Tải bản đầy đủ (.doc) (158 trang)

Luận án Cơ sở địa lý học phục vụ phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 158 trang )

1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch sinh thái là một trong những loại hình du lịch đã và đang phát triển
mạnh mẽ ở Việt Nam. Nhằm phát triển du lịch bền vững, khai thác đúng thế mạnh
của tài nguyên du lịch (tự nhiên, sinh thái, nhân văn), bảo vệ môi trường, mang lại
lợi ích thiết thực cho dân cư bản địa (đặc biệt là đồng bào các dân tộc), du lịch sinh
thái đã và đang được phát triển với một cơ sở định hướng mới đó là du lịch sinh thái
dựa vào cộng đồng (DLSTDVCĐ).
Theo Pirojnik l.l1, một trong những chuyên gia địa lý du lịch hàng đầu thế
giới, “Du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt”. Theo nguồn gốc phát
sinh có hai loại tài nguyên du lịch là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du
lịch văn hóa. Khi nói về tài nguyên du lịch sinh thái hay DLSTDVCĐ người ta
thường liệt kê các yếu tố của tự nhiên như địa hình, khí hậu, nước và động thực vật.
Trên thực tế sự phân bố, phân hóa và biến động của các yếu tố này tuân theo các
quy luật địa lý chung mà nhà địa lý nổi tiếng Liên Xô Kalescnik đã trình bày trong
“Những quy luật địa lý chung của Trái đất” 2. Ngay cả sự phân bố các quần cư, các
cộng đồng dân cư cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của các quy luật này.
Để có cơ sở cho việc đề xuất định hướng, giải pháp khai thác một cách có
hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên môi trường phục vụ phát triển kinh tế xã hội nói chung, phục vụ phát triển du lịch nói riêng, rất cần nắm vững quy luật
phân bố, phân hóa và biến động của các nguyên liệu tự nhiên cũng như văn hóa xã
hội. Điều này lý giải về sự cần thiết phải nghiên cứu cơ sở địa lý học trong phát
triển du lịch, trong đó có DLST.
Vùng Đông Bắc Việt Nam vừa có tài nguyên du lịch phong phú, vừa có văn
hóa đa sắc tộc, tuy nhiên đời sống của đồng bào các khu vực nông thôn, miền núi
của Đông Bắc còn nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó vậy, việc nghiên cứu “Cơ sở
địa lý học phục vụ phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng” là hoàn toàn
cần thiết nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển của vùng, của các địa phương trong
vùng và là cơ sở khoa học giúp các địa phương định hướng phát triển du lịch bền
vững.



Pirojnik l.l (1986), Địa lý du lịch và dịch vụ tham quan, NXB Minsk. Trần Đức Thanh
dịch, Thư viện Khoa Du lịch học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, ĐH
Quốc Gia Hà Nội.
2
Kalescnik, Những quy luật địa lý chung của Trái đất, Đào Trọng Năng dịch ra tiếng Việt,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, phát hành 1973.
1


2

2. Mục tiêu của luận án
- Xác lập được hệ thống lý luận: cơ sở địa lý học phục vụ phát triển Du lịch
sinh thái dựa vào cộng đồng.
- Rút ra được bài học và gợi mở mô hình du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng từ
thực tế hoạt động du lịch và du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ở hai địa bàn nghiên
cứu trường hợp.
- Đề xuất các định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái dựa vào
cộng đồng tại khu vực nghiên cứu. Kết quả của đề tài là cơ sở để các cơ quan, đơn
vị tham khảo nhằm xây dựng nền tảng kinh tế - xã hội bền vững, góp phần xóa đói
giảm nghèo, nâng cao dân trí và bảo vệ môi trường.
3. Nhiệm vụ của luận án
Để làm sáng tỏ mục tiêu của luận án, 6 nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là:
1. Tổng quan các công trình, các hướng nghiên cứu về du lịch sinh thái và du
lịch sinh thái dựa vào cộng đồng; về đánh giá tổng hợp lãnh thổ phục vụ phát triển
kinh tế xã hội; Tổ chức lãnh thổ và Phát triển bền vững.
2. Thu thập và phân tích số liệu, tài liệu, công trình nghiên cứu trước đó tại
khu vực nghiên cứu. Khảo sát thực địa, điều tra xã hội học và sử dụng phương pháp
chuyên gia nhằm thu thập thông tin sơ cấp về những nguồn lực cơ bản nhằm phát

triển du lịch tại vùng Đông Bắc Việt Nam.
3. Phân tích, đánh giá và làm rõ các nguồn lực (tự nhiên, kinh tế - xã hội và
chính trị) phát triển du lịch nói chung và du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng nói
riêng tại vùng du lịch Đông Bắc trong bối cảnh phát triển kinh tế của vùng và cả
nước.
4. Thành lập bản đồ phân vùng địa lý tự nhiên phục vụ phát triển du lịch sinh
thái dựa vào cộng đồng vùng Đông Bắc Việt Nam.
5. Phân tích, đánh giá và so sánh việc khai thác các nguồn lực phát triển du
lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại hai điểm nghiên cứu lựa chọn là khu vực VQG
Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn và huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
6. Đề xuất định hướng và giải pháp khai thác hiệu quả các nguồn lực phát
triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại vùng du lịch Đông Bắc Việt Nam
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững của vùng, góp phần xoá đói
giảm nghèo; nâng cao dân trí và cải thiện môi trường…
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Khu vực nghiên cứu được giới hạn trong lãnh thổ
vùng Đông Bắc Việt Nam. Về mặt tự nhiên, vùng Đông Bắc có giới hạn từ chân núi
Hoàng Liên Sơn đến hết vùng biển đảo Quảng Ninh. Tuy nhiên, do đề tài liên quan


3

đến các vấn đề về kinh tế xã hội nên phạm vi của vùng sẽ được lấy theo ranh giới
hành chính. Như vậy, Đông Bắc là vùng bao gồm 11 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà
Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc
Giang, Quảng Ninh.

Hình 1.1. Giới hạn lãnh thổ vùng Đông Bắc
- Phạm vi khoa học: Căn cứ mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài, phạm vi khoa
học sẽ bao gồm những vấn đề sau:

+ Các nguồn lực phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ở Đông Bắc
Việt Nam. Cụ thể, đề tài đi sâu đánh giá tiềm năng, thực trạng phát triển du lịch sinh
thái gắn với cộng đồng vùng Đông Bắc Việt Nam, đặc biệt là tại VQG Ba Bể tỉnh
Bắc Kạn và huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
+ Luận án sử dụng cơ sở tài liệu, số liệu kinh tế xã hội và du lịch cập nhật tới năm
2015.
+ Định hướng việc khai thác có hiệu quả các nguồn lực nhằm phát triển du lịch
sinh thái dựa vào cộng đồng để phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Bắc Việt Nam đến
năm 2030.
5. Những luận điểm bảo vệ
- Luận điểm 1: Sự phong phú, đa dạng của điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên và những đặc điểm văn hóa xã hội cũng như năng lực của cộng đồng là
điều kiện quan trọng để phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ở Đông Bắc
Việt Nam.


4

- Luận điểm 2: Sự phân bố, phân hóa của tài nguyên du lịch sinh thái tự
nhiên trên bản đồ phân vùng du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng được xây dựng
theo các tiêu chí đánh giá các nguồn lực tự nhiên và năng lực cộng đồng sẽ là căn
cứ quan trọng trong việc hoạch định chiến lược phát triển du lịch sinh thái dựa vào
cộng đồng ở Đông Bắc Việt Nam.
6. Những điểm mới của luận án
1. Làm rõ được cơ sở địa lý học trong việc phát triển du lịch sinh thái dựa
vào cộng đồng ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Đó là cơ sở địa lý về phân hóa của điều
kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch tự nhiên, các hệ sinh thái đặc thù (HST tự nhiên có
tính đa dạng sinh học cao và HST nhân sinh - sinh thái nông nghiệp và các HST
nhân văn có tính bản địa cao); Phân tích lượng giá về sức hấp dẫn của tài nguyên
DLSTDVCĐ và Phân tích làm rõ về khả năng cung ứng dịch vụ DL cho phát triển

DLSTDVCĐ.
2. Đánh giá khách quan tiềm năng tổng hợp của các nhân tố trên cho phát
triển DLSTDVCĐ theo các tiểu vùng (trên cơ sở phân vùng địa lý, xác định trọng
số đánh giá bằng ma trận tam giác).
3. Đề xuất định hướng phát triển DLSTDVCĐ trên cơ sở kết quả đánh giá có
phân tích so sánh với quan hệ phát triển du lịch vùng.
7. Cơ sở tài liệu của luận án
Luận án được thực hiện dựa trên những nguồn tài liệu cơ bản sau:
- Tài liệu thực địa liên quan đến đề tài được thu thập từ 2010 đến 2014.
- Tài liệu, số liệu thống kê, báo cáo du lịch của Sở Văn hóa Thể thao và Du
lịch các tỉnh vùng Đông Bắc; Niên gián thống kê các tỉnh Đông Bắc năm
2015.Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu, quy hoạch du lịch Việt Nam
đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030.
- Kết quả điều tra xã hội học trong khuôn khổ luận án.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung
chính của luận án gồm 4 chương:
Chương 1. Cơ sở địa lý học phục vụ phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
Chương 2.Đánh giá tổng hợp các nguồn lực phát triển du lịch sinh thái dựa vào
cộng đồng Đông Bắc Việt Nam
Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
Đông Bắc Việt Nam
Chương 4. Định hướng và mô hình phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
Vườn quốc gia Ba Bể và huyện đảo Vân Đồn.


5

Chương 1. CƠ SỞ ĐỊA LÝ HỌC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG

1.1. Tổng quan các vấn đề liên quan đến luận án
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về DLST và DLSTDVCĐ
Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ─ một hình thức rất cụ thể của du lịch
sinh thái ─ đã đi về phía trước như một công cụ có giá trị cho xóa đói giảm nghèo,
bảo tồn đa dạng sinh học và cung cấp các dịch vụ du lịch có trách nhiệm và bền
vững. Chính vì vậy khi nghiên cứu về DLSTDVCĐ cần phải lấy hoạt động DLST
làm cốt lõi.
Thuật ngữ “DLST” được Hector Ceballos - Lascurain (1996) chính thức đưa
ra vào năm 1987 ngay lập tức đã phát triển nhanh chóng và rộng khắp: Du lịch sinh
thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị thay đổi với những mục tiêu đặc
biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và thế giới động vật
hoang dã, cũng như những biểu thị văn hóa (cả quá khứ và hiện tại) được khám
phá trong những khu vực này”. Sự ra đời của Hiệp hội DLST quốc tế (TIES) ba
năm sau đó (1990) bước đầu khẳng định vị thế của DLST với tư cách là một hệ
thống lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững trong du lịch.
Song, cơ sở lý luận về DLST và DLSTDVCĐ được tổng hợp từ các công trình
của các tác giả nước ngoài như: Blangy S. and Mehta H. (2006), James Higham (ed)
(2007); Boo E. (1990); Ceballos-Lascurain Hector (1996); Drumm,A.(1998);
Goodwin, H. (1996); Hawkins Donal E (1994); Lindberg Kleg and Hawkins Donald E
(1993); Carter E. (1993); Jones, S (2002); Tinelle D. Bustam and Taylor Stein (2013);
Ludwig Ellenberg (2006); Sproule.K (1996); Scheyvens,R.(1999); Stephan W. and
John N., (2000)... Các công trình này đã đưa ra các khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc và
điều kiện hình thành và phát triển DLST, DLSTDVCĐ.
Đây là những công trình khoa học bổ ích cho việc vận dụng vào nghiên cứu
về phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên
để phục vụ mục đích phát triển du lịch
Cho đến nay, đã có nhiều công trình đánh giá điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên cho PTDL với nhiều hướng tiếp cận đánh giá: đánh giá thích

nghi sinh thái, đánh giá ảnh hưởng môi trường, đánh giá kinh tế.... Trong đó, hướng
đánh giá thích nghi sinh thái cảnh quan là hướng được sử dụng nhiều.
Thập kỉ 60 và 70, ở Nga và các nước Đông Âu đã có nhiều công trình nghiên
cứu, đánh giá TNDL. Công trình tiêu biểu của I.A Vedenhin và N.N. Misônhitrencô


6

đã đánh giá toàn bộ các tiêu chí tự nhiên làm tiền đề cho việc tổ chức các vùng du
lịch:
Theo Nguyễn Cao Huần (2005), L.I.Mukhina (1973), trong công trình đánh giá
phục vụ du lịch vùng hồ Xelighe đã sử dụng đơn vị cơ sở là “đất đai nghỉ ngơi”- hệ
thống tự nhiên trên đất liền hay dưới nước thuận lợi cho một dạng hay nhóm dạng nghỉ
ngơi nào đó. Việc xác định những yếu tố tự nhiên như tính chất trầm tích, yếu tố địa
hình (độ cao, dốc, tần suất khúc ngoặt....), kiểu đất, thực vật (kiểu thực bì, độ cao cây
cỏ, độ chiếu tán, loài cây đang tái sinh...) làm cơ sở phân hóa không gian của lãnh thổ
vùng hồ cho các dạng nghỉ ngơi.
Còn theo Đặng Duy Lợi (1992), E.E.Phêrôrốp là người đã đề xuất phương pháp
đánh giá khí hậu tổng hợp và đã được các tác giả Subukốp, I.X.Kanđôrốp, D.N.
Đêmina... hoàn thiện. Phương pháp này dựa trên cơ sở phân loại thời tiết trong sinh khí
hậu, qua đó xây dựng tổ hợp các kiểu thời tiết đặc trưng trong ngày với các mức độ
khác nhau đến sức khỏe con người cũng như đến các hoạt động du lịch. Đây là công
trình nghiên cứu về sinh khí hậu con người có giá trị sử dụng của các nhà khí hậu trên
thế giới; A.G.Ixatsenko (1985), căn cứ vào sự đa dạng của môi trường, mức độ thích
hợp của các điều kiện khí hậu, môi trường địa lý, điều kiện vệ sinh và các thuộc tính tự
nhiên khác đặc trưng để xác định mức độ thích hợp cho mỗi loại hình du lịch đồng thời
đánh giá ảnh hưởng của ĐKTN và TNTN đến các công trình du lịch; I.I.Pirôjnhic
(1985) đã tiến hành đánh giá tổng hợp thành phần của hệ thống lãnh thổ du lịch như
TNDL, cấu trúc các luồng khách và cơ sở vật chất phục vụ du lịch theo các vùng và các
đới DL. Công trình này đã đề cập rất nhiều đến hoạt động khai thác lãnh thổ du lịchkhông gian du lịch; B.N.Likhainốp Z(1973) xác định tài nguyên phục vụ việc nghỉ

ngơi, giải trí là một dạng đặc biệt của TNDL, việc nghiên cứu chúng là một nhiệm vụ
quan trọng của địa lý giải trí; Một số tác giả phương Tây như P.David, H.Robinson... đã
tiến hành đánh giá và sử dụng TNTN phục vụ mục đích giải trí. Nhà địa lý Ce Cápar đã
xác định TNDL là một thành hệ quan trọng trong hệ thống lãnh thổ du lịch cần phải
được quan tâm nghiên cứu; Bôniface và Cooper (1993) đều cho rằng nghiên cứu và
đánh giá TNDL là bước căn bản trong quy hoạch PTDL...
1.1.2. Tại Việt Nam
1.1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về DLST và DLSTDVCĐ
Giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nghiên cứu về DLST mới xuất hiện trên các
bài báo và tạp chí khoa học. Đến cuối những năm 1990, DLST đã bước đầu gây
được chú ý ở cấp độ quốc gia với sự tham gia của Tổng cục Du lịch Việt Nam cùng
nhiều tổ chức quốc tế tại Việt Nam như UNDP, UN-ESCAP, WWF, IUCN. Việc tổ
chức những hội thảo xoay quanh các vấn đề phát triển DLST như Hội thảo về DLST


7

với phát triển du lịch bền vững (DLBV) ở Việt Nam (1998); Hội thảo “Xây dựng
chiến lược quốc gia về phát triển DLST ở Việt Nam” (8-1999), Hội thảo khoa học:
“Phát triển du lịch sinh thái trong khu dự trữ sinh quyển: cơ hội và thách thức”
(2004)... là những dấu hiệu bước đầu cho thấy sự quan tâm rộng rãi hơn của giới
học giả. Qua đó, hệ thống cơ sở lý luận về DLST đã phần nào được định hình.
Hệ thống cơ sở lý luận về DLST đã được các tổ chức và các học giả đưa ra
như: Lê Văn Lanh (1998), Hội các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên Việt
Nam (2001); Phạm Trung Lương (2002), Lê Huy Bá (2009). Hầu hết các công

trình nghiên cứu đều thống nhất khái niệm về DLST là một loại hình du lịch dựa
vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường và đóng góp cho các
nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa
phương.

Về cơ sở thực tiễn, năm 2004, dựa trên sự hợp tác của Cục Kiểm Lâm, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, tổ chức phát triển bền vững
Fundeso và Cơ quan hợp tác quốc tế Tây Ban Nha đã xuất bản cuốn “Cẩm nang
quản lý phát triển du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn Việt Nam”. Cuốn sách này
được coi là nền tảng cho công tác quản lý, tổ chức DLST và DLSTDVCĐ tại Việt
Nam.
Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu khác đã và đang được hình thành xoay quanh
vấn đề nhận thức và áp dụng thực tiễn DLST ở Việt Nam như: Đặng Duy Lợi
(1992), Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (1998)Nguyễn Thị Sơn (2000), Phạm
Trung Lương (2002), Hoàng Hoa Quân, Nguyễn Ngọc Khánh, Nguyễn Văn Lanh,
Đỗ Quốc Thông (2002), Nguyễn Quyết Thắng (2005), Nguyễn Thị Hải (2007), Lê
Huy Bá (2008), Nguyễn Xuân Hoà (2009), Trần Đức Thanh.(2003, 2009), Đỗ Trọng
Dũng (2011), Trần Đức Thanh và cộng sự (2014)... Hầu hết những công trình này
đều đưa ra những định hướng phát triển DLST theo hướng phát triển bền vững cho
khu vực nghiên cứu mà chưa nghiên cứu thấu đáo các nguồn lực bên trong để giúp
các địa phương/khu vực nhận diện những thế mạnh trong phát triển DLST và hướng
tới phát triển bền vững khu vực.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên để phục vụ phát triển du lịch
Ở Việt Nam, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về TNDL. Đánh giá
ĐKTN và TNTN phục vụ mục đích du lịch (nhất là phục vụ quy hoạch PTDL) được
đề cập đến khá nhiều. Trên phạm vi toàn quốc đã có một số công trình tiêu biểu
trong lĩnh vực này được Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch thực hiện như: “Quy
hoạch tổng thể PTDL Việt Nam đến năm 2010”, “Quy hoạch tổng thể PTDL tổng


8

thể Đồng bằng Sông Cửu Long”, “Quy hoạch tổng thể PTDL vùng du lịch Bắc Bộ”
(2000), “Quy hoạch tổng thể vùng Bắc Trung Bộ” (2002), “Quy hoạch tổng thể

PTDL vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ” (2002) và đặc biệt là “Quy hoạch
tổng thể PTDL Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030.
Trong công trình “Tài nguyên môi trường du lịch Việt Nam”của Phạm
Trung Lương (2000) đã hệ thống hóa toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn trong đánh
giá TNDL; khả năng ứng dụng của GIS trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu du lịch,
sử dụng GIS trong đánh giá tài nguyên theo phương pháp phân tích không gian.
Còn trong công trình “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam”củaVũ Tuấn
Cảnh, Đặng Duy Lợi, Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ (1991) đã xác định nội dung
đánh giá dựa vào tính chất của TNDL như tính nguyên vẹn, tính hấp dẫn, tính
dung lượng, tính ổn định của môi trường tự nhiên.
Trong lĩnh vực nghiên cứu chung về điều kiện PTDL, giáo trình “Địa lý
du lịch” của Nguyễn Minh Tuệ và nhiều người khác (1996) đã hệ thống hóa những
khái niệm cơ bản về du lịch, tài nguyên du lịch và bước đầu định hướng khai thác
tiềm năng du lịch một số tiểu vùng du lịch Việt Nam. Bùi Thị Hải Yến, Phạm
Hồng Long (2007), trong giáo trình “Tài nguyên du lịch”, “Quy hoạch du lịch” đã
đề cập đến đánh giá TNDL, tuy việc đánh giá còn sơ lược.
Trong đề tài “Cơ sở khoa học của PTDL sinh thái Việt Nam” và hội thảo
“DLST với phát triển bền vững ở Việt Nam” (1998), hoặc công trình “Đặc trưng của
hệ sinh thái, cơ sở của PTDL sinh thái Việt Nam”... Phạm Trung Lương, Nguyễn Tài
Cung... đã tập hợp nhiều báo cáo, tham luận và một số nghiên cứu đánh giá về tiềm
năng DLST ở Việt Nam. Những đề tài này đều tập trung đánh giá tiềm năng TNDL
theo từng thành phần hoặc tổng hợp trên phạm vi cả nước nhằm phục vụ công tác quy
hoạch, tổ chức lãnh thổ và phân vùng du lịch. Phạm vi đánh giá thường ở bản đồ tỉ lệ
nhỏ nên kết quả đánh giá chỉ dừng ở mức độ định tính, khái quát.
Theo Phạm Trung Lương (2007) trong đề tài “Cơ sở khoa học để phát
triển các sản phẩm thể thao mạo hiểm vùng núi phía Bắc” đã đánh giá địa hình
cho du lịch. Các tiêu chí về đặc điểm hình thái, trắc lượng hình thái của dạng địa
hình, độ dốc, hang động... được xem xét, phân cấp cho một số LHDL.
Còn theo Nguyễn Khanh Vân, Đặng Kim Nhung (1994) đã xây dựng tổng
hợp thời tiết chính trong ngày dựa trên các tiêu chí: nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió, hiện

tượng sương mù.... đưa ra chỉ tiêu trong điều kiện thời tiết đối với nghỉ dưỡng.
Nguyễn Thị Sơn (2000) trong luận án “Cơ sở khoa học cho việc định
hướng phát triển DLST VQG Cúc Phương” đã đánh giá mức độ DDSH của VQG
Cúc Phương, Ninh Bình cho DLST, đã xác định một số tuyến tham quan trong
rừng đến một số đối tượng sinh vật đặc hữu, quý hiếm.


9

Các công trình “Cơ sở khoa học của việc xác định các tuyến, điểm du
lịch Nghệ An” của Nguyễn Thế Chinh (1995), “Tổ chức lãnh thổ du lịch thành
phố Hải Phòng”, Nguyễn Thanh Sơn (1997), công trình “Đánh giá TNTN tỉnh
Thừa Thiên - Huế phục vụ du lịch, Lê Văn Tín (1999), công trình “Cơ sở khoa học
của việc tổ chức không gian du lịch dải ven biển Thừa Thiên Huế - Quảng Nam –
Đà Nẵng, Nguyễn Tưởng (1999)... đã tiến hành đánh giá mức độ thuận lợi các điều
kiện và tài nguyên trong khu vực cho việc PTDL bằng phương pháp đánh giá tổng
hợp hoặc cho điềm theo phương pháp trung bình cộng của các điểm thành phần.
Đánh giá ĐKTN, TNTN cho PTDL trên phạm vi hẹp (tỉnh, huyện) mới
chỉ được tiến hành chủ yếu ở các đề tài luận án tiến sĩ, Đặng Duy Lợi (1992), với
công trình “Đánh giá và khai thác các ĐKTN và TNTN huyện Ba Vì (Hà Tây)
phục vụ mục đích du lịch” đã đề cập đánh giá tổng hợp ĐKTN cho PTDL trên cơ
sở các chỉ tiêu định tính và bước đầu định lượng, qua đó xác định mức độ thuận lợi
cho PTDL và bước đầu đề xuất hướng khai thác tài nguyên cho một số LHDL như
tham quan, nghỉ dưỡng cuối tuần...
Nguyễn Hữu Xuân (1999), trong luận văn “Bước đầu đánh giá TNTN tự
nhiên huyện Lạc Dương, Lâm Đồng phục vụ phát triển một số LHDL”, cũng đã đề
cập đến việc đánh giá tổng hợp ĐKTN và TNTN cho PTDL ở mức LHDL.
1.1.3. Các nghiên cứu trên lãnh thổ vùng Đông Bắc
Vùng Đông Bắc Việt Nam có tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng và có
sức hấp dẫn không những với du khách trong nước mà còn cả với khách du lịch

quốc tế. Nơi đây có khả năng đón nhận số lượng lớn khách du lịch với nhiều loại
hình khác nhau. Song, những lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên của
Đông Bắc chưa được nhận diện và khai thác có hiệu quả; môi trường ở các vùng
núi, vùng biển đang bị xuống cấp, tài nguyên thiên nhiên đang bị phá hoại nghiêm
trọng. Để đạt được những mục tiêu phát triển của vùng trong tổng thể kinh tế-xã hội
của cả nước, đảm bảo hài hoà giữa phát triển nhanh, hiệu quả và lâu bền, xoá đói
giảm nghèo; nâng cao dân trí và thể lực của nhân dân và cải thiện môi trường…
Chính vì vậy, thời gian qua đã có một số công trình của một số nhà nghiên cứu
nhằm giúp cho vùng Đông Bắc Việt Nam phát huy thế mạnh sẵn có của mình nhằm
phát triển theo hướng bền vững: Phạm Chí Cường (2011): “Nghiên cứu xác lập cơ
sở khoa học và đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo vệ
môi trường khu vực lãnh thổ vùng núi Đông Bắc Việt Nam”; Đỗ Thị Vân Hương
(2014), Nghiên cứu, đánh giá tài nguyên sinh khí hậu vùng Đông Bắc Việt Nam cho
phát triển một số cây trồng nông, lâm nghiệp có giá trị kinh tế, Luận án Tiến sĩ;
Trần Viết Khanh (2011), Đánh giá một số nguồn lực tự nhiên phục vụ phát triển


10

kinh tế - xã hội vùng Đông Bắc Việ Phạm Trung Lương (2007), Cơ sở khoa học để
phát triển các sản phẩm TTMH vùng núi phía Bắc, Đề tài NCKH cấp ngành, Tổng
cục Du lịch Việt Nam; Lê Đức Tố và nnk (2005), Đề tài khoa học thuộc Chương
trình biển cấp Nhà nước KC – 09: “Luận chứng khoa học về một mô hình phát triển
kinh tế sinh thái trên một số đảo, cụm đảo lựa chọn vùng biển ven bờ Việt Nam”...
Hầu hết các công trình kể trên đều với các mục đích, nội dung nghiên cứu
làm rõ tiềm năng tự nhiên, kinh tế, xã hội và hiện trạng khai thác, sử dụng tài
nguyên vùng nghiên cứu và trên cơ sở đó đề xuất được các định hướng phát triển
kinh tế - xã hội trên cơ sở các kết quả đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài
nguyên, kinh tế - xã hội của vùng, đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội
bền vững, bảo vệ môi trường và qua đó đưa ra luận cứ khoa học, các biện pháp, giải

pháp phòng tránh, giảm thiểu tai biến tự nhiên, môi trường phù hợp nhằm góp phần
phát triển bền vững vùng Đông Bắc Việt Nam.
* Những nghiên cứu về Du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng tại VQG Ba Bể
(Bắc Kạn) và huyện đảo Vân Đồn (Quảng Ninh)
i) Tại Vườn Quốc Gia Ba Bể
VQG Ba Bể là khu vực có sự tập trung đa dạng sinh học và các giá trị văn
hóa bản địa của cộng đồng các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Mông, Dao - đây là
những nguồn lực có thể phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói
chung. Thời gian qua đã có nhiều tổ chức đã đưa ra những nghiên cứu về tiềm năng
phát triển DLST cũng như cách thức bảo vệ tài nguyên và phát triển bền vững cho
khu vực như: Báo cáo tổng hợp quy hoạch chung khu du lịch sinh thái hồ Ba Bề Bắc Kạn (2003), Viện nghiên cứu và phát triển du lịch; Báo cáo tổng hợp xây dựng
chiến lược phát triển du lịch sinh thái hồ Ba Bể và các vùng tiềm năng tỉnh Bắc
Kạn (2011) của Trung tâm nghiên cứu và Tư vấn phát triển; Phân hội các vườn
quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên- Hội khoa học kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam
(2001), Các vườn quốc gia Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội; Cục kiểm lâm, Bộ
Nông Nghiệp và phát triển nông thôn, (2002), Chiến lược tài chính bền vững VQG Ba
Bể, tỉnh Bắc Kạn, Nghiên cứu tài chính dự án PARC, Hà Nội....
Trong dự án Quan hệ đối tác vì người nghèo trong Phát triển Nông lâm
nghiệp tỉnh Bắc Kạn (3PAD), tỉnh Bắc Kạn năm 2012, Cẩm nang du lich sinh thái
cộng đồng, Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD): Làm nổi bật tính nguyên
vẹn và đặc trưng của Hồ Ba Bể, quan tâm đến yếu tố môi trường, điều phối các dự
án khác về du lịch trong khu vực và nâng cao năng lực cho cộng đồng địa phương
trong phát triển DLST.
Như vậy, có thể thấy các công trình nghiên cứu về VQG Ba Bể hiện mới
dừng lại ở mức độ nhận diện tiềm năng phát triển DLST nói chung chứ chưa đưa ra


11

được những mô hình DLST hay DLSTDVCĐ nhằm giúp cho cộng đồng địa

phương tại khu vực có thể triển khai các hoạt động phát triển DL một cách hiệu quả
nhất.
ii) Đối với huyện đảo Vân Đồn – Quảng Ninh
Huyện đảo Vân Đồn hiện đang được Nhà nước và tỉnh Quảng Ninh quy
hoạch và định hướng phát triển thành 1 trong 4 trung tâm du lịch hiện đại tại Quảng
Ninh. Để phát huy giá trị các nguồn lực nhằm phát triển du lịch nói riêng và kinh tế
- xã hội nói chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu về khu vực này. Cụ thể:
Đề tài khoa học cấp nhà nước: “Luận chứng khoa học kỹ thuật xây dựng và
phát triển hệ thống du lịch biển Việt Nam” (1995) do PGS.TS Vũ Tuấn Cảnh làm
chủ nhiệm. Đề tài đã có những đánh giá về vị trí, vai trò đồng thời đưa ra những
định hưởng để phát triển du lịch cho tiểu vùng duyên hải Bắc Bộ.
Đề tài khoa học thuộc Chương trình biển cấp nhà nước: “Tổng quan về hệ
thống đảo Việt Nam” (48B - 12) do GS.TSKH Lê Đức An và nhiều người khác thực
hiện năm 1990 đã đưa ra được những đặc trưng cơ bản cho các đảo của Việt Nam.
Đề tài là cơ sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu và ứng dụng phát triển kinh
tế xã hội vùng biển đảo.
Dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010”
do Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch thực hiện năm 1994 đã nghiên cứu đưa ra
được những định hướng phát triển vùng du lịch Bắc Bộ trong đó có đề cập đến tiềm
năng du lịch vùng ven biển và hải đảo của tỉnh Quảng Ninh.
Dự án “Quy hoạch phát triển du lịch Quảng Ninh thời kỳ 2001 - 2010” của
Sở Du lịch Quảng Ninh thực hiện năm 2001 đã thống kê nguồn tài nguyên du lịch,
đánh giá hiện trạng và đưa ra được những định hướng và các giải pháp cơ bản cho
phát triển du lịch của tỉnh.
Đề tài khoa học thuộc Chương trình biển cấp Nhà nước KC – 09: “Luận
chứng khoa học về một mô hình phát triển kinh tế sinh thái trên một số đảo, cụm
đảo lựa chọn vùng biển ven bờ Việt Nam” (2005) do GS. TS. Lê Đức Tố chủ trì đã
tiến hành phân tích tiềm năng du lịch sinh thái ở một số đảo, cụm đảo ven bờ trong
đó có một số đảo của Quảng Ninh.
Đề tài khoa học “Đánh giá tổng hợp tiềm năng tự nhiên, kinh tế xã hội; thiết

lập cơ sở khoa học và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho một số
huyện đảo” được thực hiện vào năm 2006 do GS. TSKH. Phạm Hoàng Hải chủ trì
đã tiến hành đánh giá điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên nhằm phát triển
một cách bền vững các ngành kinh tế bao gồm cả du lịch tại một số huyện đảo trong
đó có Cô Tô và Vân Đồn của Quảng Ninh.


12

Đề tài khoa học cấp bộ: “Nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch biển đảo
tại vùng du lịch Bắc Bộ” do Nguyễn Thu Hạnh thuộc Viện Nghiên cứu Phát triển
du lịch thực hiện năm 2006 đã hệ thống những vấn đề lý luận về sản phẩm du lịch,
đánh giá hiện trạng và định hướng phát triển các sản phẩm du lịch vùng biển đảo
của vùng du lịch Bắc Bộ.
Đề án “Phát triển du lịch biển, đảo và vùng ven biển Việt Nam đến năm
2020” do Tổng cục Du lịch - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện năm 2009
đã đánh giá có hệ thống tiềm năng tài nguyên và định hướng phát triển du lịch biển
đến năm 2020 trên phạm vi cả nước.
Luận án “Đánh giá tiềm năng tự nhiên phục vụ phát triển du lịch bền vững
khu vực ven biển và các đảo tỉnh Quảng Ninh” được thực hiện trên cơ sở kế thừa
có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu trên, góp phần hoàn thiện hơn về cơ
sở lý luận đồng thời có những đóng góp thực tiễn cho việc khai thác có hiệu quả các
nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên ở khu vực nghiên cứu.
Như vậy, có thể thấy các công trình nghiên cứu về địa bàn khu vực huyện
đảo Vân Đồn đã hệ thống hóa được tiềm năng phát triển du lịch cũng như các định
hướng phát triển bền vững cho khu vực. Hầu hết các công trình chưa đề cập đến khả
năng phát triển DLSTDVCĐ tại khu vực này nên việc đánh giá các nguồn lực và
đưa ra mô hình phát triển DLSTDVCĐ hiện nay đang là một vấn đề mới, có tính
thời sự và thực sự cần thiết.
 Từ lịch sử nghiên cứu đề tài, có thể rút ra một số nhận xét:

* Đối với vấn đề phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
- Lý luận thực tiễn và phát triển du lịch sinh thái được nhiều nhà khoa học và
các tổ chức trong nước cũng như quốc tế quan tâm nghiên cứu: đây là những công
trình khoa học bổ ích cho việc vận dụng vào nghiên cứu về phát triển du lịch sinh
thái dựa vào cộng đồng.
- Ở trong nước, những đề tài nghiên cứu về du lịch sinh thái dựa vào cộng
đồng còn ít, chủ yếu dưới dạng các báo cáo khoa học.
- Đặc biệt, đến nay chưa có những đề tài khảo cứu một cách thấu đáo, toàn
diện về các nguồn lực để phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng nói chung
cũng như việc nghiên cứu đánh giá các nguồn lực đó dựa trên cơ sở của địa lý học
nói riêng tại khu vực Đông Bắc Việt Nam.
* Đối với vấn đề đánh giá tổng hợp tự nhiên và tài nguyên phục vụ phát triển du lịch
Từ một số công trình nghiên cứu trên có thể nhận thấy, du lịch là một hoạt
động kinh tế có những nét đặc trưng riêng, do đó đánh giá lãnh thổ cho du lịch cũng
mang nhiều nét riêng, đó là:


13

- Đánh giá TNDL đã được thể hiện ở nhiều khía cạnh, lãnh thổ đánh giá từ
rất rộng lớn đến rất hẹp. Phần lớn các đề tài nghiên cứu chỉ tập trung đánh giá tiềm
năng PTDL.
- Đánh giá TNDL là một công việc khá phức tạp, hiện tại chưa có sự thống
nhất về quan niệm, phương pháp, chỉ tiêu đanh giá. Đánh giá TNDL có đặc trưng
định tính rất cao. Một số chỉ tiêu được xây dựng thường dựa trên những cảm nhận
định tính hoặc của người quản lý du lịch, hoặc của người đi du lịch, do đó mang yếu
tố chủ quan cao.
- Hầu hết những đánh giá cho du lịch đều dừng ở mức độ đánh giá chung
trên toàn bộ lãnh thổ nghiên cứu, chưa chỉ rõ được không gian thuận lợi cho phát
triển du lịch, chưa xây dựng được bản đồ phân hóa mức độ thuận lợi cho du lịch.

Đánh giá TNDL cho phát triển LHDL ít được quan tâm.
Một số công trình đánh giá một cách riêng lẻ các thành phần tự nhiên như
địa hình, khí hậu, thảm thực vật rừng... mà xem nhẹ đánh giá tổng hợp tự nhiên.
Ngược lại, có công trình đánh giá tổng hợp tự nhiên nhưng lại ít quan tâm đến đánh
giá các thành phần riêng biệt của tự nhiên.
- Sử dụng GIS trong đánh giá tài nguyên phục vụ du lịch bước đầu đã được
đề cập nhưng mức độ đánh giá còn sơ lược.
Cho đến nay, phương pháp đánh giá bằng cách cho điểm số từng yếu tố đánh
giá, tính điểm tổng hay điểm tích vẫn là phương pháp phù hợp với đánh giá cho du
lịch.
=> Đối với Khu vực Đông Bắc Việt Nam và hai điểm nghiên cứu lựa chọn
Hầu hết các công trình kể trên đều với các mục đích, nội dung nghiên cứu
làm rõ tiềm năng tự nhiên, kinh tế, xã hội và hiện trạng khai thác, sử dụng tài
nguyên vùng nghiên cứu và trên cơ sở đó đề xuất được các định hướng phát triển
kinh tế - xã hội trên cơ sở các kết quả đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài
nguyên, kinh tế - xã hội của vùng, đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội
bền vững, bảo vệ môi trường và qua đó đưa ra luận cứ khoa học, các biện pháp, giải
pháp phòng tránh, giảm thiểu tai biến tự nhiên, môi trường phù hợp nhằm góp phần
phát triển bền vững vùng Đông Bắc Việt Nam.
Các công trình cũng chưa đưa ra được những định hướng cụ thể về phát triển
không gian, phát triển sản phẩm cũng như những mô hình DLST hoặc DLSTDVCĐ
nhằm giúp cộng đồng địa phương các khu vực này có thể hiểu và tham gia vào hoạt
động du lịch một cách chủ động nhằm phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu quả nhất.


14

1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Du lịch

Du lịch được hiểu là một kỳ nghỉ hay một chuyến đi, mục đích của du lịch
phục vụ nhu cầu hiểu biết, vui chơi, giải trí, nâng cao sức khỏe của du khách trên cơ
sở thay đổi môi trường sống, thưởng thức và hòa nhập với vẻ đẹp của thiên nhiên,
con người. Trong xu thế hiện nay, du lịch được định nghĩa bao hàm các nội dung
liên quan đến dạng chuyển cư đặc biệt, cách thức sử dụng thời gian tại nơi đến và
các hoạt động Kinh tế xã hội liên quan. Có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch:
Theo Trần Đức Thanh (2003), Tổ chức du lịch thế giới UNWTO đã đưa ra khái
niệm: "Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt
nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở
thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú
không phải là nơi làm việc của họ".
Theo Luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch là hoạt động của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải
trí,nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
Định nghĩa về du lịch đã không ngừng được hoàn chỉnh và chứa đựng những
nội dung cơ bản sau: Là sự di chuyển và cư trú tạm thời; Ngoài nơi thường trú
thường xuyên trong thời gian rỗi của khách du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu đa
dạng của họ; Cùng với mục đích du lịch là việc tiêu thụ những giá trị về tự
nhiên,kinh tế, văn hóa và dịch vụ ở nơi đến của du khách; Là tổng hợp các mối
quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế có liên quan đến khách du lịch.
Như vậy, HĐDL có liên quan đến nhiều thành phần tự nhiên và KTXH.
1.2.1.2. Du lịch sinh thái
Trong Luật Du Lịch Việt Nam (2005), DLST được quan niệm: “DLST là
hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự
tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”.
Các hoạt động đặc trưng chủ yếu của DLST bao gồm: Đi bộ (trên cạn), lặn
(dưới nước) tiếp cận quan sát các hệ sinh thái đặc thù; Quan sát, chụp ảnh các loài
động thực vật quý hiến, đặc hữu, các cảnh quan đặc sắc, các sinh hoạt văn hóa bản
địa; Nghe thuyết minh, Trao đổi với hướng dẫn viên, cộng đồng về các giá trị tự
nhiên, văn hóa bản địa; Lưu trú.

Có thể thấy DLST được coi là du lịch lựa chọn những mặt tích cực của một
số loại hình du lịch, đó là sự kết hợp của cả du lịch tự nhiên và du lịch mạo hiểm và
bao hàm cả các yếu tố trong du lịch bền vững như: mang tính giáo dục cao, hỗ trợ


15

bảo tồn và quan tâm tới cộng đồng, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa
phương.
1.2.1.3. Du lịch cộng đồng
Khái niệm Du lịch cộng đồng (CBT) xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 và có rất
nhiều cách nhìn nhận và hiểu biết khác nhau về khái niệm này. Các khái niệm, định
nghĩa khác nhau tùy thuộc vào các tác giả, khu vực địa lý, hoặc nghiên cứu dự án cụ
thể. Tuy nhiên vẫn có một số nguyên tắc chung như tính bền vững, sự tham gia và
lợi ích của cộng đồng địa phương. Định nghĩa phổ biến về DLCĐ là:
Nicole Hausle và Wolfgang Strasdas (2009)3 cho rằng “DLCĐ là một loại
hình du lịch trong đó chủ yếu người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý.
Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương” Trong định
nghĩa này, Nicole và Wolfgang chú trọng đến vai trò và lợi ích kinh tế mà DLCĐ
đem lại cho người dân địa phương.
Theo tổ chức ESRT trong Chương trình phát triển Du lịch có trách nhiệm với
Môi trường xã hội (2013, tr5): Du lịch cộng đồng mang lại cho du khách những trải
nghiệm về cuộc sống địa phương trong đó các cộng đồng địa phương tham gia trực
tiếp vào du lịch; thu được các lợi ích kinh tế - xã hội từ hoạt động du lịch và chịu
trách nhiệm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường và văn hóa địa phương.
Hiện nay có rất nhiều tên gọi khác nhau có liên quan đến phát triển du lịch
và có sự tham gia ít nhiều của cộng đồng đến phát triển du lịch như: Du lịch dựa
vào cộng đồng (Community - Based Tourism); Phát triển cộng đồng dựa vào du lịch
(Community – Development in tourism; Phát triển du lịch có sự tham gia của cộng
đồng (Community – Participation in Tourism); Phát triển du lịch núi dựa vào cộng

đồng (Comnunity – Based Mountain Tourism)... Đây là phương thức phát triển DL
trong đó, CĐ dân cư là chủ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động DL, thông qua
đây họ được hưởng các quyền lợi về kinh tế song song với trách nhiệm bảo vệ
TNDL theo hướng bền vững.
1.2.1.4. Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
Có nhiều tên gọi khác thường dùng khi đề cập đến du lịch dựa vào cộng
đồng: DLST dựa vào cộng đồng (Community – Based Ecotourism); Du lịch cộng
đồng (Community Tourism). Các tên gọi này đều cùng một ý nghĩa và để thuận tiện
cho sử dụng, người ta hay gọi là du lịch cộng đồng hơn.
DLST dựa vào cộng đồng là một dạng DLST trong điều kiện cộng đồng
địa phương có thực quyền và tham gia vào quá trình phát triển và quản lý
DLST, phần lớn lợi ích thuộc về họ. Sự khác biệt cơ bản giữa DLST và DLST
3

lịch sinh thái dựa vào cộng đồng, ngày 08/10/2015


16

dựa vào cộng đồng là ở cách thức tham gia và mức độ hưởng lợi của cộng đồng.
DLST đòi hỏi sự tham gia và chia sẻ lợi ích cho cộng đồng nhưng sự tham gia đó
có thể là thụ động, kể cả khi cộng đồng được khuyến khích tham gia ngay từ giai
đoạn đầu của dự án. Cộng đồng không giữ vai trò trung tâm, do đó, họ thường
được chia phần rất nhỏ trong tổng lợi ích thu được. Kể cả khi một dự án DLST
đạt đến cấp độ cộng đồng địa phương tham gia vào quá trình quản lý và được
chia sẻ lợi ích một cách công bằng, thì nó mới được coi là dự án kinh doanh
DLST thành công chứ chưa phải DLST dựa vào cộng đồng (Schevyns, 1999).
Theo đề xuất của Schevyns (1999), thuật ngữ “DLST dựa vào cộng đồng” nên
dành cho những dự án kinh doanh dựa vào sự quản lý của cộng đồng ở cấp độ
cao (và do đó phần lớn lợi ích thuộc về cộng đồng) hơn là gần như toàn bộ bị

kiểm soát bởi các công ty bên ngoài.
Cũng so sánh với DLST, theo Viện Nghiên cứu và Phát triển quốc tế (IIED),
DLST dựa vào cộng đồng đề cập một cách rõ ràng hơn các hoạt động du lịch hay
các tổ chức kinh doanh dựa vào cộng đồng địa phương, diễn ra trên chính mảnh đất
của họ, dựa vào những đặc trưng và sức hút về tự nhiên và văn hóa của họ. Nếu
cộng đồng bị tách ra khỏi tài nguyên thiên nhiên, ví dụ tách biệt với các hoạt động
du lịch trong VQG hay KBTTN, thì dù họ có ở cận kề với các khu vực này, họ cũng
khó có thể tự mình phát triển du lịch nếu mảnh đất mà họ sống không có gì đặc biệt.
Tóm lại: Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng không những là một bậc
cao hơn của DLST mà còn là sự phát triển theo hướng bền vững sinh thái của
du lịch dựa vào cộng đồng. Đây là loại hình du lịch do cộng đồng tổ chức, dựa
vào thiên nhiên và văn hoá địa phương với mục tiêu bảo vệ môi trường.
DLSTDVCĐ đề cao quyền làm chủ, chú ý phân bổ lợi ích rộng rãi và nâng cao chất
lượng cuộc sống cho cộng đồng. Với khách du lịch, DLSTDVCĐ tạo cơ hội tìm
hiểu, nâng cao nhận thức về môi trường và giao lưu văn hoá, trải nghiệm cuộc sống
hàng ngày của cộng đồng.
1.2.2. Mục tiêu phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
DLST dựa vào cộng đồng không những là một bậc cao hơn của DLST
mà còn là sự phát triển theo hướng bền vững sinh thái của du lịch dựa vào cộng
đồng. DLST dựa vào cộng đồng cũng là du lịch dựa vào cộng đồng nhưng tập
trung vào việc đi tới những khu vực có sức hút về mặt tự nhiên, đóng góp vào
bảo tồn môi trường và đời sống của người dân địa phương. Chính vì vậy mục
tiêu phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng sẽ bao hàm cả mục tiêu của
cả hai hình thức phát triển du lịch là du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng
nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Cụ thể đó là các mục tiêu sau:


17

- Góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và văn hóa: DLST là loại hình

Du lịch nhằm mục đích giáo dục con người nâng cao hiểu biết về môi trường tự
nhiên, qua đó tạo ý thức tham gia vào các nỗ lực bảo tồn. Đây là một trong những
nguyên tắc cơ bản của DLST trong sự khác biệt rõ ràng giữa DLST với các hình
thức DL tự nhiên khác. Du khách nghỉ ngơi thăm thú thắng cảnh với tầm hiểu biết
được nâng lên về những đặc tính sinh thái khu vực và văn hóa cộng đồng địa
phương. Chính sự hiểu biết đó sẽ giúp khách có thái độ cư xử, thể hiện bằng những
nỗ lực tích cực trong việc bảo tồn và phát triển những giá trị về tự nhiên sinh thái và
văn hóa khu vực.
DLSTDVCĐ đóng góp vào phát triển kinh tế địa phương: vấn đề này vừa
là nguyên tắc vừa là mục tiêu của DLST. Nếu như lợi nhuận từ các loại hình du lịch
khác thuộc về công ty quản lý thì ngược lại, DLSTDVCĐ sẽ giành phần lớn lợi
nhuận vào cải thiện môi trường sống và nâng cao an sinh xã hội cho CĐ ĐP.
Có sự tham gia ngày càng tăng của cộng đồng địa phương thông qua các
vai trò: hướng dẫn viên, đáp ứng chỗ nghỉ cho khách... qua đó sẽ tạo thêm việc làm
tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương. Kết quả là cuộc sống của người dân sẽ ít
bị phụ thuộc hơn vào việc khai thác tự nhiên, đồng thời sẽ nhận thấy lợi ích của việc
bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển DLST. Sức ép của cộng đồng
đối với môi trường vốn đã tồn tại từ bao đời nay sẽ giảm đi và chính cộng đồng địa
phương sẽ là người chủ thực sự, những người bảo vệ trung thành các giá trị tự nhiên
và văn hóa bản địa nơi diễn ra hoạt động DLST.
Mang đến cho khách một sản phẩm có trách nhiệm đối với môi trường và
xã hội: Do đặc thù của DLST là dựa vào thiên nhiên, đó là loại hình tổ chức ngoài
thiên nhiên và trong các vùng tự nhiên hoang dã để tạo ra sản phẩm DL.
1.2.3. Điều kiện hình thành và phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
Mọi hoạt động phát triển du lịch nói chung và DLSTDVCĐ nói riêng đều
được thực hiện trên cơ sở khai thác những giá trị của tài nguyên du lịch tự nhiên,
văn hóa, lịch sử kèm theo các điều kiện về cơ sở hạ tầng và dịch vụ. Kết quả của
quá trình khai thác đó là việc hình thành những sản phẩm du lịch từ các tiềm năng
về tài nguyên, đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Trước tiên đó là những lợi ích về
kinh tế - xã hội, tạo ra nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, nâng cao đời sống kinh tế

cho cộng đồng địa phương thông qua các dịch vụ du lịch, tạo điều kiện cho việc bảo
tồn các giá trị văn hóa, lịch sử và sự đa dạng của thiên nhiên nơi có những hoạt
động phát triển du lịch. Sau nữa là những lợi ích đem lại cho khách du lịch trong
việc hưởng thụ các cảnh quan thiên nhiên mới lạ và độc đáo, các truyền thống văn
hóa lịch sử, những đặc thù dân tộc mà trước đó họ chưa biết tới và từ đó xác lập


18

một ý thức mới về trách nhiệm bảo tồn sự toàn vẹn của các giá trị thiên nhiên, văn
hóa lịch sử của nơi họ đến nói riêng và của hành tinh nói chung.
Mặt khác, DLSTDVCĐ dù là một hình thức du lịch hướng tới sự phát triển
bền vững nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò cốt lõi trong nó chính là loại hình
du lịch sinh thái - loại hình du lịch phát triển dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản
địa. Do đó, vai trò của tài nguyên du lịch sinh thái đối với sự phát triển du lịch sinh
thái dựa vào cộng đồng là rất quan trọng. Đó là các giá trị tự nhiên thể hiện trong
một hệ sinh thái cụ thể và các giá trị văn hóa bản địa tồn tại và phát triển không tách
rời hệ sinh thái tự nhiên đó.
Theo Phạm Trung Lương (2002), không phải mọi giá trị tự nhiên và văn hóa
bản địa đều được coi là tài nguyên DLST mà chỉ có các thành phần và các thể tổng
hợp tự nhiên, các giá trị văn hóa bản địa gắn với một hệ sinh thái cụ thể được khai
thác sử dụng để tạo ra các sản phẩm DLST, phục vụ cho mục đích phát triển du
lịch nói chung, DLST nói riêng mới được xem là tài nguyên du lịch. Bao gồm:
- Các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù, đặc biệt nơi có tính đa dạng sinh học cao
với nhiều loài sinh vật đặc hữu, quý hiếm (các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên, các
sân chim...).
- Các hệ sinh thái nông nghiệp (vườn cây ăn trái, trang trại, làng hoa cây
cảnh...).
- Các giá trị văn hóa bản địa hình thành và phát triển gắn liền với sự tồn tại
của hệ sinh thái tự nhiên như các phương thức canh tác, các lễ hội, sinh hoạt truyền

thống gắn với các truyền thuyết của cộng đồng).
Do đặc thù của DLST là dựa vào thiên nhiên, đó là loại hình tổ chức ngoài thiên
nhiên và trong các vùng tự nhiên hoang dã để tạo ra sản phẩm DL. Chính vì vậy, những
khu vực được lựa chọn phát triển DLSTDVCĐ cần tuân thủ các yêu cầu sau:
- Là nơi tiến hành các hoạt động DL mà cách ứng xử với môi trường tự nhiên
chỉ có mức độ thỏa mãn theo các quy định pháp luật hiện hành với những dự án
nằm ngoài giới hạn của DLST.
- Những nơi được thiết kế, xây dựng, gắn liền với thiên nhiên môi trường
hơn, thể hiên qua “tính nhạy cảm của các điểm, các cụm có mật độ thấp ít sử dụng
thiết kế và các vật liệu hạn chế tầm quan sát, gây ảnh hưởng đến môi trường. Tuy
nhiên vẫn cung cấp đầy đủ các tiện nghi dịch vụ và hoạt động của một cuộc DL
truyền thống”. Loại này chấp nhận tầm quan trọng của môi trường hơn là thực tiễn
của DLST.
- Nơi du khách có cơ hội tham quan môi trường còn hoang sơ, nguyên vẹn.
Các cơ sở lưu trú, tiện nghi với sự hạn chế tối đa tác động tới môi trường được xem
là tiêu chuẩn của du khách.


19

- Là những nơi “tự nhiên” được coi trọng hàng đầu để nghỉ ngơi và giáo dục
với nỗ lực tăng cường trực tiếp ý thức bảo tồn và giữ gìn môi trường. Các chuyến
thám hiểm trong ngày, các trung tâm tham quan và phiên dịch viên là chìa khóa.
- Là loại dành cho khách “thám hiểm” đến các vùng xa xôi, hoang dã, các
chương trình DL được thiết kế nhằm hướng tới việc nâng cao nhận thức về bảo tồn
môi trường tự nhiên và văn hóa.
Ngoài ra, phát triển DLST hướng con người đến các vùng tự nhiên hoang sơ,
có giá trị cao, điều này đặt ra một yêu cầu cấp bách đặt ra đối với Du lịch sinh thái
dựa vào cộng đồng là cần phải có sự tham gia của cộng đồng địa phương tại khu
vực đó bởi vì hơn ai hết chính những người dân địa phương tại đây hiểu rõ nhất về

các nguồn tài nguyên của mình, sự tham gia của cộng đồng địa phương có tác dụng
to lớn trong việc giáo dục du khách bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường tại
đó đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức cho cộng đồng, tăng các
nguồn thu nhập cho cộng đồng. Ngoài ra, CĐĐP còn có các vai trò cụ thể như sau:
- CĐĐP là người cung cấp các dịch vụ phục vụ du lịch ban đầu của DSLT.
Có thể nói DL về với thiên nhiên chủ yếu diễn ra tại nơi có thiên nhiên hoang sơ.
Trong khi đó, những khu vực này thường có địa hình hiểm trở, gây khó khăn và tốn
kém cho công tác xây dựng cơ sở hạ tầng và giao thông cũng như các hoạt động
cung ứng dịch vụ du lịch. Vì vậy khách du lịch và các nhà kinh doanh thường dựa
vào động đồng dân cư tại các làng, bản, thôn....
- CĐĐP và đời sống của họ cung cấp nguồn tài nguyên du lịch hữu hình và
vô hình phong phú. Các phong tục tập quán, lễ hội, lối sống, kiến trúc nhà ở... độc
đáo của các cộng đồng có sức thu hút đối với khách du lịch.
- CĐĐP là những người am hiểu các điều kiện cũng như tài nguyên của mình
nhất nên nếu được đào tạo, họ sẽ là nguồn nhân lực tích cực và hiệu quả cho hoạt
động du lịch.
- Đời sống của CĐĐP gắn liền với điểm du lịch được khai thác nên nếu nhận
thức được vai trò của DLST đối với cộng đồng, họ sẽ là lực lượng bảo vệ tốt nhất
nguồn tài nguyên du lịch địa phương một cách bền vững. Đồng thời, họ cũng sẽ
có phản ứng nhanh nhất với những biến đổi tiêu cực của môi trường.
Như vậy, đối với việc người dân tham gia vào hoạt động phát triển DL, các
phương thức tham gia này của CĐ sẽ là một quá trình để xác định và củng cố vai trò
của CĐ trong công tác quy hoạch, trong quá trình thực hiện, giám sát và đánh giá
các hoạt động có ảnh hưởng đến đời sống của CĐ.
1.2.4. Nguyên tắc phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
Khác với nhiều loại tài nguyên khác, sau khi được khai thác có thể vận chuyển
đi nơi khác để chế biến tạo ra sản phẩm rồi lại được đưa đến tận nơi tiêu thụ, tài


20


nguyên du lịch nói chung, tài nguyên DLST nói riêng thường được khai thác tại chỗ
để tao ra các sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của du khách. Trong một số trường hợp
thực tế có thể tạo ra những vườn thực vật, các công viên với nhiều loài sinh vật đặc
hữu trong môi trường nhân tạo để du khách tham quan. Tuy nhiên các sản phẩm này
chưa phải là sản phẩm DLST đích thực, được tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của du
lịch đại chúng, đặc biệt ở các đô thị lớn, ít có điều kiện đến các khu tự nhiên. Chính
vì vậy, hoạt động DLSTDVCĐ cần tuân theo một số nguyên tắc sau:
- Có hoạt động giáo dục và diễn giải nhằm nâng cao hiểu biết về môi
trường, qua đó tạo ý thức tham gia vào các nỗ lực bảo tồn: Đây là một trong những
nguyên tắc cơ bản của hoạt động DLSTDVCĐ với các loại hình dựa vào tự nhiên
khác. Du khách khi rời khỏi nơi mình đến tham quan sẽ phải có được sự hiểu biết
cao hơn về các giá trị của môi trường tự nhiên, về những đặc điểm sinh thái khu
vực và văn hóa bản địa. Với những hiểu biết đó thái độ cư xử của du khách sẽ thay
đổi được thể hiện bằng những nỗ lực tích cực hơn trong hoạt động bảo tồn và phát
triển sinh thái và văn hóa khu vực.
- Bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái: Cũng như hoạt động của các loại
hình du lịch khác hoạt động DLST tiềm ẩn những tác động tiêu cực đối với môi
trường tự nhiên. Nếu như đối với những loại hình du lịch khác thì vấn đề bảo vệ
môi trường, duy trì hệ sinh thái chưa phải là những ưu tiên hàng đầu thì ngược lại,
DLST coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản quan trọng cần tuân thủ. Bởi:
việc bảo vệ môi trường và duy trì các hệ sinh thái chính là mục tiêu hoạt động của
DLST; Sự tồn tại của DLST gắn liền với môi trường tự nhiên và các hệ sinh thái
điển hình. Sự xuống cấp của môi trường tự nhiên và các hệ sinh thái điển hình. Sự
xuống cấp của môi trường, sự suy thoái các hệ sinh thái đồng nghĩa với sự đi xuống
của hoạt động DLST. Với nguyên tắc này mọi hoạt động DLST sẽ phải được quản
lý chặt chẽ để giảm thiểu tác động môi trường, đồng thời một phần thu nhập từ hoạt
động DLST sẽ được đầu tư thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường và duy trì
phát triển các hệ sinh thái.
- Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng: Đây được xem là một

trong những nguyên tắc quan trọng đối với hoạt động DLST bởi các giá trị văn hóa
bản địa là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời các giá trị môi trường hệ sinh thái
ở một khu vực cụ thể. Sự xuống cấp hoặc thay đổi tập tục, sinh hoạt văn hóa truyền
thống của cộng đồng địa phương dưới tác động của hoạt động nào đó sẽ trực tiếp
làm mất đi sự cân bằng sinh thái tự nhiên vốn có của khu vực và vì vậy sẽ làm thay
đổi hệ sinh thái đó. Hậu quả của quá trình này sẽ tác động trực tiếp đến DLST.
Chính vì vậy, việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng địa phương có ý
nghĩa quan trọng và là nguyêm tắc hoạt động của DLST.


21

- Tạo cơ hội việc làm và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương: Đây
vừa là nguyên tắc vừa là mục tiêu hướng tới của DLST. Nếu như các loại hình du
lịch thiên nhiên khác ít quan tâm đến vấn đề này và phần lớn lợi nhuận từ các hoạt
động du lịch đều thuộc về các công ty điều hành thì ngược lại, DLST sẽ dành một
phần đáng kể lợi nhuận từ hoạt động của mình đóng góp cải thiện môi trường sống
của cộng đồng địa phương.
Ngoài ra, DLST luôn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của người
dân địa phương vào hoạt động của mình như đảm nhiệm vai trò hướng dẫn viên,
đáp ứng chỗ nghỉ cho khách, cung ứng các nhu cầu về thực phẩm, hàng lưu niệm
cho khách... thông qua đosex tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng địa
phương. Kết quả là cuộc sống của người dân sẽ ít bị phụ thuộc hơn vào việc khai
thác tự nhiên, đồng thời sẽ nhận thấy lợi ích của việc bảo vệ các nguồn tài nguyên
thiên nhiên để phát triển DLST. Sức ép của cộng đồng đối với môi trường vốn đã
tồn tại từ bao đời nay sẽ giảm đi và chính cộng đồng địa phương sẽ là những người
chủ thực sự, những người bảo vệ trung thành các giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa
nơi diễn ra hoạt động DLST.
1.2.5. Đánh giá các điều kiện tự nhiên, tài nguyên phục vụ mục đích phát triển
du lịch

Du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt, hay nói cách khác, các
điều kiện địa lý và tài nguyên là khách thể của du lịch, là cơ sở để phát triển của
ngành du lịch. Khi nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ du lịch, điều kiện địa lý và tài
nguyên có vai trò đặc biệt quan trọng tới việc hình thành các điểm, tuyến du lịch và
hiệu quả kinh tế của hoạt động du lịch.
Theo Nguyễn Đình Kỳ, Lại Vĩnh Cẩm (2011): Đánh giá điều kiện địa lý và
tài nguyên cho mục đích phát triển du lịch là xác định giá trị của các hợp phần tự
nhiên phù hợp cho việc khai thác phát triển du lịch. Đánh giá tài nguyên du lịch
được xác định theo các tính chất của tài nguyên bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên
và tài nguyên du lịch nhân văn. Do vậy, trong nội dung nghiên cứu của luận án, đánh
giá điều kiện địa lý và tài nguyên chính là đánh giá tổng hợp mức độ thuận lợi của tài
nguyên du lịch nhằm xác định khả năngkhai thác và phát triển DLSTDVCĐ vùng
Đông Bắc Việt Nam.
- Các phương thức đánh giá tổng hợp tài nguyên du lịch bao gồm:
+ Đánh giá định tính, là những nhận định về đặc điểm, tính chất của các đối
tượng hoặc lãnh thổ nghiên cứu nhằm mục đích phục vụ cho từng mục tiêu sử dụng
cụ thể. Đánh giá định tính cần đảm bảo các yêu cầu: (1) đảm bảo được tính hiệu quả
(hiệu quả và lợi ích kinh tế, hiệu quả và lợi ích xã hội, hiệu quả và lợi ích môi
trường); (2) đảm bảo được các giá trị (giá trị thưởng thức, giá trị lịch sử, giá trị khoa


22

học, giá trị sử dụng); (3) đáp ứng được các điều kiện (điều kiện giao thông, điều
kiện kinh tế, điều kiện cảnh quan, điều kiện dung lượng, điều kiện thi công, điều
kiện thị trường).
Đối với đánh giá tổng hợp mức độ thuận lợi của tài nguyên du lịch, phương pháp
này cho phép đánh giá ở mức độ: nhiều hay ít, phù hợp hay không phù hợp, thuận lợi
hay không thuận lợi đối với hoạt động du lịch ở một điểm, theo quy mô nhỏ.
+ Đánh giá định lượng, là quy về các chỉ tiêu và cho điểm từng đối tượng

được đánh giá theo những mục tiêu đã đặt ra. Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng
có thể sử dụng phương pháp định lượng, do đó trong một số trường hợp, có thể áp
dụng phương thức đánh giá bán định lượng trong quá trình nghiên cứu.
Đánh giá định tính, định lượng hay bán định lượng các điều kiện tự nhiên và
tài nguyên đều nhằm phục vụ cho mục tiêu khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên.
Thông thường, các nghiên cứu áp dụng quy trình đánh giá định tính sơ bộ trên cơ sở
kết quả phân tích hiện trạng, tiếp theo sẽ tiến hành đánh giá định lượng để đưa ra
những chính sách quản lý, kịch bản quy hoạch và tổ chức lãnh thổ cho các mục tiêu
phát triển.
- Mục đích và các kiểu đánh giá
Đánh giá có thể là định lượng hay định tính. Đánh giá định lượng là các kết
quả phải quy về được các đơn vị đo lường cụ thể: số lượng, khối lượng, kích
thước. Đánh giá định tính là đưa ra được những nhận định về mặt tính chất của sự
vật, hiện tượng.
Trong đánh giá TNDL, theo Nguyễn Thị Hạnh (2012), Mukhina đã cho rằng:
“Đánh giá tài nguyên du lịch là phân loại các TNDL theo mức độ thuận lợi của chúng
cho các hoạt động du lịch nghỉ dưỡng của con người, liên quan tới tất cả các LHDL,
đồng thời cũng có thể cho một LHDL cụ thể”. Còn Boniface và Cooper: “Đánh giá
TNDL là xác định mức độ thuận lợi, phù hợp của các tài nguyên cho các LHDL
khác nhau”.
Như vậy, mục đích của việc đánh giá TNDL phục vụ PTDL là nhằm xác
định mức độ thuận lợi của tài nguyên đối với các hoạt động du lịch nói chung và
từng LHDL, điểm du lịch nói riêng. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và biện
pháp cụ thể nhằm sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất, trên cơ sở bảo tồn và
phát triển tài nguyên.
Theo Đặng Duy Lợi (1992), đánh giá TNDL phục vụ PTDL gồm các kiểu
như sau:
- Đánh giá thẩm mĩ: xác định mức độ cảm giác và phản ứng tâm lí của khách
du lịch đối với TNDL. Cơ sở đánh giá dựa trên những thống kê điều tra xã hội học.



23

- Đánh giá sinh học: Đánh giá các tiêu chí khí hậu, thời gian thích hợp của
khí hậu đối với sức khỏe con người hoặc cho các hoạt động du lịch.
- Đánh giá kĩ thuật: Dựa trên một số chỉ tiêu kỹ thuật của các tiêu chí tự
nhiên, nhân văn để xác định giá trị tài nguyên đối với PTDL, làm cơ sở cho đánh
giá mức độ phân hóa lãnh thổ du lịch, xác định các điểm, tuyến du lịch, khu du lịch.
- Đánh giá kinh tế: là kiểu đánh giá mà kết quả của nó sẽ là giá trị tiền tệ cụ thể.
Như vậy, đánh giá TNDL và các nguồn lực phát triển du lịch sinh thái dựa
vào cộng đồng là một kiểu đánh giá kỹ thuật mà nhiệm vụ xác định mức độ thuận
lợi để phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng theo từng khu vực địa lý. Đánh
giá TNDL có thể tiến hành đánh giá các thể tổng hợp tự nhiên và nhân văn có khả
năng khai thác cho du lịch
1.2.6. Phân vùng địa lý tự nhiên với phát triển du lịch bền vững
1.2.6.1. Ý nghĩa, nhiệm vụ của phân vùng địa lý tự nhiên
Theo V.I.PROKAEP (1971), phân vùng địa lý tự nhiên là sự phân chia và
phân loại các địa tổng hợp trên một lãnh thổ nào đó. Công tác phân vùng bao gồm
cả việc phát hiện và đặt tên các địa tổng hợp, thể hiện chúng trên bản đồ và thuyết
minh những đặc thù của chúng.
Ý nghĩa, đối với khoa học, phân vùng địa lý tự nhiên nhằm phát hiện ra
những đặc điểm phân hóa của các khu vực, sự tác động và mối quan hệ giữa các
thành phần tự nhiên. Từ đó cho phép xác định quy luật phân hóa địa lý tự nhiên
trong phạm vi lãnh thổ nghiên cứu và với lãnh thổ kế bên. Đối với thực tiễn, phân
vùng địa lý tự nhiên góp phần vào việc nghiên cứu, phân tích đánh giá tổng hợp về
điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các điều kiện KT-XH, tài nguyên nhân
văn phục vụ cho các mục đích kinh tế. Kết quả phân vùng địa lý tự nhiên là cơ sở
giúp các nhà nghiên cứu, nhà quản lý xây dựng kế hoạch, chiến lược khai thác hợp
lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Nhiệm vụ của phân vùng địa lý tự nhiên là ở chỗ vạch ra được các thể tổng

hợp địa lý tự nhiên ở các cấp phân vị khác nhau dựa trên sự phân hóa lãnh thổ và
dựa trên những nguyên tắc, phương pháp nhất định.
1.2.6.2. Vai trò của phân vùng địa lý tự nhiên với phát triển du lịch
Phân vùng địa lý tự nhiên là tư liệu, cơ sở khoa học cho nền tảng nghiên cứu
phát triển du lịch: Cơ sở ý nghĩa và nhiệm vụ phân vùng địa lý tự nhiên cho thấy,
kết quả nghiên cứu phân vùng địa lý tự nhiên (bản đồ phân vùng và phần thuyết
minh) là những cơ sở khoa học, trí thức tổng hợp và đầy đủ nhất về ĐKTN, KT-XH
của một lãnh thổ. Vì vậy, phân vùng địa lý tự nhiên có vai trò cung cấp các thông


24

tin nền tảng nhằm khai thác lãnh thổ phục vụ các mục đích kinh tế khác nhau trong
đó có hoạt động du lịch.
Phân vùng địa lý tự nhiên tìm ra mức độ đa dạng và đặc trưng của tài
nguyên du lịch: Du lịch là ngành kinh tế có tính định hướng tài nguyên rõ rệt, không
có tài nguyên du lịch thì không thể phát triển được ngành du lịch. Những lãnh thổ
có quy mô lớn thường không đồng nhất về ĐKTN và có sự phân hóa thành những
thể tổng hợp ĐLTN khác nhau. Kết quả đã tạo nên tính đa dạng và phong phú trong
ĐKTN, TNTN. Các thể tổng hợp địa lý tự nhiên có đặc điểm cũng như mức độ tập
trung tài nguyên thường khác nhau nên khả năng khai thác và sử dụng chúng là
khác nhau.
Đối với lĩnh vực du lịch, sự phân hóa thành các thể tổng hợp lãnh thổ đã tạo
ra sự đa dạng và phong phú, sự độc đáo và những nét đặc thù của tài nguyên du lịch
tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Đặc biệt, sự độc đáo và tính đặc thù trong
tài nguyên đã tạo nên tính đặc trưng và sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch. Phân
vùng địa lý tự nhiên là vạch ra các thể tổng hợp tương đối đồng nhất về tự nhiên, từ
đó tìm ra các giải pháp thích hợp trong khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi
trường trong phát triển du lịch.
Phân vùng địa lý tự nhiên vạch ra các thể tổng hợp địa lý tự nhiên là các

đơn vị cơ sở cho đánh giá tài nguyên du lịch: trong đánh giá tài nguyên du lịch, các
thể tổng hợp địa lý tự nhiên được sử dụng làm đơn vị cơ sở để đánh giá, so sánh
nhằm tìm ra những thể tổng hợp địa lý tự nhiên có mức độ thuận lợi khác nhau
trong phát triển du lịch.
Phân vùng địa lý tự nhiên là cơ sở cho xác lập những quy hoạch và những
định hướng mang tính chiến lược trong phát triển du lịch: Trong đánh giá dựa trên
các thể tổng hợp địa lý tự nhiên, hướng đánh giá dựa trên các đơn vị phân loại cảnh
quan cho phát triển du lịch là một hướng rất tốt và mức độ chi tiết cao. Tuy nhiên,
do lãnh thổ Đông Bắc là một lãnh thổ rộng lớn, việc đánh giá điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn trong phát triển du lịch đòi hỏi có tính bao
quát để phục vụ quy hoạch và những định hướng mang tính chiến lược.
1.2.7. Tổ chức lãnh thổ du lịch
Theo Nguyễn Minh Tuệ (2011), Tổ chức lãnh thổ du lịch là một hệ thống
liên kết không gian của các đối tượng du lịch và các cơ sở phục vụ có liên quan
dựa trên việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên du lịch (tự nhiên, nhân văn), kết
cấu hạ tầng và các nhân tố khác nhằm đạt hiệu quả (kinh tế, xã hội, môi trường)
cao nhất. TCLTDL của từng vùng hoặc ở cấp quốc gia đều phải phân tích sự phân
hóa không gian của du lịch căn cứ vào các điều kiện tài nguyên, hiện trạng cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động ngành cùng các mối liên hệ với các địa


25

phương trong cả nước, với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nhiệm vụ của TCLTDL nhằm đưa ra các tuyến, điểm, các cụm ưu tiên phát
triển du lịch của từng vùng trên cơ sở các phân tích về tiềm năng tài nguyên và các
điều kiện có liên quan khác nhằm khai thác tối đa tiềm năng của vùng. Ngoài ra, các
tuyến, điểm du lịch của một vùng cần có sự đồng nhất và bổ trợ cho các tuyến, điểm
du lịch đã được xác định trong quy hoạch tổng thể quốc gia.
Theo Vũ Tuấn Cảnh và cộng sự (1991), khi nghiên cứu về TCLTDL, các nhà

khoa học thường nghiên cứu về đặc điểm lãnh thổ, sự phân bố theo lãnh thổ của các
hoạt động sản xuất và dịch vụ có liên quan, cũng như những điều kiện địa lý và tài
nguyên du lịch để từ đó đưa ra các cấp khác nhau trong hệ thống phân vị. L.Dinev
(1973) đưa ra hệ thống phân vị gồm 6 cấp: đối tượng du lịch → hạt nhân → khu →
tiểu vùng → vùng → du lịch cơ bản; Với lãnh thổ Liên Xô (cũ), E.A.Kotliarov
(1978) đưa ra hệ thống 4 cấp: nước cộng hòa (vùng, biên khu, tỉnh) → vùng du lịch
→ địa phương du lịch → tiểu vùng du lịch; Buchvarov (1982) với hệ thống 5 cấp
tại lãnh thổ Bungari: điểm du lịch → hạt nhân du lịch → tiểu vùng → á vùng →
vùng du lịch. Tại Việt Nam, do điều kiện đặc thù về diện tích nhỏ hẹp cũng như sự
phân hóa lãnh thổ sâu sắc, hệ thống phân vị lãnh thổ du lịch được xác định theo 5
cấp: điểm du lịch → trung tâm du lịch → tiểu vùng du lịch → á vùng du lịch →
vùng du lịch. Đối với quy mô cấp tỉnh hoặc cấp thành phố trực thuộc Trung ương
còn có khu du lịch, đô thị du lịch và tuyến du lịch.
Là một dạng của tổ chức lãnh thổ xã hội, TCLTDL mang tính lịch sử, được
hình thành và phát triển với các hình thức như: hệ thống lãnh thổ du lịch, thể tổng
hợp lãnh thổ du lịch, vùng du lịch.
1.2.8. Sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
1.2.8.1. Sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Theo Phạm Hoàng Hải (1997) và Đặng Kim Nhung (1994), Quan niệm Bảo
vệ môi trường bị giới hạn thu hẹp trong việc bảo vệ thiên nhiên và sinh thái môi
trường, thái độ này đã dần dần thay đổi khi con người ý thức được sự hủy diệt môi
trường do quá trình phát triển không chú ý đến cân bằng sinh thái trong tự nhiên.
Thực tế sử dụng hợp lý và hiệu quả tài nguyên tự nhiên (TNTN) không chỉ giúp
nâng cao năng suất lao động và đời sống của người dân mà còn góp phần bảo vệ
môi trường (BVMT) và chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững các nguồn TNTN cần được
ưu tiên, bao gồm các hoạt động về khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, có hiệu
quả tài nguyên. Bởi vì hầu hết các vấn đề ô nhiễm môi trường là do việc khai thác
và sử dụng tài nguyên kém hiệu quả, nhất là tài nguyên đất, nước, rừng.



×