Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học bộ Phù du (Ephemeroptera) ở đai cao 600 – 1600m tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 58 trang )

Header Page 1

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN
------oOo------

PHẠM THANH HUYỀN

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC BỘ PHÙ DU
(EPHEMEROPTERA) Ở ĐAI CAO 600 - 1600M TẠI
VƢỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Chuyên ngành: Động vật học

Hà Nội - 2016

Footer Page 1


Header Page 2

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN
------oOo------


Phạm Thanh Huyền

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC BỘ PHÙ DU
(EPHEMEROPTERA) Ở ĐAI CAO 600 - 1600M TẠI
VƢỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, TỈNH LÀO CAI

Chuyên ngành: Động vật học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

Th.S. Nguyễn Văn Hiếu

Hà Nội - 2016

Footer Page 2


Header Page 3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới ThS. Nguyễn Văn Hiếu,
cán bộ giảng dạy tổ Động vật, Khoa Sinh- KTNN, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, đã tận tình hướng dẫn và đưa ra những ý kiến quý báu trong suốt

thời gian tôi thực hiện đề tài này.
Đồng thời, qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm
Khoa cùng các thầy, cô giáo Khoa Sinh - KTNN, Trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội 2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến gia đình, bạn bè,
thầy cô những người đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2016
Sinh viên


Phạm Thanh Huyền

Footer Page 3


Header Page 4
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Khóa luận này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS.Nguyễn Văn
Hiếu.
Các số liệu, những nghiên cứu được trình bày trong Khóa luận này

trung thực và chưa được công bố dưới bất kì hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Phạm Thanh Huyền

Footer Page 4


Header Page 5
MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
MỞ ĐẤU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................. 2
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ..................................................... 2
3.1.

Ý nghĩa khoa học........................................................................... 2


3.2.

Ý nghĩa thực tiễn ........................................................................... 2

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 3
1.1. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du trên thế giới ...................................... 3
1.2. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du ở Việt Nam ....................................... 6
1.3. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du ở Vườn quốc gia Hoàng Liên........... 9
1.4. Một số đặc điểm tự nhiên của Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào
Cai ............................................................................................................. 10
1 1


t

a

1 2

a h nh ......................................................................................... 10

1.4.3.

a h t v th nh


.................................................................................... 10
ng................................................................. 11

1

h h u .......................................................................................... 11

1

h


văn ........................................................................................ 12

Chƣơng 2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 13

Footer Page 5


Header Page 6
2.1. Thời gian nghiên cứu .......................................................................... 13
2.2. Địa điểm nghiên cứu ........................................................................... 13
2.3. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 16

2.4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 17
2 1

Ph ơng pháp nghiên ứu ngoài tự nhiên................................... 17

2.4.2. Ph ơng pháp phân t h mẫu trong phòng thí nghiệm ................ 18
2.4.3. Ph ơng pháp xử lí số liệu ........................................................... 18
2.5. Chỉ số Đa dạng sinh học ...................................................................... 20
Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................... 22
3.1. Đa dạng loài bộ Phù du tại khu vực nghiên cứu ................................. 22
3.1.1.


a dạng loài bộ Phù du (Ephemeroptera) ................................. 27

3.1.2. Lo i u thế và chỉ số a dang sinh học ...................................... 28
3.2. Phân bố theo mùa của bộ Phù du tại khu vực nghiên cứu .................. 32
3.2.1. So sánh thành phần loài bộ Phù du giữa mùa khô v mùa m a ...... 32
3.2.2. So sánh m t ộ Phù du giữa mùa khô v mùa m a ...................... 38
3.3. Phân bố các loài bộ Phù du theo tính chất của thủy vực .................... 41
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 46
1. Kết luận ................................................................................................... 46
2. Đề nghị .................................................................................................... 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 48
PHỤ LỤC


Footer Page 6


Header Page 7
DANH MỤC CÁC ẢNG

Bảng
Bảng 2.

Tên bảng


Trang

Một số đặc điểm sinh cảnh tại các điểm thu mẫu ở đai

14

cao 600-1600m Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào
Cai
Bảng 3.1. Thành phần loài bộ Phù du tại khu vực nghiên cứu

22


Bảng 3.2. Loài ưu thế, chỉ số DI và H’ ở mùa mưa tại khu vực

28

nghiên cứu
Bảng 3.3. Loài ưu thế, chỉ số DI và H’ ở mùa khô tại khu vực

30

nghiên cứu
Bảng 3.4. Thành phần loài bộ Phù du theo mùa


32

Bảng 3.5. Thành phần loài bộ Phù du tại khu vực nghiên cứu

34

Bảng 3.6. Số lượng cá thể các loài Phù du tại khu vực nghiên cứu

39

ở mùa khô và mùa mưa (đơn vị diện tích 1,5m2)
Bảng 3.7. Số lượng loài và số lượng cá thể Phù du ở nơi nước chảy


42

và nước đứng ở mùa khô (đơn vị diện tích 0,25 m2)
Bảng 3.8. Số lượng loài và số lượng cá thể Phù du ở nơi nước chảy
và nước đứng ở mùa mưa (đơn vị diện tích 0,25 m2)

Footer Page 7

44



Header Page 8
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình

Tên hình

Trang

Hình 3.1.

Tỷ lệ % số loài thuộc các họ Phù du tại khu vực nghiên cứu


23

Hình 3.2.

Số lượng loài bộ Phù du ở mùa mưa và mùa khô

33

Hình 3.3.

Số lượng cá thể loài Phù du theo mùa tại khu vực nghiên


40

2

cứu (đvdt 1,5m )

Footer Page 8


Header Page 9
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Bộ Phù du (Ephemeroptera) thuộc nhóm côn trùng nước. Phù du phân bố
rộng khắp trên toàn thế giới và có mặt ở hầu hết các dạng thủy vực nước ngọt,
như sông, suối, ao, hồ… Thậm trí chúng cũng có thể có mặt ở những khe
hoặc rãnh nước nhỏ, nhưng phổ biến nhất là các thủy vực dạng suối. Giai
đoạn ấu trùng của phù du được phân biệt với tất cả các nhóm côn trùng sống
trong nước khác bởi có hàng mang ở hai bên phần bụng và có 2 hoặc 3 tơ
đuôi dài ở phía cuối cơ thể.
Phần lớn Phù du đều có cấu tạo cơ thể thích nghi với đời sống bám hay
bơi lội tự do. Ngoài ra, ấu trùng của một số loài phù du có tập tính đào hang ở
dưới nền đáy, lớp bùn hay cát của các thủy vực và sống ở đó cho đến khi vũ
hóa thành giai đoạn trưởng thành. Ấu trùng một số loài khác lại có lối sống

bám vào bề mặt của những khối hoặc viên đá trong thủy vực dạng suối. Giai
đoạn ấu trùng của Phù du sống hoàn toàn trong nước, khi phát triển đầy đủ
chúng chuyển lên mặt nước và vũ hóa bước vào giai đoạn trưởng thành. Thời
gian sống của Phù du khi đã trưởng thành ngắn hơn rất nhiều so với giai đoạn
ấu trùng, có loài chỉ tồn tại khoảng 1-2 giờ sau khi vũ hóa. Con đực sẽ chết
sau khi giao phối, con cái sẽ chết sau khi đẻ trứng và giai đoạn trưởng thành
chủ yếu làm nhiệm vụ sinh sản.
Thức ăn chủ yếu của Phù du là chất mùn bã hữu cơ có trong thủy vực
hoặc các loài thực vật thủy sinh, đặc biệt là các loài tảo. Cũng có một số loài
Phù du ăn thịt nhưng tỉ lệ các loài này không cao. Mặt khác, chúng lại là
nguồn thức ăn của cá và nhiều nhóm động vật có xương sống khác. Chính vì
vậy Phù du giữ một vị trí quan trọng trong hệ sinh thái. Bên cạnh đó, do Phù

du có đời sống chuyển từ nước lên cạn và vòng đời ngắn nên chúng được sử
dụng là một đối tượng nghiên cứu khoa học. Những nghiên cứu gần đây đã
1

Footer Page 9


Header Page 10
khẳng định Phù du là những sinh vật rất nhạy cảm với sự thay đổi của môi
trường nước nên chúng đang được sử dụng làm sinh vật chỉ thị chất lượng
môi trường nước. Với ý nghĩa thực tiễn như vậy nên Phù du đang được quan
tâm nghiên cứu ở Việt Nam.

Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai là một trong những nơi có hệ
thống khe, suối phong phú đa dạng. Đặc biệt là những mạng lưới sông suối
phân bố theo đai cao và các địa hình khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
sinh sống, tồn tại và phát triển của các loài thuộc bộ Phù du. Đai cao 600 –
1600m ở Vườn quốc gia Hoàng Liên là đai khí hậu á chí tuyến gió mùa trên
núi [3]. Tuy nhiên việc nghiên cứu về bộ Phù du ở đai cao này còn ít và tản
mạn. Vì vậy, để góp phần tìm hiểu rõ hơn về nhóm sinh vật này tại đai cao
600 – 1600m thì tôi đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu đa dạng sinh học bộ
Phù du (Ephemeroptera) ở đai cao 600 – 1600m tại Vƣờn quốc gia Hoàng
Liên, tỉnh Lào Cai”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu sự đa dạng về loài và sự

phân bố của bộ Phù du theo mùa và theo tính chất dòng nước chảy ở đai cao
600 - 1600m tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài cung cấp những dẫn liệu đa dạng về loài của bộ Phù du và sự phân
bố theo tính chất dòng chảy và theo mùa ở đai cao 600 - 1600m thuộc địa
phận Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của nghiên cứu này góp phần cung cấp những tư liệu phục vụ
cho việc nghiên cứu về bộ Phù du sau này tại đai cao 600 - 1600m nói riêng
cũng như địa phận Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai nói chung.


2

Footer Page 10


Header Page 11
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du trên thế giới
Bộ Phù du (Ephemeroptera) là một trong những bộ côn trùng có cánh cổ
sinh, bao gồm những côn trùng tương đối nguyên thuỷ. Hoá thạch đầu tiên

của bộ Phù du được tìm thấy ở kỷ Cacbon và kỷ Pecma thuộc đại Cổ sinh
cách đây ít nhất 250 triệu năm (Dudgeon,1999; Edmund, 1982) [13],[14]. Mối
quan hệ của Phù du với các loài côn trùng có cánh hiện đại vẫn là một chủ đề
đang được tranh luận. Cùng với bộ Chuồn chuồn (Odonata), bộ Phù du
(Ephemeroptera) thường được xếp trong Paleoptera, được coi là nhóm chị của
tất cả các Bộ có cánh còn tồn tại từ cổ xưa (Kukalová-Peck, 1991). Ấu trùng
của bộ Phù du được phân biệt với các loài của các bộ côn trùng thuỷ sinh
khác do chúng có những đặc điểm hình thái đặc trưng như cấu tạo của mang,
khí quản, tơ đuôi và phần phụ miệng.
Nhà tự nhiên học nổi tiếng Linnaeus (1758) [16], đã mô tả 6 loài bộ Phù
du tìm thấy ở Châu


u và xếp chúng vào một nhóm ông đặt tên gọi là

Ephemera. Có thể xem đây là công trình đầu tiên đặt nền móng cho công tác
nghiên cứu về Phù du.
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển
hình là các công trình nghiên cứu của Ulmer (1920,1924,1925,1932-1933) và
Navas (1920, 1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự
(1935). Edmunds (1982) [14], đã xây dựng hệ thống phân loại đến họ thuộc
bộ Phù du trên toàn thế giới. Ông đã đưa ra một bức tranh tổng thể về khóa
phân loại bậc cao cũng như nguồn gốc phát sinh của Phù du. Sau này, do sự
phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực nghiên cứu về Phù du cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu nên hệ thống phân loại của ông càng ngày càng bị hạn chế. Mc

Cafferty và Edmunds (1973) [17], đã bổ sung những dẫn liệu mới và chỉnh lý
3

Footer Page 11


Header Page 12
khóa phân loại cho phù hợp với thực tế nghiên cứu đòi hỏi. Trong khóa định
loại của Mc Cafferty và Edmunds ngoài việc mô tả đặc điểm hình thái thì mối
quan hệ họ hàng giữa các loài trong qúa trình tiến hóa cũng được các tác giả
đề cập đến. Cho đến nay, hệ thống phân loại này vẫn được áp dụng trên thế
giới khi nghiên cứu về Phù du.

Đến năm 1990, toàn thế giới đã xác định được khoảng 2000 loài Phù du
thuộc 317 giống trong đó có 61 giống đã hoá thạch của 26 họ khác nhau.
Thành phần loài hay nói cách khác sự đa dạng về mức độ loài của Phù du ở
các họ thể hiện rất khác nhau, có những họ chỉ có một vài loài như
Teloganiella, Teloganidae...hay có những họ có tới hàng trăm loài như
Heptageniidae, Leptophlebiidae... Tuy nhiên những con số này chưa phản ánh
hết mức độ đa dạng của Phù du vì còn nhiều khu vực trên thế giới vẫn chưa
được khám phá hết, nhất là các khu vực nhiệt đới [20].
Các nghiên cứu về bộ Phù du ở các khu vực khác nhau trên thế giới
cũng thể hiện sự khác nhau rõ rệt. Đối với khu vực châu Âu và châu Mỹ, Phù
du được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm và kết quả nghiên cứu cũng phong
phú hơn so với các khu vực khác.


châu

, những nghiên cứu đầu tiên về

khu hệ Phù du được thực hiện bởi các nhà Côn trùng học đến từ châu u như:
Lestage (1921, 1924), Navás (1922, 1925) [15],[18]. Những nghiên cứu này
là cơ sở và nền tảng thúc đẩy việc nghiên cứu về Phù du ở khu vực đông dân
nhất thế giới. Trong thế kỷ XX, đã có nhiều quốc gia trong khu vực quan tâm
nghiên cứu về Phù du như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy, ở châu Á có khoảng 128 giống
thuộc 18 họ của bộ Phù du (Dudgeon, 1999; Hubbard, 1990; McCaffrty,

1991; McCaffrty & Wang, 1997, 2000) [13], [17]. Cho đến nay, những
nghiên cứu liên quan đến phân loại và hệ thống học về Phù du khá tỉ mỉ, các
nhà khoa học đã xây dựng khoá phân loại chi tiết tới loài kể cả giai đoạn ấu
trùng và trưởng thành. Hiện nay, hướng nghiên cứu của các quốc gia này tập
4

Footer Page 12


Header Page 13
trung vào các vấn đề sinh thái, phục hồi và bảo tồn các loài cũng như các
nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn của Phù du.

Ngoài các công trình nghiên cứu về đặc điểm phân loại của Phù du,
nhiều nhà khoa học còn quan tâm nghiên cứu các khía cạnh khác nhau liên
quan đến Phù du như Sinh thái học, Địa động vật, đó là các công trình của
Lestage (1930), Needham (1935) [15],[19]. Về sinh thái học, Needham đã
cung cấp tương đối đầy đủ các số liệu về vòng đời, quá trình lột xác chuyển
đổi từ đời sống dưới nước lên trên cạn, tập tính dinh dưỡng, tập tính sinh sản,
biến động số lượng theo mùa của nhiều loài Phù du. Về địa động vật học,
Lestage đã nhận xét về phân bố của Phù du cho rằng các loài Phù du ưa sống
ở những thuỷ vực nước chảy với hàm lượng ôxy hoà tan trong nước cao. ên
cạnh đó, cấu trúc nền đáy của các thủy vực cũng là yếu tố quan trọng quyết
định độ đa dạng loài của bộ Phù du do ấu trùng của chúng chủ yếu sống bám
đá hay sống vùi mình trong bùn cát. Qua nghiên cứu cho thấy những thủy vực

nước chảy mà ở đó cấu trúc nền đáy là các khối đá với nhiều kích thước khác
nhau và có chứa mùn bã hữu cơ thì thành phần loài Phù du rất đa dạng. Ngoài
ra, các yếu tố tự nhiên khác như độ cao, độ che phủ của rừng tự nhiên, …
cũng ảnh hưởng đến sự phân bố của các loài Phù du. Điều đó chứng tỏ rằng
các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến sự phân bố của Phù du nhưng
thể hiện khác nhau giữa các loài, các giống do khả năng thích nghi, sức chịu
đựng của các loài khác nhau. Cụ thể khi tập trung nghiên cứu đối với các họ
thuộc bộ Phù du, nhận thấy có sự chênh lệch khá lớn về thành phần loài giữa
chúng.

Như


các

họ

aetidae,

Heptageniidae,

Ephemerellidae,

Leptophlebiidae và Caenidae là những họ có thành phần loài chiếm ưu thế
trong các thủy vực, trong khi các họ Oligoneuridae, Potamanthidae,

Polymitarcyidae và Prosopistomatidae lại có số lượng loài rất nhỏ, chẳng hạn
như họ Prosopistomatidae cho đến nay trên toàn thế giới chỉ có một giống
Prosopistoma với 3 loài [13]. Với dẫn liệu này, một lần nữa khẳng định vai
5

Footer Page 13


Header Page 14
trò của điều kiện tự nhiên cũng như tính chất lí hóa của thủy vực sống đối với
sự phân bố của bộ Phù du. Về khía cạnh ứng dụng, các nghiên cứu ứng dụng
của Phù du hiện nay tập trung vào việc dùng Phù du làm sinh vật chỉ thị môi

trường. Khi nghiên cứu khía cạnh này, các tác giả cho rằng việc sử dụng Phù
du làm sinh vật chỉ thị dễ thực hiện và có nhiều ưu điểm. Hai ưu điểm nổi bật
là: thứ nhất có nhiều công trình nghiên cứu phân loại đã được thực hiện, nên
việc định loại tới loài dễ dàng hơn; thứ hai là hầu hết các loài Phù du rất nhạy
cảm với sự biến đổi của môi trường nên sự việc sử dụng chúng làm sinh vật
chỉ thị sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực.
1.2. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du ở Việt Nam
Việt Nam, trong những năm đầu của thế kỷ 20, các mô tả về bộ Phù
du cũng được đề cập và quan tâm nghiên cứu. Mở đầu cho những nghiên cứu
về bộ Phù du ở Việt Nam, nhà côn trùng học Lestage (1921, 1924) [15], đã
mô tả một loài mới của bộ Phù du cho khoa học, dựa vào mẫu vật được lưu
giữ ở bảo tàng Pari (mẫu vật thu được ở miền Bắc Việt Nam). Ông đặt tên

loài là Ephemera duporti, do các loài thuộc giống Ephemera có kích thước
lớn, phân bố khá rộng và dễ thu thập nên nó được tiếp tục nghiên cứu ở giai
đoạn này. Ngay sau đó, Navas (1922,1925) [18] đã công bố hai loài
Ephemera longiventris Navas và Ephemera innotata Navas, cũng dựa trên
các mẫu vật thu được ở miền Bắc Việt Nam. Cho đến nay, hai loài này cũng
chưa tìm thấy ở các khu vực phân bố khác, nên có thể xem chúng như là loài
đặc hữu cho khu hệ bộ Phù du ở Việt Nam.
Đặng Ngọc Thanh (1980) [6], xác định khu hệ Phù du ở Bắc Việt Nam
bao gồm 54 loài, 29 giống thuộc 13 họ khác nhau. Tuy nhiên, trong số này chỉ
có 13 loài là được định tên đầy đủ, số còn lại chỉ ở mức độ giống. Đặc biệt
trong nghiên cứu này ông đã mô tả hai loài mới cho khoa học đó là
Thalerosphyrus vietnamensis Dang và Neopheieridae cuaraoensis Dang.


6

Footer Page 14


Header Page 15
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) [5], khi xây dựng khoá định
loại các nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam
đã đưa ra khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du. Kết quả của công trình này là
cơ sở khoa học cho các nghiên cứu phân loại về Phù du cũng như việc sử
dụng đối tượng này là sinh vật chỉ thị cho các thuỷ vực nước ngọt ở Việt

Nam.
Nguyễn Văn Vịnh (2003) [20], trong nghiên cứu khu hệ Phù du ở Việt
Nam đã xác định được 102 loài thuộc 50 giống và 14 họ. Trong đó, có 23 loài
đã được biết đến trong các nghiên cứu trước, 30 loài lần đầu tiên được ghi
nhận ở Việt Nam, 37 loài mới cho khoa học và 12 loài dự đoán là loài mới
cho Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng khóa định loại và
mô tả đặc điểm hình dạng ngoài của các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam,
nghiên cứu này là cơ sở để phục vụ cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về bộ
Phù du ở nước ta.
Nguyễn Văn Vịnh (2004) [7], khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn quốc
gia Tam Đảo đã xác định được 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. Trong đó, có
10 loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động vật Việt Nam cũng như Vườn

quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc, đó là: Platybaetis edmundsi Muller Liebenau, 1980; Baetiella trispinata Tong and Dudgeon, 2000; Serratella
albostriata Tong and Dudgeon, 2000; Torleya arenosa Tong and Dudgeon,
2000; Cincticostella boja Allen, 1975; Ephemera serica Eaton, 1871;
Choroterpes trifrucata Ulmer, 1939; Habrophlebiodes prominens Ulmer,
1939; Caenis cornigera Kang and Yang, 1994; Isonychia formosana Ulmer,
1912. Ngoài việc phân loại các loài thuộc bộ côn trùng này, tác giả còn nhận
xét về sự phân bố của chúng theo độ cao của suối Thác Bạc.
Nguyễn Văn Vịnh (2005) [8], trong dẫn liệu bước đầu về Phù du ở
Vườn quốc gia a Vì, Hà Tây, đã thu được 27 loài thuộc 22 giống và 9 họ.
Trong đó, có một loài mới cho khoa học là Polyplocia orientalis Nguyen and
7


Footer Page 15


Header Page 16
ae, 2003, đã được công bố từ mẫu vật thu được ở Vườn quốc gia Ba Vì, Hà
Nội và một loài ghi nhận lần đầu tiên cho khu hệ động vật Việt Nam là
Teloganodes tristis (Hagen, 1858). Trong cùng thời gian này, khi điều tra
thành phần loài Phù du ở một số suối tại Sapa, Lào Cai, tác giả cũng đã xác
định được 53 loài thuộc 31 giống và 11 họ. Kết quả đã công bố được 4 loài
mới cho khoa học dựa vào các mẫu chuẩn thu được tại Sapa, đó là: Isca fasica
Nguyen and Bae, 2003; Rhoenanthus sapa Nguyen and Bae, 2004; Afronurus
meo Nguyen and Bae, 2003; Iron longintibius Nguyen and ae, 2004. Đồng

thời, xác định được 10 loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động vật của Việt
Nam đó là: Isca janiceae Peters and Edmunds, 1970; Thraulus bishopi Peter
and Tsui, 1972; Cincticostella gosei Allen, 1975; Cincticostella insolta Allen,
1971; Crinitella coheri Allen and Edmunds, 1963; Ephacerella commodema
Allen, 1971; Teloganodes tristis Hagen,1858; Epeorus aculeatus Braasch,
1990; Rhithrogena parva Ulmer, 1912; Platybaetis edmundsi Muller Liebenau, 1980. Đặc biệt, bổ sung cho họ Heptageniidae thêm 2 loài:
Compsoneuria thienenmani Ulmer và Rhithrogena parva Ulmer.
Nguyễn Văn Quân (2006) [4], khi nghiên cứu về thành phần loài Phù
du tại suối Mường Hoa, Sapa, tỉnh Lào Cai đã xác định được 57 loài thuộc 29
giống và 9 họ. Kết quả này, đã bổ sung cho khu hệ Phù du ở Sapa, Lào Cai 6
loài đó là: Eatonigenia sp.1; Drunella perculta, Eburella brocha; Isonychia
formosana; Asionurus primus và Labiobaetis sp. Và một họ là Isonychiidae

với một loài Ionychia formosan. Hầu hết các loài này chỉ phân bố ở những
khu vực suối thấp.
Nhâm Thị Phương Lan (2007) [2], khi nghiên cứu về đa dạng thành
phần loài của 3 bộ côn trùng nước, trong đó có bộ Phù du tại suối Mường
Hoa, Sapa, tỉnh Lào Cai, đã xác định được 60 loài thuộc 28 giống và 9 họ.
Khu vực nghiên cứu này, có mức độ đa dạng loài Phù du cao, mặc dù trong

8

Footer Page 16



Header Page 17
đó nhiều họ như aetidae, Caenidae, hầu hết các loài chưa xác định được tên
cụ thể, điều này tiềm ẩn nhiều loài mới cho khoa học.
Nguyễn Văn Vịnh và Nguyễn Thị Minh Huệ (2008) [10], trong nghiên
cứu về thành phần loài của bộ Phù du (Ephemeroptera) ở Vườn quốc gia Bạch
Mã, Thừa Thiên Huế, đã xác định được 56 loài thuộc 33 giống và 11 họ.
1.3. Tình hình nghiên cứu bộ Phù du ở Vƣờn quốc gia Hoàng Liên
Vườn quốc gia Hoàng Liên nằm trong khu vực Tây ắc Việt Nam, là
một trong những nơi có địa hình đa dạng và phức tạp với nhiều núi cao và hệ
thống suối tự nhiên dày đặc, do vậy rất phù hợp cho sự tồn tại và phát triển
của bộ Phù du. Sự nghiên cứu về Phù du đã và đang được các nhà khoa học
quan tâm.

Nguyễn Văn Vịnh (2004) [7], khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn quốc
gia Hoàng Liên đã xác định được 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. So với
nghiên cứu của chính tác giả trước đó (2001), trong nghiên cứu này tác giả đã
bổ sung thêm một họ là họ Austremerellidae cho khu vực nghiên cứu. Trong
32 loài đã định loại được có 10 loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu hệ động vật
Việt Nam cũng như Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai là Choroterpes
trifurcata, Habrophlebiodes prominens thuộc họ Leptophlebiidae; Ephemera
serica thuộc họ Ephemeridae; Cincticistella boja, Serratella albostriata và
Torleya arenosa thuộc họ Ephemerellidae; Caenis cornigera thuộc họ
Caenidae; Isonychia formosana thuộc họ Isonychiidae và 2 loài Baetiella
trispinata, Platybaetis edmundsi thuộc họ Baetidae. Bên cạnh việc nghiên cứu
về loài, tác giả còn nghiên cứu sự phân bố của các loài thuộc bộ Phù du theo

độ cao.
Nguyễn Văn Vịnh (2005) [8], khi điều tra thành phần loài Phù du ở một
số suối tại Sapa, tỉnh Lào Cai, đã xác định được 53 loài thuộc 31 giống và 11
họ. Kết quả đã công bố được 4 loài mới cho khoa học dựa vào các mẫu chuẩn
thu được tại Sapa, đó là: Isca fasica Nguyen and Bae, 2003; Rhoenanthus
9

Footer Page 17


Header Page 18
sapa Nguyen and Bae, 2004; Afronurus meo Nguyen and Bae, 2003; Iron

longintibius Nguyen and Bae, 2004. Đồng thời, xác định được 10 loài ghi
nhận mới cho khu hệ côn trùng của Việt Nam.
Phạm Thị Thúy Hồng (2010) [1], khi nghiên cứu thành phần loài, phân
bố của Phù du (Ephemeroptera, Insecta) tại một số suối thuộc Vườn quốc gia
Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai đã xác định được 71 loài thuộc 35 giống, 12 họ.
Những nghiên cứu này, đã công bố hàng loạt các kết quả về khu hệ Phù
du ở Việt Nam, và đã bổ sung danh sách thành phần loài, mô tả các loài mới,
cũng như xây dựng các khóa định loại tới loài của tất cả các họ.
Như vậy, các nghiên cứu về Phù du ở Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh
Lào Cai chủ yếu tập trung vào các nghiên cứu về phân loại học và thành phần
loài, các nghiên cứu về sự phân bố còn ít và chưa được cụ thể.
1.4. Một số đặc điểm tự nhiên Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai

Theo áo cáo xác định vùng đệm và Dự án đầu tư ảo vệ và phát triển
rừng, ổn định dân cư tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai [11], [12]
thì Vườn quốc gia Hoàng Liên có một số điều kiện tự nhiên như sau:
1.4.1. Vị trí địa ý
Vườn quốc gia Hoàng Liên nằm trong khu vực Tây ắc Việt Nam, có
vị trí địa lý từ 22 9’- 23 30’ độ vĩ ắc và 103 00 - 103 59’ độ kinh Đông. Về
địa giới hành chính gồm 6 xã: trong đó 4 xã: San Sản Hồ, Lao Chải, Tả Van,
ản Hồ thuộc huyện Sa Pa và 2 xã Mường Khoa, Thân Thuộc thuộc huyện
Than Uyên, tỉnh Lào Cai. Diện tích Vườn Quốc gia là 51.803 ha. Trong đó
vùng lõi là 29.848 ha, là phần cuối cùng của dãy Himalaya chạy dọc sông
Hồng theo hướng Tây ắc - Đông Nam.
1.4.2. Địa h nh

Hoàng Liên là một hệ thống các đỉnh núi cao trên 2000 m chạy theo
hướng Tây ắc - Đông Nam. Đặc biệt ở Vườn quốc gia có đỉnh núi Fansipan
cao 3.143m so với mặt nước biển. Các hệ chính của dãy núi thoải dần theo
10

Footer Page 18


Header Page 19
hướng Đông ắc và Tây Nam tạo thành hai sườn chính của dãy Hoàng Liên
trong đó sườn Đông ắc thuộc huyện Than Uyên. Các dạng địa hình chủ yếu
của Vườn quốc gia Hoàng Liên gồm núi cao, thung lũng, sườn núi đồi.

1.4.3. Địa chất và th nhƣ ng
Hoàng Liên được cấu tạo từ các loại đá nguồn gốc mắc - ma như
granit, amphibolit, filit, đá vôi, trong đó đá granit là phổ biến nhất (Vũ Tự
Lập, 1999). Địa chất và địa hình, kết hợp với khí hậu làm nên thổ nhưỡng,
quy luật phân bố các loại đất đai ở Vườn quốc gia Hoàng Liên theo đai độ cao
được thể hiện khá rõ. Nhìn chung, các loại đất ở đây có hàm lượng mùn cao,
phần lớn là dạng viên nhỏ, quá trình xói mòn và rửa trôi yếu, độ tơi xốp cao,
độ ẩm lớn, độ dầy tầng đất phổ biến là ở mức trung bình (từ 50 - 120cm),
phần cơ giới thịt nh , thịt trung bình, thịt nặng.Trên địa hình dốc đất dễ bị rửa
trôi và bào mòn, kết hợp với quá trình hoạt động địa chất lâu dài, những hoạt
động xâm thực, phong hóa, bồi tụ đã hình thành nên các thung lũng phủ đầy
phù sa màu mỡ nằm rải rác trong Vườn quốc gia Hoàng Liên.

1.4.4.

hí hậu

Do ở phía Đông của dãy Hoàng Liên, có địa hình phức tạp nên khí hậu
ở Vườn quốc gia Hoàng Liên cũng bị phân hóa mạnh mẽ theo độ cao và
hướng địa hình. Một đặc trưng của khí hậu Hoàng Liên là hầu như quanh năm
duy trì tình trạng ẩm ướt. Độ ẩm tương đối trung bình năm khoảng trên 85 ,
tháng mưa ít nhất trung bình cũng đạt 20 - 30 mm. Tổng bức xạ mặt trời có
chỉ số phổ biến từ 100 - 135 Kcal/cm2 năm. Nhiệt độ không khí trung bình
năm từ 13 - 21 C, lớn ở sườn Tây, nhỏ ở sườn Đông. Nhiệt độ cao đạt đỉnh
vào tháng 6 - 7 có chỉ số 16 - 25 C. Nhiệt độ thấp nhất vào các tháng 12 và

tháng 1, nhiều năm xuống dưới 5 C. Vào mùa đông thường có băng giá và
tuyết rơi đôi khi có thể xuống dưới -3 C. Lượng mưa phân bố không đều giữa
các tháng trong năm, đặc biệt vào các tháng mùa h , lượng mưa tương đối
cao. Mùa mưa bắt đầu từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 10, trong đó có hai
11

Footer Page 19


Header Page 20
tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 7 (454,3mm) và tháng 8 (453,8mm).
Vào mùa đông, do nhiệt độ hạ thấp, hạn chế lượng bay hơi nước. Vì vậy, đây

là khoảng thời gian mưa ít nhất trong năm, lượng mưa trung bình trong tháng
khoảng 50 - 100 mm, thấp nhất vào tháng 12 (63,6mm) nhưng do nhiệt độ
thấp nên thấy rằng khu vực Hoàng Liên không có tháng nào khô. Lượng ẩm
không khí ở khu vực Hoàng Liên tương đối cao, trung bình năm khoảng 86 .
Tháng có độ ẩm lớn nhất là tháng 9 và tháng 11 với giá trị 90 , tháng có độ
ẩm nhỏ nhất là tháng 4 có giá trị 82 .
Ngoài những yếu tố thời tiết chung thì Vườn quốc gia Hoàng Liên còn
có những hiện tượng đặc biệt như sương mù, sương muối, băng giá và mưa
đá.
1.4.5. Th y v n
Do đặc điểm địa hình của khu vực, Vườn quốc gia Hoàng Liên được
tạo thành từ hai sườn chính: sườn Đông ắc dốc thoải về phía sông Hồng và

sườn Tây Nam dốc thoải về phía sông Đà, vì vậy trong khu vực cũng tạo nên
hai hệ suối chính:
- Hệ thống suối thuộc khu vực Đông

ắc gồm 3 suối chính: Mường

Hoa bắt nguồn từ Fanxipan, S o Trung Hồ bắt nguồn từ Tả Van, Tả Trung
Hồ bắt nguồn từ

ản Hồ.

a suối này gặp nhau tại khu vực


ản Dền tạo

thành ngòi o đổ ra sông Hồng. Vì địa hình dốc, chia cắt mạnh, nên về mùa
đông chúng chỉ là suối cạn song về mùa mưa đặc biệt là vào các tháng có
lượng mưa tập trung (7,8,9) thường có lũ và lũ qu t.
- Hệ thống suối thuộc khu vực Tây Nam dãy Hoàng Liên gồm hai suối
chính: Suối Nậm

bắt nguồn từ Fansipan và suối Nậm Pao, Nậm Chăng. Cả

hai suối này đều chảy ra con ngòi lớn Nậm Mu và đổ ra sông Đà. Ngoài hai

hệ thống suối chính thuộc hai sườn của dãy Hoàng Liên, còn một con suối bắt
nguồn từ lưu vực thuộc xã Sa Pả và một phần từ Sa Pa, chảy theo hướng
Đông ắc đổ vào sông Hồng tại thị xã Lào Cai.
12

Footer Page 20


Header Page 21
Chƣơng 2
THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

2.1. Thời gian nghiên cứu
Thời gian tiến hành nghiên cứu được thực hiện từ tháng 09 2015 đến
tháng 05/2016. Mẫu vật sử dụng trong nghiên cứu được thực hiện ở hai đợt
điều tra ngoài thực địa. Các điểm điều tra thuộc khu vực ở đai cao 600 1600m của Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.
 Đợt 1 được tiến hành từ ngày 27 05 2013 đến ngày 31/05/2013
(thuộc mùa mưa).
 Đợt 2 được tiến hành từ ngày 24 10 2013 đến ngày 29/10/2013
(thuộc mùa khô).
Toàn bộ mẫu vật thu ngoài tự nhiên được bảo quản và lưu trữ tại phòng
thí nghiệm Đa dạng sinh học, Bộ môn Động vật Không xương sống, Khoa
Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.2. Địa điểm nghiên cứu

Tiến hành thu mẫu tại 13 điểm nghiên cứu thuộc đai cao 600 - 1600m
của Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai và được đánh số thứ tự từ H1
đến H13.
Dưới đây là một số đặc điểm sinh cảnh của các điểm thu mẫu thể hiện
trong Bảng 2:

13

Footer Page 21


Header Page 22

Bảng 2. Một số đặc điểm sinh cảnh tại các điểm thu mẫu thuộc đai cao
600 - 1600m Vƣờn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai
Kí hiệu

Điểm thu

Độ cao (m)/

mẫu

Tọa độ


hái quát đặc điểm sinh cảnh
Chiều rộng của suối nhỏ. Nước
chảy khá mạnh. Hai bên suối là

H1

Ô Quý Hồ
(xã San Sả Hồ)

1.589

ruộng canh tác của người dân.


(220 22,227’;

Dọc hai bên bờ suối có nhiều cây

1030 47,681’)

bụi, tre, nứa. Nền đáy chủ yếu là
cát và sỏi nhỏ. Độ che phủ từ 60
- 80%.
Hai bên suối là rừng nguyên
sinh. Một bên suối có thác nước.


H2

Sín Chải 1
(xã San Sả Hồ)

1.440

Suối ít mùn bã thực vật. Độ che

(220 20,464’;


phủ khoảng 50-60%. Nền đáy

1030 48,382’)

chủ yếu là đá nhỏ và trung bình.
Chiều rộng trung bình khoảng 11,5m.
Suối nhiều mùn bã thực vật. Độ

H3

Sín chải 2
(xã San Sả Hồ)


1.370

che phủ khoảng 40-60%. Nền

(220 20,387’;

đáy của suối chủ yếu là đá nhỏ

1030 48,467’)

và trung bình, ít đá tảng lớn. Hai

bên suối là rừng nguyên sinh.

H4

Sín Chải 3
(xã San Sả Hồ)

1.334
0

(22 20,395’;
1030 48,643’)


14

Footer Page 22

Nền đáy của suối chủ yếu là đá
có kích thước trung bình. Suối ít
mùn bã thực vật. Nước suối chảy
khá mạnh. Độ che phủ 5-10%.


Header Page 23


Kí hiệu

Điểm thu

Độ cao (m)/

mẫu

Tọa độ

hái quát đặc điểm sinh cảnh

Hai bên suối là ruộng canh tác

H5

Sín Chải 4
(xã San Sả Hồ)

1.322

của người dân. Nền đáy của suối

(220 20,383’;


chủ yếu là đá trung bình, đôi khi

1030 48,540’)

có đá nhỏ và đá tảng lớn. Suối ít
mùn bã thực vật. Độ che phủ 0%.

H6

H7


Nhánh suối Ho
(xã San Sả Hồ)

Suối Ho
(xã San Sả Hồ)

1.220
(220 19,613’;
1030 50,316’)

Chiều rộng của suối rất nhỏ. Nền
đáy của suối chủ yếu là đá tảng.

Hai bên suối có nhiều cây bụi
nhỏ. Độ che phủ 10-20%.

1.213

Nước suối trong và chảy mạnh.

(220 19,623’;

Nền đáy chủ yếu là đá tảng lớn.

1030 50,016’)


Độ che phủ 5-10%.
Phía trên có thác nước là khối đá

H8

Cát Cát
(xã San Sả Hồ)

1.207
(220 19,700’;
1030 49,956’)


tảng lớn. Nền đáy của suối chủ
yếu là đá tảng. Suối ít mùn bã
thực vật. Suối là điểm du lịch
của địa phương. Độ che phủ 010%.
Chiều rộng của suối khá lớn. Hai

H9

Mường Hoa
(xã Tả Van)


991

bên suối là ruộng bậc thang. Bờ

(220 18,276’’;

suối có nhiều cây bụi nhỏ. Độ

1030 53,214’)

che phủ 0-5%. Nền đáy của suối
bị tác động do khai thác cát, sỏi.


H10

Cầu Mây

957

Lòng suối rộng. Nền đáy của

(xã Tả Van)

(220 17,664’;


suối chủ yếu là đá tảng lớn. Một

15

Footer Page 23


Header Page 24

Kí hiệu


Điểm thu

Độ cao (m)/

mẫu

Tọa độ
1030 54,274’)

hái quát đặc điểm sinh cảnh
bên suối là vách núi với nhiều
cây bụi nhỏ, một bên là ruộng

bậc thang. Độ che phủ 0-5%.
Nền đáy chủ yếu của suối là đá

H11

Séo Trung Hồ

849

trung bình và đá tảng. Đôi khi có

1


(220 15,761’ ;

đá nhỏ và cát. Giữa suối có nhiều

( xã Bản Hồ)

1030 55,909’)

cây bụi nhỏ. Độ che phủ khoảng
0-20%.


Séo Trung Hồ
H12

2
( xã Bản Hồ)

H13

840

Nền đáy của suối chủ yếu là đá


( 220 15,964’;

nhỏ và cát. Suối ít mùn bã thực

1030 56,011’)

vật. Độ che phủ 70-95%. Suối
nhiều mùn bã thực vật.
Nước suối chảy mạnh, suối ít

Séo Trung Hồ


750

3

( 220 16,856 ’;

(xã Bản Hồ)

1030 55,813’)

mùn bã thực vật. Suối tương đối
sâu. Nền đáy của suối chủ yếu là

đá tảng. Độ che phủ 0-5%.

2.3. Đối tƣợng nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, sử dụng mẫu Phù du thu được trong mùa mưa
và mẫu Phù du thu được trong mùa khô tại các điểm thu mẫu ở đai cao 600 1600m Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai. Trong thời gian tiến hành
nghiên cứu, mẫu này được bảo quản và lưu trữ tại phòng thí nghiệm Đa dạng
sinh học, Bộ môn Động vật Không xương sống, Khoa Sinh học, Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.

16

Footer Page 24



Header Page 25
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu ngoài tự nhiên
Lấy mẫu theo các phương pháp nghiên cứu thường quy về Phù du đã và
đang thực hiện trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Quá trình thu mẫu định
tính bằng vợt ao (Pond net) và vợt cầm tay (Hand net). Thu mẫu định lượng
bằng cách sử dụng lưới Surber (50cm x 50cm, kích thước mắt lưới 0,2 mm).
Thu mẫu định tính
Tiến trình thu mẫu được thực hiện theo phương pháp của Edmunds và
cộng sự (1976), Mc Cafferty(1981), Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001),

Nguyen and ae (2003, 2005, 2006). Thu mẫu định tính được thực hiện ở cả
nơi nước chảy, cũng như nơi nước đứng. Khi thu mẫu, dùng vợt đưa qua các
đám cỏ, bụi cây nhỏ ven bờ hoặc các đám lá trôi nổi trên bề mặt nước. Đối
với các loại sinh vật trên mặt nước, dùng vợt đưa nhanh trên mặt nước. Đối
với một số loài sống bám vào các tảng đá, dùng phương pháp đạp nước ở nền
suối hoặc nhấc các tảng đá lên tìm kiếm và dùng panh mềm để nhặt mẫu
(tránh làm nát mẫu), ở những vùng nước nhỏ hoặc dòng chảy h p thì việc thu
mẫu được thực hiện bằng vợt cầm tay.
Thu mẫu định lượng
Thu mẫu định lượng bằng cách sử dụng lưới Surber (kích thước 50cm
x 50 cm), kích thước mắt lưới (0,2mm). Chọn vị trí đặt vợt thích hợp, dùng
vợt định lượng đặt ngược dòng nước và thu toàn bộ mẫu trong phạm vi vợt.

Đối với mẫu định lượng, lấy hai mẫu, 1 ở nơi nước đứng và 1 ở nơi nước
chảy.
Mẫu sau khi thu được loại bỏ rác, làm sạch bùn đất. Do các cá thể Phù
du có cơ thể mềm, dễ nát nên thu mẫu phải nh nhàng và nhặt qua mẫu ngay
tại thực địa. Mẫu thu ngoài thực địa được bảo quản trong cồn 80°, ghi etiket
đầy đủ và đem về lưu trữ, bảo quản, phân tích và định loại tại phòng thí
nghiệm Đa dạng sinh học, Bộ môn Động vật Không xương sống, Khoa Sinh
17

Footer Page 25



×