Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

phân tích tình hình tài chính công ty cổ phần thủy điện điện lực đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.17 KB, 53 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới:
Tập thể giảng viên Khoa Kinh Tế cũng như toàn thể giảng viên trường Đại
Học Tây Nguyên đã truyền đạt cho em các kến thức chuyên môn trong suốt quá
trình học tập và rèn luyện tại trường.
Cô Bùi Thị Thu Hằng giảng viên khoa Kinh Tế, trường Đại Học Tây Nguyên
đã trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo tận tình em trong suốt quá trình thực tập và viết báo
cáo thực tập.
Ban Giám đốc và tập thể cán bộ nhân viên Công ty cổ phần Thủy điện Điện
lực Đăk Lăk, đặc biệt là các anh, chị đang làm việc tại phòng kế toán đã tạo điều
kiện thuận lợi, giúp đỡ em làm quen với thực tế công việc, giải đáp các thắc mắc và
cung cấp các số liệu cần thiết để em hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do kiến thức và thời gian có hạn chế nên
đề tài không tránh được những thiếu sót, vì vậy rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của Quý Thầy Cô và độc giả để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU

CỤM TỪ VIẾT TẮT

Ý NGHĨA

BĐS

Bất động sản



CTY

Công ty

CSH

Chủ sở hữu

DT

Doanh thu

TS

Tài sản

TSDH

Tài sản dài hạn

TSNH

Tài sản ngắn hạn

TSCĐ

Tài sản cố định

TSLĐ


Tài sản lưu động

VLĐ

Vốn lưu động

2


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG

3


THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế Việt Nam 2015 đã đạt được những thành tựu nổi bật như đã
ngăn chặn được sự suy giảm kinh tế, tăng trưởng khá và làm tăng nguồn lực cho
đầu tư phát triển, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn đó một số khó khăn
thách thức như vấn đề giải quyết việc làm, tình trạng nhập siêu cao và đặc biệt là tỉ
lệ lạm phát qua các năm. Bên cạnh đó, trước sự cạnh tranh quyết liệt của các thành
phần trong nền kinh tế thị trường hiện nay, có một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ,
phải giải thể hoạt động kinh doanh của mình nhưng cũng có một số doanh nghiệp
trụ vững được và hoạt động bình thường mặc dù các doanh nghiệp này cũng chịu
không ít ảnh hưởng từ cuộc khùng hoảng kinh tế toàn cầu. Vậy thì câu hỏi được đặt
ra là tại sao lại có sự khác biệt giữa những doanh nghiệp đó? Câu trả lời có liên
quan đến nhiệm vụ phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty, doanh
nghiệp đó.

Việc thường xuyên tiến hành và tiến hành có hiệu quả hoạt động phân tích
tài chính doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được thực trạng tài chính của
doanh nghiệp mình, xác định đúng đắn và đầy đủ nguyên nhân cũng như mức độ
ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính, từ đó có các kế hoạch quản lý và
tổ chức sản xuất kinh doanh, đề ra các chiến lược phù hợp với tình hình tài chính
của doanh nghiệp hiện tại và trong tương lai thông qua công việc tiến hành dự báo,
dự đoán các điều kiện kinh doanh. Mặt khác phân tích tài chính doanh nghiệp là
công việc được quan tâm và yêu cầu thường xuyên bởi nhiều đối tượng như nhà
quản lý, nhà đầu tư, ngân hàng. Các đối tượng sẽ nhờ đó mà đưa ra các quyết định
để phục vụ cho lĩnh vực quản lý của họ. Qua đó, từ các tác nhân chủ quan và khách
quan, từ các nhân tố bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đó cũng là một trong những mục tiêu lớn
nhất của tất cả các doanh nghiệp. Nhờ vậy doanh nghiệp mới tạo được uy tín cũng
như thương hiệu của mình, ổn định tình hình tài chính, hạn chế những rủi ro luôn
tiềm ẩn và có thể đứng vững và phát triển.

4


Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc phân tích tài chính
trên kết hợp với những kiến thức đã được học tại trường trong những năm học trước
mà em đã chọn đề tài: “Phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Thủy
điện Điện lực Đắk Lắk” để làm chuyên đề thực tập.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng tài chính tại Công ty cổ phần Thủy điện Điện lực Đắk
Lắk.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác phân tích tài chính của
Công ty cổ phần Thủy điện Điện lực Đắk Lắk.


5


PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công
cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý
nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và
chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và tiềm lực của
doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết
định quản lý phù hợp[1].
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro phá
sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, đánh
giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra
những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của
doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự
đoán tài chính - một trong các hướng dự đoán doanh nghiệp. Phân tích tài chính có
thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau: với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị
các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà
phân tích (trong doanh nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp).
2.1.2 Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp hay cụ thể hoá là việc phân
tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối chiếu, so sánh
các số liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá khứ nhằm mục
đích đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương
lai. Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn và

công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh
nghiệp. Báo cáo tài chính rất hữu ích đối việc quản trị doanh nghiệp, đồng thời là
nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người bên ngoài doanh nghiệp. Do

6


đó, phân tích báo cáo tài chính là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau
như nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách
hàng, các nhà cho vay tín dụng, các cơ quan chính phủ, người lao động... Mỗi nhóm
người này có những nhu cầu thông tin khác nhau[1].
Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý tài
chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình
đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy
sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như : chủ
doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng... kể cả các cơ quan Nhà nước
và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp trên các góc độ khác nhau.
2.1.3 Nhiệm vụ của phân tích tài chính
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nhiệm vụ của việc phân tích tình hình tài
chính là việc cung cấp những thông tin chính xác về moị mặt tài chính của doanh
nghiệp, bao gồm:
- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt đảm bảo vốn
cho sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình nguồn vốn
- Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và kết
quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán.
- Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh hưởng
đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những biện pháp có hiệu
quả để khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực tiềm tàng của

doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.1.4 Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
2.1.4.1 Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đấy là một báo cáo tài chính
phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định,
dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản. Xét về bản
chất, bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với vốn chủ sở
hữu và công nợ phải trả( nguồn vốn).

7


Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, tài liệu chủ yếu là bản
cân đối kế toán.Thông qua nó cho phép ta nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát
tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những
triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán có hai hình thức trình bày:
- Hình thức cân đối hai bên: Bên trái là phần tài sản, bên phải là phần nguồn
vốn.
- Hình thức cân đối hai phần liên tiếp: phần trên là phần tài sản, phần dưới
là phần nguồn vốn.
Mỗi phần đều có số tổng cộng và số tổng cộng của hai phần luôn luôn bằng
nhau.
Tài sản = Nguồn vốn
Hay Tài sản = Vốn chủ sở hữu+ Nợ phải trả


Phần tài sản: Bao gồm có tài sản lưu động và tài sản cố định.
Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền

quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương
lai.
Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu của phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát về quy mô
vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng vốn của doanh
nghiệp.



Phần nguồn vốn: Bao gồm công nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, phản ánh
các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý, phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật
chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn( Nhà nước, ngân hàng, cổ
đông, các bên liên doanh...). Hay nói cách khác thì các chỉ tiêu bên phần nguồn vốn
thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh, về số
tài sản hình thành và trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ( với người lao động,
với nhà cung cấp, với Nhà nước...).
Về mặt kinh tế, phần nguồn vốn thể hiện các nguồn hình thành tài sản hiện
có, căn cứ vào đó có thể biết tỷ lệ, kết cấu của từng loại nguồn vốn đồng thời phần
nguồn vốn cũng phản ánh được thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Tác dụng của phân tích bảng cân đối kế toán[2]:

8


+ Cho biết một cách khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua
các chỉ tiêu về tổng tài sản và tổng nguồn vốn.
+ Thấy được sự biến động của các loại tài sản trong doanh nghiệp : tài sản
lưu động, tài sản cố định.
+ Khả năng thanh toán của doanh nghiệp qua các khoản phải thu và các
khoản phải trả.

+ Cho biết cơ cấu vốn và phân bổ nguồn vốn trong doanh nghiệp.
2.1.4.2 Báo cáo kết quả kinh doanh
Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích
tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Khác với
bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự dịch chuyển
của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; nó cho phép dự tính
khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai.
Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh đồng thời cũng giúp cho nhà phân tích
so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi
phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có
thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh : lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo
cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh
tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp
những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao
động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Biểu mẫu “Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh” có 3 phần:
+ Phần I: Lãi, lỗ.
+ Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
+ Phần III: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn
giảm.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được lập trên cơ sở các tài
liệu:
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước.
+ Sổ kế toán trong kỳ của các tài khoản từ loại 5 đến loại 9.
+ Sổ kế toán các tài khoản 133 “Thuế GTGT được khấu trừ” và tài khoản
333 “Thuế GTGT phải nộp”.

9



Tác dụng của việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh[2]:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh các chỉ tiêu về doanh thu,
lợi nhuận và tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của doanh
nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng cho ta đánh
giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được trong kỳ doanh nghiệp
kinh doanh có lãi hay bị lỗ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và vốn là bao nhiêu. Từ
đó tính được tốc độ tăng trưởng của kỳ này so với kỳ trước và dự đoán tốc độ tăng
trong tương lai.
Ngoài ra, qua việc phân tích tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước,
ta biết được doanh nghiệp có nộp thuế đủ và đúng thời hạn không. Nếu số thuế còn
phải nộp lớn chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là không
khả quan.
Như vậy, việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp ta có
những nhận định sâu sắc và đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
2.1.4.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà
bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của
doanh nghiệp. Nếu bảng cân đối kế toán cho biết những nguồn lực của cải (tài sản)
và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập
và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo
cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng tiền vào ra
trong doanh nghiệp, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Những luồng vào
ra của tiền và các khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm : lưu chuyển
tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính
và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất thường.
2.1.4.4 Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình
hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính, đồng thời giải
thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày nhằm
giúp cho người đọc và phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính có một cái nhìn

cụ thể và chi tiết hơn về sự thay đổi những khoản mục trong bảng cân đối kế toán
và kết quả hoạt động kinh doanh.

10


“Thuyết minh báo cáo tài chính” được lập căn cứ vào những số liệu và những tài
liệu sau:
+ Các sổ kế toán kỳ báo cáo.
+ Bảng cân đối kế toán kỳ báo cáo.
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ báo cáo.
+ Thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước, năm trước.
Tác dụng của việc phân tích” Thuyết minh báo cáo tài chính”[2]:
Phân tích thuyết minh báo cáo tài chính sẽ cung cấp bổ sung những thông tin
chi tiết, cụ thể hơn về một số tình hình liên quan đến hoạt động kinh doanh trong kỳ
của doanh nghiệp. Cụ thể:
+ Phân tích chỉ tiêu “Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố” sẽ cho ta
biết tình hình biến động của chi phí trong kỳ theo từng yếu tố chi phí: nguyên vật
liệu, nhân công, khấu hao.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm tài sản cố định” sẽ cho ta biết
được tình hình biến động của tài sản cố định trong kỳ theo từng loại. Qua đó, đánh
giá được tình hình đầu tư, trang bị tài sản cố định của doanh nghiệp và xây dựng
được kế hoạch đầu tư.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình thu nhập của công nhân viên” sẽ giúp ta
có những đánh giá chính xác hơn về sự phát triển của doanh nghiệp bởi vì không
thể nói một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nếu thu nhập của người lao đông
có xu hướng giảm theo thời gian và thấp so với mặt bằng chung được. Thu nhập của
công nhân viên phải gắn liền với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu” để thấy
được tình hình biến động của tổng số nguồn vốn chủ sở hữu cũng như từng loại

nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Qua đó, đánh giá được tính hợp lý của
việc hình thành và sử dụng từng nguồn vốn chủ sở hữu.
+ Phân tích “Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào các đơn vị khác”
để nắm được tình hình đầu tư và hiệu quả đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Phân tích chỉ tiêu “Các khoản phải thu và nợ phải trả” sẽ nắm được tình
hình thanh toán các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả trong kỳ của doanh
nghiệp.

11


Tình hình thanh toán các khoản phải thu và các khoản phải trả là một trong
những chỉ tiêu phản ánh khá sát thực chất lượng hoạt động tài chính. Nếu hoạt động
tài chính tốt, lành mạnh doanh nghiệp sẽ thanh toán kịp thời các khoản nợ phải trả
cũng như thu kịp thời các khoản nợ phải thu, tránh được tình trạng chiếm dụng vốn
lẫn nhau cũng như tình trạng công nợ dây dưa kéo dài, tình trạng tranh chấp, mất
khả năng thanh toán.
Phân tích các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận sẽ phản ánh hiệu quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Các tỷ suất lợi nhuận càng lớn so với trước thì chứng
tỏ hiệu quả kinh doanh càng tăng.
2.1.5 Các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp
Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân
thành 4 nhóm chính. Đó là : nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về khả
năng cân đối vốn, nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh
lãi[3].
Nhìn chung, mối quan tâm trước hết của các nhà phân tích tài chính là tình
hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh không? Liệu doanh nghiệp có khả
năng đáp ứng được những khoản nợ đến hạn không? Nhưng tuỳ theo mục đích phân
tích tài chính mà nhà phân tích tài chính chú trọng nhiều hơn đến nhóm tỷ lệ này
hay nhóm tỷ lệ khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm đến tình

hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan
tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động có lãi và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Họ
cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của
doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu chi trả hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả
năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ lệ
cân đối vốn vì sự thay đổi tỷ lệ này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ.
Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin về
từng vấn đề cụ thể liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người phân
tích là phải tìm hiểu mối liên hệ giữa các nhóm tỷ lệ để từ đó đưa ra kết luận khái
quát về toàn bộ tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phân
tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ tài chính riêng rẽ thì tự nó không nói lên điều gì. Nó
cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các năm khác nhau của chính doanh nghiệp đó và
so sánh với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành.

12


Mỗi nhóm tỷ lệ trên bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ lệ được
lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích.
Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét cả bốn nhóm tỷ lệ thường dùng để
phân tích và đánh giá hoạt động tài chính doanh nghiệp.
a. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của
mình các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn cần đến
nguồn tài trợ khác là vay nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều đối tượng
và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để đi
đến quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ hay không thì họ đều quan tâm đền khả
năng thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa
các khoản phải có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong

kỳ. Việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ
nợ giảm được rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn
giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế để từ đó có biện
pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý nhằm nâng
cao khả năng thanh toán.
*Các tỷ lệ về thanh toán bao gồm :
 Hệ số thanh toán hiện hành
Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn. Tài sản
lưu động thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải
thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải
trả khác...Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định - tới một
năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn
của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được
trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương ứng
với thời hạn của các khoản nợ đó.
Công thức của khả năng thanh toán chung như sau :
Hệ số thanh toán hiện

=

hành(ngắn hạn)

13

Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn


Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh

nghiệp càng tốt và ngược lại. Nêú khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1 thì doanh
nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu con số này quá
cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so với
nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế
mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải phân
bổ vốn như thế nào cho hợp lý.
 Hệ số thanh toán nhanh
Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp
có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với
chi phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản
mục trong tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần
phải xét đến hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
Hệ số thanh toán nhanh được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh
cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm : tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu.
Hàng tồn kho là tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ
bị lỗ khi đem bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn
trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán dự trữ (tồn kho).
Hệ số thanh toán nhanh
(thanh toán tức thời)

=

Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Khoản phải thu
Nợ ngắn hạn

Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống
như trường hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số thanh
toán tức thời là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc

thanh toán nợ.
b. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn
Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ

14


đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ
nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp để thể hiện mức độ tin tưởng vào
sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ
trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh là do các chủ
nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh
nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, các
khoản vay cũng tạo ra những khoản tiết kiệm nhờ thuế do chi phí cho vốn vay là chi
phí trước thuế.
Những doanh nghiệp có tỷ lệ này thấp phải chịu rủi ro lỗ ít hơn khi nền kinh
tế suy thoái đồng thời có lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn so với doanh nghiệp có tỷ lệ
này cao trong nền kinh tế bùng nổ. Hay nói cách khác, những doanh nghiệp có tỷ lệ
nợ cao có nguy cơ lỗ lớn nhưng lại có cơ hội nhận được lợi nhuận cao. Tuy lợi
nhuận kỳ vọng cao nhưng phần lớn các nhà đầu tư đều rõ´t so? rủi ro. Vì thế quyết
định về sử dụng nợ phải được cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro.
Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả năng
tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ chủ động trong sản xuất kinh doanh hay những
khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn.
 Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản
Hệ số nợ

Tổng nợ
Tổng tài sản


=

Tỷ số này (thường tính bằng %) được tính bằng cách lấy tổng nợ (tức là gồm
cả nợ ngắn hạn lẫn nợ dài hạn) của doanh nghiệp trong một thời kỳ nào đó chia cho
giá trị tổng tài sản trong cùng kỳ. Các số liệu này có thể lấy từ bảng cân đối kế
toán của doanh nghiệp.
Tỷ số này cho biết có bao nhiêu phần trăm tài sản của doanh nghiệp là từ đi
vay. Qua đây biết được khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Tỷ số này mà
quá nhỏ, chứng tỏ doanh nghiệp vay ít. Điều này có thể hàm ý doanh nghiệp có khả
năng tự chủ tài chính cao. Song nó cũng có thể hàm ý là doanh nghiệp chưa biết
khai thác đòn bẩy tài chính, tức là chưa biết cách huy động vốn bằng hình thức đi
vay. Ngược lại, tỷ số này mà cao quá hàm ý doanh nghiệp không có thực lực tài
chính mà chủ yếu đi vay để có vốn kinh doanh. Điều này cũng hàm ý là mức độ rủi
ro của doanh nghiệp cao hơn.

15


 Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi
Tỷ lệ này được xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho
lãi tiền vay.
Khả năng thanh toán lãi vay

Lợi nhuận trước thuế và lãi
Chi phí lãi vay

=

Khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả

năng trả lãi hàng năm. Việc không trả được các khoản nợ này có thể làm cho doanh
nghiệp bị phá sản. Cùng với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ này giúp ta thấy được
tình trạng thanh toán công nợ của doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ nợ trên tổng
tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi thấp so với mức trung bình của ngành
sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc muốn gia tăng nợ.
 Tỷ số nợ trên vốn CSH
Tỷ số nợ trên vốn CSH

=

Tổng nợ
Vốn chủ sở hữu

Tỷ số này cho biết quan hệ giữa vốn huy động bằng đi vay và vốn chủ sở
hữu. Tỷ số này nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp ít phụ thuộc vào hình thức huy động vốn
bằng vay nợ; có thể hàm ý doanh nghiệp chịu độ rủi ro thấp. Tuy nhiên, nó cũng có
thể chứng tỏ doanh nghiệp chưa biết cách vay nợ để kinh doanh và khai thác lợi ích
của hiệu quả tiết kiệm thuế.
c. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng
nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư cho các
loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân
tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn
mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của
doanh nghiệp.
Chỉ tiêu doanh thu thuần được sử dụng chủ yếu trong các tỷ lệ này nhằm tính
tốc độ quay vòng của một số đại lượng rất cần cho quản lý tài chính ngắn hạn. Các
tỷ lệ này cho ta những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng tài chính và
khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.
 Vòng quay hàng tồn kho


16


Dự trữ và tồn kho thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Vì vậy, một mặt ta phải giới hạn mức dự trữ này ở mức tối ưu, mặt
khác tăng vòng quay của chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo
tính liên tục của sản xuất và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Khoản đầu tư này
được giải phóng sau khi sản phẩm được tiêu thụ.
Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng công thức dưới
đây.
Vòng quay hàng tồn kho

Doanh thu thuần
Hàng tồn kho

=

 Kỳ thu tiền bình quân
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu là điều
khó tránh khỏi. Nhờ bán chịu, doanh nghiệp có thể thu hút thêm khách hàng, mở
rộng thị trường và duy trì thị trường truyền thống, do đó có thể giảm hàng tồn kho,
duy trì được mức sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị. Hơn nữa,
nó còn có thể mang lại lợi nhuận tiềm năng cao hơn nhờ việc tăng giá do khách
hàng mua chịu.
Song việc bán hàng chịu cũng đẩy doanh nghiệp vào tình trạng phải đối mặt
không ít với các rủi ro. Đó là giá trị hàng hoá lâu được thực hiện dẫn đến giảm tốc
độ chu chuyển của vốn, đặc biệt trong tình trạng thiếu vốn doanh nghiệp phải huy
động nguồn tài trợ cho việc bán chịu; một điều đáng lo ngại hơn là rủi ro về khả

năng thu nợ, chi phí đòi nợ. Vì vậy, nhiệm vụ của người quản lý doanh nghiệp là
phải quan tâm đến kỳ thu tiền bình quân và có biện pháp rút ngắn thời gian này.
Kỳ thu tiền bình quân được tính theo công thức sau (đơn vị của công thức
này là ngày) :

Kỳ thu tiền bình quân

=

Các khoản phải thu
Doanh thu thuần

x 360

 Vòng quay vốn lưu động
Doanh thu thuần
Vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ TSLĐ quay được bao nhiêu vòng và cho ta
Vòng quay vốn lưu động

=

biết tương ứng với một đồng TSLĐ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.

17


Ngoài ra chỉ tiêu này nói lên trong một năm (quý), vốn lưu động quay
được bao nhiêu vòng. Số vòng quay càng nhiều thì hiệu quả đồng vốn đem lại
càng cao. Số nghịch đảo của chỉ tiêu trên gọi là hệ số bảo đảm. Hệ số bảo đảm cho

thấy muốn có một đơn vị khối lượng sản phẩm thực hiện cần thiết phải có bao
nhiêu đơn vị vốn lưu động, hoặc một đồng giá trị sản phẩm thực hiện phải có bao
nhiêu đồng vốn lưu động.
 Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Doanh thu thuần
TSCĐ bình quân

Hiệu suất sử dụng TSCĐ =

Chỉ tiêu chất lượng được thể hiện dưới hình thức giá trị về tình hình và kết
quả sử dụng tài sản cố định trong một thời gian nhất định. Trong sản xuất - kinh
doanh, chỉ tiêu này là quan hệ so sánh giữa giá trị sản lượng đã được tạo ra với giá
trị tài sản cố định sử dụng bình quân trong kì; hoặc là quan hệ so sánh giữa lợi
nhuận thực hiện với giá trị tài sản cố định sử dụng bình quân. Nó chỉ ra một đồng
giá trị tài sản cố định làm ra được bao nhiêu đồng giá trị sản lượng hoặc lợi nhuận.
Được dùng để đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp trong
các thời kì khác nhau, hoặc trong quan hệ so sánh với các doanh nghiệp cùng loại.
 Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Tỷ lệ này cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó
cũng thể hiện số vòng quay trung bình của toàn bộ vốn của doanh nghiệp trong kỳ
báo cáo. Hệ số này làm rõ khả năng tận dụng vốn triệt để vào sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Việc tăng vòng quay vốn kinh doanh này là yếu tố quan trọng
làm tăng lợi nhận cho doanh nghiệp đồng thời làm tăng khả năng cạnh tranh, tăng
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.

Hiệu suất sử dụng tổng tài sản

=

Doanh thu thuần

Tổng tài sản

d. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố vì thế
khác với các tỷ lệ tài chính phân tích ở trên chỉ phán ánh hiệu quả từng hoạt động
riêng biệt của doanh nghiệp, tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu

18


quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Mục đích chung
của các doanh nghiệp là làm sao để một đồng vốn bỏ ra mang lại hiệu quả cao nhất
và khả năng sinh lời nhiều nhất. Để đánh giá khả năng sinh lời người ta dùng các
chỉ tiêu sau:
 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận

Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần

=

trên doanh thu

Chỉ tiêu trên phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu.
Chỉ tiêu này có thể tăng giảm giữa các kỳ tuỳ theo sự thay đổi của doanh thu thuần
và chi phí. Nếu doanh thu thuần giảm hoặc tăng không đáng kể trong khi đó chi phí
tăng lên với tốc độ lớn hơn sẽ dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm và kết quả là doanh
lợi tiêu thụ sản phẩm thấp. Khi đó, doanh nghiệp vẫn cần xác định rõ nguyên nhân
của tình hình để có giải pháp khắc phục.

 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận ròng cho các chủ
nhân của doanh nghiệp đó. Hế số doanh lợi vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu đánh giá mức
độ thực hiện mục tiêu này
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Hệ số này cho ta biết với một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra thì chủ doanh
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu =

nghiệp thu được về bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.
 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng nguồn vốn (ROA)
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng

=

Lợi nhuận sau thuế
Tổng nguồn vốn

nguồn vốn
Chỉ tiêu này phản ảnh khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư.
2.2 Cơ sở thực tiễn.

Theo Quyết định số 219/2000/QĐ - BTC ngày 29/12/2000 của Bộ trưởng Bộ
Tài chính về việc ban hành và công bố sáu (06) Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
(đợt 2), quy trình phân tích qui định rõ kiểm toán viên phải tiến hành so sánh các

19


thông tin tài chính tương ứng trong kỳ này với các kỳ trước; giữa thực tế với kế

hoạch của đơn vị; giữa thực tế với ước tính của kiểm toán viên; giữa thực tế của đơn
vị với các đơn vị trong cùng ngành có cùng quy mô hoạt động, hoặc với số liệu
thống kê, định mức cùng ngành; giữa các thông tin tài chính với nhau hoặc giữa các
thông tin tài chính với các thông tin phi tài chính. Quyết định trên cũng chỉ rõ:
Trong quá trình thực hiện quy trình phân tích, kiểm toán viên được phép sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau, từ việc so sánh đơn giản đến những phân tích phức
tạp đòi hỏi phải sử dụng các kỹ thuật thống kê tiên tiến và kiểm toán viên có quyền
lựa chọn quy trình phân tích, phương pháp và mức độ áp dụng tuỳ thuộc vào sự xét
đoán chuyên môn của mình.
Với qui định trên, khi tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính, việc phân tích
báo cáo tài chính mặc dầu được đặt ra trong kế hoạch kiểm toán nhưng hầu như chỉ
là phân tích chiếu lệ. Các kiểm toán viên và các công ty kiểm toán độc lập vẫn chưa
xây dựng được cho mình một nội dung và phương pháp phân tích báo cáo tài chính
doanh nghiệp một cách khoa học cùng với hệ thống chỉ tiêu phân tích hợp lý, phản
ánh đúng thực trạng tài chính doanh nghiệp. Chính vì thế, kết quả phân tích báo cáo
tài chính của các kiểm toán viên không thể sử dụng để phục vụ cho việc giảm bớt
rủi ro trong kiểm toán báo cáo tài chính chứ chưa nói đến đánh giá thực trạng tài
chính và an ninh tài chính doanh nghiệp. Kết quả này lại càng không thể thỏa mãn
khách hàng một khi phân tích báo cáo tài chính trở thành một dịch vụ chính thức
trong hoạt động của các công ty kiểm toán độc lập.
Qua khảo sát thực tế, nội dung phân tích báo cáo tài chính trong hoạt động
kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập còn khá đơn giản, chủ yếu phân tích
trên một số chỉ tiêu tài chính phản ánh trên báo cáo tài chính mà doanh nghiệp đã
lập. Đây là những chỉ tiêu tài chính cơ bản trước đây phản ánh trên Thuyết minh
báo cáo tài chính (Mẫu B09 - DN) còn hiện nay các chỉ tiêu này được phản ánh trên
Báo cáo của Ban Giám đốc hoặc phản ánh trên Báo cáo thường niên hay Bản cáo
bạch của công ty. Theo đó, các chỉ tiêu tài chính cơ bản thường được sử dụng để
phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp bao gồm 4 nhóm: nhóm chỉ tiêu phản ánh
cân đối vốn, nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu phản ánh
khả năng sinh lợi và nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động.


20


PHẦN THỨ BA
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu
- Phân tích tình hình tài chính tại Công Ty cổ phần Thủy điện Điện lực Đắk
Lắk.

21


3.1.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại Công ty cổ phân Thủy
điện Điện lực Đắk Lăk, số 02 Hùng Vương, Phường Tự An, Thành phố Buôn Ma
Thuột, Tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi về thời gian: Số liệu nghiên cứu được thu thập qua 3 năm: 2013,
2014, 2015.
- Phạm vi về nội dung: Phân tích tình hình tài chính của công ty thông qua
các bản báo cáo tài chính, nhằm tìm ra các mặt mạnh và cả mặt bất ổn. Từ đó đề
xuất những biện pháp quản trị tài chính đúng đắn và kịp thời để phát huy ở mức cao
nhất hiệu quả sử dụng vốn.
3.2 Nội dung nghiên cứu
+ Tìm hiểu về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về việc phân tích tình hình tài
chính của công ty.
+ Đánh giá khái quát tình hình tài chính.
+ Phân tích kết cấu tài chính và tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh
doanh.

+ Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của công ty.
+ Phân tích hiệu quả kinh doanh.
+ Phân tích các chỉ số tài chính thông qua báo cáo tài chính của công ty.
+ Phân tích hiệu quả sử dụng vốn, khả năng sinh lời của vốn và nguồn vốn.
3.3 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.3.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tiềm năng phát triền địa bàn Đăk Lăk
Đắk Lắk nằm ở vị trí trung tâm của vùng Tây Nguyên (Đắk Lắk, Gia Lai,
Kon Tum, Lâm Đồng và Đăk Nông), diện tích tự nhiên 13,125km 2, trong đó chủ
yếu là đất Bazan phù hợp với các loại cây công nghiệp như: cà phê, cao su, tiêu,
điều… Dân số khoảng 1,8 triệu người. Phía bắc giáp tỉnh Gia Lai qua quốc lộ 14 sẽ
đến trung tâm kinh tế Đà Nẵng và khu công nghiệp Dung Quất, khu kinh tế mở Chu
Lai (Quảng Nam, Quảng Ngãi). Phía đông giáp tỉnh Khánh Hoà qua quốc lộ 26, đây
là trung tâm du lịch lớn của cả nước, đồng thời có cảng biển giao thương hàng hoá
với nước ngoài. Phía nam là các tỉnh Đăk Nông, Bình Phước, Bình Dương và
Thành phố Hồ Chí Minh qua quốc lộ 14. Đây là trung tâm kinh tế trọng điểm của
phía Nam. Phía tây là vương quốc Campuchia thông qua cửa khẩu kinh tế Đăk Ruê.

22


Đắk Lắk nói riêng và Tây Nguyên nói chung sẽ hình thành mạch giao thông
rất thuận lợi để phát triển thương mai - dịch vụ. Cùng với việc Chính phủ đầu tư
tuyến đường Hồ Chí Minh, hàng loạt các công trình đầu tư nhằm khai thác lợi thế
của tuyến giao thông này. Điển hình là việc đầu tư xây dựng cửa khẩu quốc tế Bờ Y
(Kon Tum) và các trục giao thông sẽ hình thành nhánh của con dường xuyên Á bắt
đầu từ Côn Minh (Trung Quốc) - Myanmar - Lào - Thái Lan qua cửa khẩu Bờ Y tạo
mối quan hệ thương mại quốc tế giữa các tỉnh Đông Bắc Thái Lan, Nam Lào với
các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ. Đây cũng là điều
kiện khá lý tưởng để thu hút khách du lịch các nước theo tuyến đường bộ này vào
Tây Nguyên - Đắk Lắk cũng như khuyến khích du khách Đắk Lắk nói riêng và khu

vực Tây Nguyên nói chung đi du lịch nước ngoài.
Đường giao thông nội tỉnh được đầu tư mở mới và nâng cấp thuận lợi có thể
thông thương đến biên giới Campuchia. Với một vị trí thuận lợi như vậy, Đắk Lắk
sẽ là trung tâm giao lưu hàng hoá giữa các vùng và tạo điều kiện cho phát triển du
lịch, dịch vụ trong những năm tới đây.
Đường hàng không: Hàng ngày có các chuyến bay từ Buôn Ma Thuột đi Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và ngược lại bằng máy bay cỡ trung A320.
Cụm cảng Hàng không Buôn Ma Thuột đang tiếp tục được đầu tư xây dựng hệ
thống sân bãi và cơ sở vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu giao thông trong tương lai.
Đến năm 2020, quy hoạch mạng lưới giao thông đường bộ tỉnh Đắk Lắk được dự kiến như
sau:
- Nâng cấp 4 tuyến quốc lộ, các tuyến tỉnh lộ hiện có.
- Qui hoạch thêm tuyến quốc lộ mới (Đắk Lắk - Phú Yên), đường Trường
Sơn Đông và nâng cấp từ các tuyến huyện lộ lên tỉnh lộ.
- Cải tạo nâng cấp hệ thống huyện lộ, đường đô thị, đường xã, hệ thống
đường thôn, buôn và các đường chuyên dùng nông, lâm nghiệp.
- Tạo thành mạng lưới giao thông tương đối hoàn chỉnh nối với mạng lưới
đường quốc gia và nối với các tuyến đường trong Tam giác phát triển 3 nước Việt
Nam - Lào - Cămpuchia.
- Quy hoạch, xây dựng điểm dừng, điểm nghỉ tại đèo Hà Lan - Krông Buk
trên tuyến đường Hồ Chí Minh.

23


- Dự kiến quy hoạch xây dựng trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột có 3
bến xe khách, 1 bến xe buýt ở trung tâm thành phố, hình thành mạng lưới các điểm
đỗ xe buýt nội thị và đến các điểm ven đô, các huyện lân cận, 3 bãi đỗ xe tải các bãi
đỗ xe con, xe du lịch ở những nơi tham quan, du lịch, khu vui chơi giải trí, trung
tâm thương mại, chợ. Tại ở mỗi thị xã, mỗi huyện có từ 1- 2 bến xe khách.

- Xây dựng một trung tâm sát hạch lái xe của tỉnh và mạng lưới Trung tâm
đăng kiểm xe cơ giới tại thành phố Buôn Ma Thuột và khu vực các huyện lân cận
thành phố.
Giao thông hàng không: Cảng hàng không Buôn Ma Thuột hiện tại là cấp 4E
cho loại máy bay A 321 lên xuống, trong khi đó công suất nhà ga 150.000 hành
khách/năm. Đến năm 2010 phục vụ 300.000 hành khách/năm (năm 2020 là
800.000) và 3.000 tấn hàng hóa/năm.
Giao thông đường sắt: Qui hoạch tuyến đường sắt Tuy Hòa - Buôn Ma Thuột
có tổng chiều dài 160 km, trong đó đoạn nằm trên địa phận tỉnh Đắk Lắk dài
khoảng 85 km; tổng số ga trên toàn tuyến là 8 ga, trong đó trên địa phận tỉnh
ĐắkLắk có 5 ga.
Toàn bộ hệ thống viễn thông đã được số hóa, nhiều thiết bị hiện đại đã được
đưa vào sử dụng. Hệ thống điện thoại cố định đến trung tâm tất cả các xã trong tỉnh,
tỷ lệ điện thoại cố định đạt 5,2 máy/ 100 dân. Hiện tại tất cả các huyện trong tỉnh đã
có sóng di động, với các nhà cung cấp dịch vụ: Mobifone, Vinaphone, Viettel, SFone, EVN Telecom, HT Mobile.Dịch vụ internet ADSL hiện tại đã có ở hầu hết tất
cả các huyện trong tỉnh, với 2 nhà cung cấp dịch vụ VDC và Viettel.
Quy hoạch đến 2010 và 2015
Năm 2010 mạng thông tin quốc gia nối tới tất cả các huyện và nhiều xã trong
tỉnh bằng cáp quang và các phương thức truyền dẫn băng rộng khác; ít nhất 30% số
thuê bao có khả năng truy cập viễn thông và internet băng rộng. Tất cả các cơ quan
hành chính nhà nước, chính quyền cấp huyện và thành phố được kết nối internet
băng thông rộng và kết nối mạng diện rộng của Chính phủ. 100% số xã trong tỉnh
có điện thoại; 100% các điểm bưu điện văn hóa xã và các trung tâm giáo dục cộng
đồng được kết nối internet.

24


Đẩy mạnh phát triển dịch vụ di động, internet, thương mại điện tử, dịch vụ
phục vụ Chính phủ điện tử, dịch vụ công, dịch vụ công cộng và các dịch vụ giá trị

gia tăng khác trên địa bàn tỉnh.
3.3.2 Khái quát về công ty cổ phần Thủy điện Điện lực Đắk Lắk
- Tên tiếng Việt: CÔNG TY CỔ PHẦN THUỶ ĐIỆN ĐIỆN LỰC ĐẮK
LẮK
- Tên giao dịch quốc tế: DAKLAK POWER HYDROELECTRIC JOINTSTOCK COMPANY
- Tên viết tắt: DPHC
- Địa chỉ: 02 Hùng Vương, Phường Tự An, Thành phố Buôn Ma Thuột tỉnh
Đắk Lắk
- Điện thoại: 05002.240159
- Fax: 05003.950817
- Website: www.dphc.com.vn
- Email:
- Vốn điều lệ: 28.778.000.000
3.3.3 Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Cổ phần Thủy điện Điện lực Đắk Lắk là Công ty cổ phần hoạt động
theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 6000596136 ngày 31/10/2006 của Sở
Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắk Lắk, theo Luật doanh nghiệp, Điều lệ công ty và các
đơn vị pháp lý hiện hành có liên quan.
Vốn điều lệ:

28.778.000.000 đồng

Vốn góp thực tế đến ngày 31/12/2015

228.778.000.000 đồng

- Ngày 16/3/2007 UBND tỉnh Đắk Lắk có công văn số 724/UBND-CN về
việc đồng ý cho Công ty Cổ phần Thủy điện Điện lực Đắk Lắk lập dự án đầu tư
thủy điện EA Drăng 2 xã Ea Wy, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam.
- Ngày 23/8/2011 nhà máy thủy điện Ea Drăng 2 chính thức vận hành phát

điện thương mại với 2 tổ máy có công suất: 2x3,2 = 6,4 MW.
- Ngày 24/2/2014 Công ty được công nhận Công ty đại chúng.
3.3.4 Lĩnh vực hoạt động
Đầu tư, xây dựng, khai thác và quản lý vận hành nhà máy thủy điện…

25


×