Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

MÔN VĂN HOÁ DÂN GIAN VIỆT NAM: Tâm thức dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.02 KB, 11 trang )

MÔN VĂN HOÁ DÂN GIAN VIỆT NAM
Chủ đề:Tâm thức dân gian

1


I,Khái niệm tôn giáo,tín ngưỡng
1,Định nghĩa về tôn giáo
Một cách định nghĩa, đôi khi được gọi là "lối theo chức năng", định
nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng
đề cập đến những câu hỏi căn bản về đặc tính loài người, đạo đức, sự chết và
sự tồn tại của thần thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ
thống tín ngưỡng, kể cả những hệ thống không tin tưởng vào thần thánh nào,
những hệ thống đơn thần, những hệ thống đa thần và những hệ thống không
đề cập đến vấn đề này vì không có chứng cớ.
Cách định nghĩa thứ hai, đôi khi được gọi là "lối theo hình thể", định
nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng nào xác nhận những điều không
thể quan sát một cách khoa học được, và chỉ dựa vào chức trách hay kinh
nghiệm với thần thánh. Nghĩa này hẹp hơn phân biệt "tôn giáo" với chủ nghĩa
duy lý, chủ nghĩa nhân bản thế tục, thuyết vô thần, triết khách quan và thuyết
bất khả tri, vì những hệ thống này không dựa vào chức trách hay kinh nghiệm
nhưng dựa vào cách hiểu theo khoa học.
Cách định nghĩa thứ ba, đôi khi được gọi là "lối theo chứng cớ vật chất",
định nghĩa tôn giáo là những tín ngưỡng về nhân quả mà Occam's Razor loại
trừ vì chúng chấp nhận những nguyên nhân quá phức tạp để giải thích những
chứng cớ vật chất. Theo nghĩa này, những hệ thống không phải là tôn giáo là
những hệ thống không tin tưởng vào những nguyên nhân phức tạp hơn cần
thiết để giải thích những chứng cớ vật chất. Những người theo quan điểm này
tự xưng là "bất tôn giáo", nhưng cũng có người tôn giáo nhìn nhận rằng "tín
ngưỡng" và "khoa học" là hai cách hoàn toàn khác nhau để đi đến chân lý.
Quan điểm này bị bác bỏ bởi những người xem rằng những giải thích siêu


hình là cần thiết để giải thích các hiện tượng tự nhiên một cách căn bản.

2


Cách định nghĩa thứ tư, đôi khi được gọi là "lối tổ chức", định nghĩa tôn
giáo là các hội đoàn, tín ngưỡng, tổ chức, phong tục, và luật đạo đức chính
thức của tất cả các tôn giáo chính có tổ chức. Nghĩa này đặt "tôn giáo" vào
một vị trí trái ngược với "tinh thần", cho nên không bao gồm những luận điệu
của "tinh thần" về việc tiếp xúc, phục vụ, hay tôn thờ thần thánh. Tuy nhiên,
trong nghĩa này tôn giáo và tinh thần không cần phải "được cái này mất cái
kia": một người sùng đạo có thể có tinh thần hay không tinh thần, và một
người có tinh thần có thể có hay không sùng đạo. Theo tương tự, ta có thể
xem "tôn giáo" như là than, củi, hay xăng, và "tinh thần" là ngọn lửa
2,Định nghĩa về tín ngưỡng:
Tín ngưỡng là một niềm tin có hệ thống. mà con người tin vào để giải
thích thế giới và để mang lại sự bình yên cho bản thân và mọi người. Tín
ngưỡng còn là thể hiện giá trị của cuộc sống, ý nghĩa của cuộc sống bền
vững. đôi khi được hiểu là tôn giáo.
II,Các tín ngương dân gian chủ yếu.
1 . Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.
a.Thờ Tam phủ , thờ Tứ phủ
_Tam phủ là anh từ để chỉ ba vị thánh thần : Bà Trời (hay Mẫu Thượng
Thiên ):cai quản vùng trời
Bà chúa Thượng ( hay Mẫu Thượng Ngàn ) :cai quản vùng rừng
Bà Nước ( hay Mẫu Thoải ) :cai quản vùng sông nước
_Tứ Phủ là gồm ba vị Mẫu trên và Mẫu Địa Phủ.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự tin tưởng, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng
những vị nữ thần gắn với các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ được người đời cho
rằng có chức năng sáng tạo, bảo trợ và che chở cho sự sống của con người

3


(như: trời, đất, sông nước, rừng núi..): thờ những thái hậu, hoàng hậu, công
chúa là những người khi sống tài giỏi, có công với dân, với nước, khi mất
hiển linh phù trợ cho người an, vật thịnh.
Các vị nữ thần này được tôn vinh với các chức vị: Thánh Mẫu (như
Thánh Mẫu Liễu Hạnh... Chúa Xứ Thánh Mẫu, Linh Sơn Thánh Mẫu,
Thượng Ngàn Thánh Mẫu…), Quốc Mẫu (như Quốc Mẫu Âu Cơ…), Vương
Mẫu (như người mẹ của Thánh Gióng được tôn vinh là Vương Mẫu…).
Tục thờ Mẫu ra đời trên cơ sở tục thờ nữ thần. Các Thánh mẫu đều là nữ
thần. Các vị được thờ trong các đền, chùa, miếu, điện; đặc biệt là có Thánh
Mẫu Liễu Hạnh được thờ trong một loại hình kiến trúc riêng là Phủ: phủ
Giầy, Phủ Tây Hồ.
Đến thế kỷ XVI, trên cơ sở tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ phủ, với sự ra đời
của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một tôn giáo bản địa sơ khai được hình thành đó là Đạo Mẫu. So với tín ngưỡng thờ nữ thần, với các phủ, các hàng (hàng
Cô, Cậu….) tương đối lớp lang, rõ rệt.
Điện thần của Đạo Mẫu có hàng chục vị thần linh nhưng đều quy tụ
dưới sự điều khiển củ Tam Toà Thánh Mẫu, trong đó có một vị thần Mẫu cao
nhất, mang tư cách như một vị giáo chủ, đó là Thánh Mẫu Liễu Hạnh, được
xem nhu là một hoá thân của Mẫu Thượng Thiên.
Tam toà Thánh Mẫu là từ tín ngưỡng thờ Mẫu dùng để chỉ hệ thống
sáng tạo vũ trụ gồm 3 vị Thánh Mẫu cai quản 3 miền vũ trụ là Mẫu Thượng
Thiên (còn gọi là Mẫu Đệ Nhất) - cai quản miền trời, Mẫu Thượng Ngàn
(còn gọi là Mẫu Đệ Nhị) - cai quản miền rừng núi, Mẫu Thuỷ (gọi chệch là
Mẫu Thoải - còn gọi là Mẫu Đệ Tam) - cai quản miền sông nước. Trong điện
thần của tín ngưỡng thờ mẫu, Tam Toà Thánh Mẫu được thờ chung một hàng
ngang với thứ bậc vị trí rõ ràng: Mẫu Thượng Thiên choàng khăn màu xanh,

4



bên phải là Mẫu Thoải choàng khăn màu trắng. Khi Thánh mẫu Liễu Hạnh
xuất hiện. Bà được đề cao, mang tư cách là hoá thân của Mẫu Thượng Thiên.
ở Phủ Giầy (Phủ Giầy - Nam Định) tương truyền là quê hương của Mẫu Liễu
từ lâu đã trở thành trung tâm thờ Mẫu của người Việt. ở đây nhiều người dân
cho rằng Tam Toà Thánh Mẫu là kết quả 3 lần đầu thai của công chúa con
của Ngọc Hoàng Thượng Đế xuống trần gian, thể hiện dưới 3 tượng hình của
Mẫu Liễu: lúc là tiên nữ, lúc là cô gái trần gian, lúc quy y Phật. Ba vị nhưng
nhất thể là một - Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
B.Thờ tứ pháp
Tứ pháp là danh từ để chỉ các bà thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện
cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp.
Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ thần này được biến
thành Tứ pháp với truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương. Tứ pháp gồm:
• Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu
• Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu
• Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng
• Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn
Nằm ở phía tây nam đồng bằng Bắc bộ, vừa là vùng đồng bằng, vừa là
vùng bán sơn địa, sản xuất nông nghiệp là chính, các cư dân nông nghiệp Hà
Nam cho đến nay vẫn còn lưu giữ trong đời sống văn hoá tinh thần của mình
nhiều hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ. Đậm nét nhất, có thể
nói, là tín ngưỡng thờ Tứ Pháp.
Xét bản chất sâu xa, tín ngưỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn
vật hữu linh. Đây là một quan niệm tối cổ của con người trong quá trình sống
phải đối mặt với muôn vàn khó khăn do mà thiên nhiên tạo ra. Quan niệm

5



vạn vật đều có linh hồn, người nguyên thủy nhìn thấy đằng sau mỗi hiện
tượng tự nhiên đều có một vị thần. Vị thần đó quyết định sự vận hành của vũ
trụ, trong đó có đời sống con người, đặc biệt, đối với một vùng đất nông
nghiệp trồng lúa nước. Quan niệm về thần Mưa, thần Gió hẳn đã ăn sâu vào
tâm thức người dân Việt từ xa xưa, trước khi Phật giáo đặt chân tới mảnh đất
này. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam, các nhà sư đã nhìn thấy rõ điều đó và
nhận thấy nếu Phật giáo muốn bén rễ vào mảnh đất này thì phải có sự dung
hòa với tín ngưỡng dân gian. Nhận thức ấy không sai lầm, và đó là nguyên
nhân sâu xa của cuộc hôn phối tinh thần giữa một người con gái bản địa
(tượng trưng cho tín ngưỡng dân gian) với một vị chân tu thông tuệ (tượng
trưng cho một tôn giáo lớn). Kết quả của sự giao thoa văn hoá ấy là hệ thống
Tứ Pháp, bốn vị Phật mang đậm tính chất dân gian của người Việt mà có
người gọi không sai là Phật giáo dân gian.
c. Thờ động vật và thực vật
Khác với nhiều nền văn hóa khác nhau là thờ các con vật có sức mạnh
như hổ, sư tử, chim ưng,... tín ngưỡng Việt Nam thờ các con vật hiền lành
hơn như trâu, cóc, rắn, chuột, chó, mèo, voi,.... các con vật đó gần gũi với
cuộc sống của người dân của một xã hội nông nghiệp. Người dân còn đẩy các
con vật lên thành mức biểu trưng như Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ
tiên người Việt thuộc "họ Hồng Bàng" (có nghĩa là một loài chim nước lớn),
thuộc giống "Rồng Tiên". Con rồng lần đầu tiên xuất hiện ở vùng Nam Á
,sau đó mới được phổ biến ở Trung Quốc rồi đến các nước phương tây. Con
rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư duy nông nghiệp: tổng hợp của cá sấu, rắn;
sinh ra ở dưới nước nhưng lại có thể bay lên trời mà không cần cánh; có thể
vừa phun nước vừa phun lửa. Có rất nhiều địa danh Việt Nam có tên liên
quan đến rồng như Thăng Long, Hàm Rồng,...

6



Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ
Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau,...
2,Tín ngưỡng phồn thực
*Khái niệm:là sự tín tưởng,ngưỡng mộ và sùng bái sự sinh tín nảy nở
của tự nhiên và con người.
*Cơ sở hình thành:Tín ngưỡng phồn thựuc hình thành từ xa xưa trong
lịch sử trên cơ sở tư duy thục quan,cảm tính của cư dân nông nghiệp trước sự
sinh sôi để duy trì cuộc sống của con người trước sự sinh sôi để duy trì sựu
sống của cây trồng vật nuôi..Họ nhìn thấy ở thựuc tiễn đó 1 sức mạnh siêu
nhiên và sung bái các hiện vật-hiện thựuc đó như thần thánh.Như vậy,bản
chất của tín ngưỡng phồn thực là sự câu sinh nở và no đủ.
*Ở nước ta tín ngưỡng phồn thựuc tồn tại dưới 2 dạng biểu hiện:thờ cờ
quan sinh dục nam nữ và thờ bản thân hành vi giao phối.
-thờ cơ quan sinh dục anm nữ:đưuợc gọi là thờ sinh thực khí.đây là hình
thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thựuc,nó phổ biến ở các nền văn hoá nông
ngiệp trên thế giới.Thuật ngữ của ngành dâ tộc học trên thế giới gọi là Linga
và Yoni.Ở việt nam việc thờ cúng sinh thựuc khí được gọi là thừo cúng nõ
nường.Những tên chỉ sinh thựuc khí là nõ-tượng cho bộ phận sinh dục
anm.Nường tượng cho bộ phận sinh duc nữ.ngoài ra còn các biến thể của cơ
quan sinh dục nam nữ như:thờ các cột đá tự nhiên,thờ các kẽ đá nứt tự
nhiên,tạc accs công trình kiến trúc có hình đáng như bộ phận sinh dục nam
nữ.(ví dụ như cột đá chùa Giam)
-Thơ hành vi giao phối:1 dạng tín ngưuỡng phồn thựuc độc đáo,đặc biệt
phổ biên ở khu vực Đông Nam Á
Ở việt nam có những biẻu hiện của tín ngưỡng này như:tượng 4 đôi nam
nữ đang giao hợp được đúc bằng đồng,gắn trên nắp thạp đồng Đào
7



Thịnh(Yênn bái niên đại 500 năm trước công nguyên.Ở thân thạp Đào Thịnh
khắc chìm những hình con thuyền,chiếc sau nối đuôi chiếc trước,khiến cho 2
đuôi con cá sấu-rồng gắn ở mũi và lái của 2 chiéc thuyền chạm vào nhau
trong tư thế giao hoan.Trên nắp trống đồng hoàng hạ(Hà sơn bình) có khắc
nhữung cặp chim ngồi trên lung nhau trong tư thế đạp mái:tuuwọng cóc giao
phối,điệu múa tùng-di trong lễ hội làng ácc vùng trung châu nay thuộc tỉnh
Phú thọ với các cặp đôi nam nữ từng đôi múa,cầm tay trong những vật biểu
trưng cho sinh thựuc khí nam và nữ,cứ mỗi khi nghe đánh trống họ lại giơ 2
vật đó chạm vào nhau.Tượng nam nữ với các bộ phận sinh dục quá cỡ
thường xuyên có mặt ở nhà mồ Tây nguyên.
3.Tín ngưỡng sung bái con người
*. Trong con người có cái vật chất và cái tinh thần. Cái tinh thần trừu
tượng, khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm
“linh hồn”, và linh hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Người Việt và một
vài dân tộc Đông Nam Á còn tách linh hồn ra thành hồn và vía. Người Việt
cho rằng con người có 3 hồn, nhưng vía thì nam có 7, nữ có 9.
Chết tức là cơ thể chuyển từ trạng thái động trở thành tĩnh, cho nên theo
triết lý âm dương thì hồn đi từ cõi Dương (Dương gian, Dương thế) sang cõi
Âm (Âm ti, Âm phủ). Đó là một “thế giới bên kia”. Ở vùng nông nghiệp sông
nước này thì “thế giới bên kia” cũng là nơi sông nước, ngăn cách chúng ta
bằng 9 suối (9 – con số lẻ ước lệ biểu thị số nhiều); tới đó phải đi bằng
thuyền: thời Đông Sơn, người chết được chôn trong những quan tài bằng thân
cây đẽo theo hình thuyền. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và suốt miền duyên hải
Trung Bộ còn lưu giữ nghi lễ “chèo đưa linh” – hội các bà múa điệu chèo đò
và hát những câu đưa tiễn linh hồn người chết về nơi chín suối.

8


Niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối, tin rằng tuy ở nơi chín

suối nhưng ông bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con
cháu là cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nó có mặt ở nhiều dân
tộc Đông Nam Á và là nét đặc thù của vùng văn hóa này. Ở người Việt, nó
gần như trở thành một thứ tôn giáo (nhiều nơi gọi là đạo Ông Bà), ngay cả
những gia đình không tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ tiên ở trong nhà.
*. Trong gia đình, ngoài thờ tổ tiên, người Việt Nam còn có tục thờ Thổ
Công. Thổ Công – một dạng của Mẹ Đất – là vị thần trông coi gia cư, định
đoạt phúc họa cho một gia đình. Sống ở đâu thì có Thổ Công ở đó: Đất có
Thổ Công, sông có Hà Bá.
Mối quan hệ giữa Thổ Công (địa thần) với ông bà tổ tiên (nhân thần)
trong gia đình rất thú vị: Thổ Công định đoạt phúc họa cho cả nhà nên là vị
thần quan trọng nhất, nhưng ông bà sinh thành ra ta được tôn kính nhất. Để
không làm mất ai, người Việt Nam xếp cho tổ tiên ngự tại cái bàn thờ tôn
kính nhất ở gian giữa, còn Thổ Công thì ở gian bên trái (theo Ngũ hành thì
bên trái – phương Đông là nơi quan trọng thứ hai sau trung tâm). Tuy địa vị
kém nhân thần nhưng quyền lực lại lớn hơn – Thổ thần được coi là Đệ nhất
gia chi chủ. Mỗi khi giỗ cha mẹ, đều phải khấn Thổ Công trước rồi xin phép
Ngài cho cha mẹ được về “phối hưởng”.
*. Tín ngưỡng thờ thần của Việt Nam không chỉ đóng khung trong phạm
vi gia đình. Ngoài các vị thần tại gia, còn có các thần linh chung của thôn xã
hoặc toàn dân tộc.
Trong phạm vi thôn xã, quan trọng nhất là việc thờ thần làng (Thành
Hoàng). Cũng như Thổ Công trong một nhà, Thành Hoàng là vị thần cai
quản, che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng đó. “Thành Hoàng” là một từ

9


Hán – Việt xuất hiện sau này để chỉ một khái niệm đã có từ lâu đời ở các làng
quê Việt Nam mà người dân miền núi quen gọi là ma làng.


*. Trong nhà thờ gia tiên, trong làng thờ Thành Hoàng, thì trong nước,
người Việt Nam thờ vua tổ - vua Hùng. Mảnh đất Phong Châu (Phú Thọ), nơi
đóng đô của các vua Hùng khi xưa, trở thành đất Tổ. Ngày 10-3 là ngày giỗ
Tổ. (Tục thờ vua Tổ chỉ có ở Việt Nam – điều này càng cho thấy tính đặc thù
của tục thờ cúng tổ tiên ở người Việt Nam).
Thánh Gióng - Một trong "Tứ bất tử"
Người Việt Nam còn có một tín ngưỡng đặc biệt là thờ Tứ Bất Tử (bốn
người không chết): Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đông Tử và Liễu Hạnh.
Tản Viên (với truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh) và Thánh Gióng (với
truyền thuyết Thánh Gióng) là biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết của một
cộng đồng cư dân nông nghiệp, để, một mặt ứng phó với môi trường tự nhiên
là chống lụt, và mặt khác ứng phó với môi trường xã hội là chống giặc ngoại
xâm. Sự phối hợp thần thánh ấy đã dựng nên Đất Nước.
Có đất nước rồi, được sự sống yên ổn rồi, con người Việt Nam không
mơ ước gì hơn là xây dựng một cuộc sống phồn vinh về vật chất và hạnh
phúc về tinh thần. Chử Đồng Tử - người nông dân nghèo với hai bàn tay
trắng đã cùng vợ gây dựng nên cơ nghiệp với phố xá sầm uất, mang hàng ra
biển buôn bán với khách thương nước ngoài – chính là biểu tượng cho ước
mơ thứ nhất. Liễu Hạnh – người con gái xã Vân Cát (huyện Vụ Bản – Nam
Định), tương truyền là công chúa con trời, 3 lần bỏ cuộc sống đầy đủ trên
thiên đàng, xin vua cha cho xuống trần gian để sống cuộc đời của một người
phụ nữ bình dị với khát vọng về tự do, hạnh phúc – chính là biểu tượng cho
ước vọng thứ hai. Hai ước vọng thiêng liêng ấy đã tạo nên Con Người.
10


Như vậy, tục thờ Tứ Bất Tử là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của
dân tộc ta. Đó là tinh hoa được chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử, biểu tượng
cho sức mạnh liên kết của cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát

vọng xây dựng một cuộc sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc.

11



×