
về vùng nông thôn. Trong những chuyến đi nhằm vận động thành lập tổ chức Thanh niên Cao
vọng, Nguyễn An Ninh thường tổ chức nói chuyện, diễn thuyết trước đông đảo đồng bào thuộc
nhiều tầng lớp khác nhau : địa chủ, trí thức, hương chức hội tề, nông dân, người làm nghề tự do...
Tại các tỉnh miền Đông, ông nhờ những người có uy tín hẹn bà con trong vùng đến. Khi trời tối,
đồng bào tập trung ở chùa hoặc bãi ruộng vắng để nghe ông diễn thuyết. Ở miền Tây, có khi ông
mượn ngay nhà các đại điền chủ, tập hợp đông đảo dân chứng có khi lên tới vài trăm người để nói
chuyện. Có những buổi diễn thuyết của Nguyễn An Ninh được chuẩn bị trước với hàng trăm người
tham dự, và có cả những buổi diễn

Trước đó trong lần sang Pháp thứ 4, Nguyễn An Ninh đã cho in tác phẩm này và phát hành ờ
Pháp với số lượng 1850 bản, đem về nước 150 bản. Tạp chí Europe của Pháp có đăng lại toàn bộ tác
2
phẩm
này. Tín số 930, ra ngày 14/8/1979.
Báo Điện
1


×