Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Xây Dựng Các Giải Pháp Phù Hợp Cho Việt Nam Nhằm Hoàn Thiện, Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Thuế Theo Chuẩn Mực Quốc Tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.13 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Lời nói đầu............................................................................................................ 2
Nội dung................................................................................................................ 3
1. Kinh nghiệm một số nước về quản lý Thuế Thu nhập cá nhân..........................................3
1.1. Về chính sách Thuế Thu nhập cá nhân........................................................................4
1.2 Về quản lý Thuế Thu nhập cá nhân..............................................................................9
1.3. Xu hướng cải cách chính sách Thuế Thu nhập cá nhân ở các nước..........................11
2. Bài học về quản lý Thuế Thu nhập cá nhân cho Việt Nam...............................................14
2.1. Về chính sách Thuế Thu nhập cá nhân.....................................................................14
2.2. Về quản lý Thuế Thu nhập cá nhân...........................................................................16

Kết luận............................................................................................................... 18
Tài liệu tham khảo:..............................................................................................18

1


Lời nói đầu
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu phổ biến và cơ bản trong các
nền kinh tế thị trường. Hiện nay, hơn 180 nước trên thế giới đã áp dụng Luật
Thuế TNCN, tỷ trọng thuế thu nhập chiếm khoảng 13-40% tổng số thu ngân
sách tùy theo quan điểm đánh thuế của từng nước. Chẳng hạn như ở Mỹ, Nhật
Bản, Anh, Pháp, Đức... là 30-40%; Các nước trong khối ASEAN như Thái Lan,
Malaysia, Philippines... chiếm khoảng 13-14%.
Những năm qua, nền kinh tế của Việt Nam đã từng bước hội nhập và phát
triển cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. Cùng với sự hội nhập và phát
triển về kinh tế, hệ thống chính sách thuế cũng đã từng bước được sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện, phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện tốt vai trò là công cụ
quản lý và điều tiết vĩ mô có hiệu quả của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong
đó việc ban hành và áp dụng Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12 (có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2009) là một bước tiến khá quan trọng trong cải cách


chính sách thuế thu nhập nói riêng và chính sách thuế nói chung của Việt Nam.
Qua 3 năm thực hiện, Luật thuế TNCN đã đạt được những mục tiêu đề ra
khi ban hành Luật, như đã bao quát và mở rộng được đối tượng nộp thuế, đối
tượng chịu thuế; Đảm bảo động viên hợp lý thu nhập của dân cư, góp phần đảm
bảo công bằng xã hội; Góp phần đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước và từng
bước góp phần thực hiện kiểm soát thu nhập của dân cư. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được, do sự biến động nhanh của nền kinh tế nên một số quy
định trong Luật Thuế TNCN đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế, chưa phù hợp với
thực tiễn, một số quy định còn phức tạp, phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo
thuận lợi cho người nộp thuế và khó khăn cho công tác quản lý thuế. Trước tình
hình này, Chính phủ đã trình Quốc hội Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật Thuế TNCN.
Bên cạnh việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá về thực trạng quản lý Thuế
TNCN ở Việt Nam thì cần thiết có sự nghiên cứu xu hướng quản lý Thuế TNCN
của các nước trong khu vực và trên thế giới, học tập kinh nghiệm quốc tế để từ
đó đề xuất, xây dựng các giải pháp phù hợp cho Việt Nam nhằm hoàn thiện,
2


nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế theo chuẩn mực quốc tế, phù hợp với
thực tiễn.
Nội dung
1. Kinh nghiệm một số nước về quản lý Thuế Thu nhập cá nhân.
Thuế TNCN là loại thuế phổ biến trên thế giới và có lịch sử hàng trăm
năm nay. Đến nay đã có hơn 180 nước áp dụng Thuế TNCN. Trong đó, quốc
gia đầu tiên áp dụng thuế thu nhập cá nhân là Hà Lan năm 1797, sau đó là Anh
vào năm 1799, Phổ vào năm 1808. Mỹ bắt đầu áp dụng thuế TNCN vào năm
trong thời kỳ nội chiến nhưng bị gián đoạn vào năm 1872. Các nước Châu Âu
khác, cũng như Úc, Newzealand và Nhật Bản áp dụng các loại thuế thu nhập
thường xuyên vào nửa cuối Thế kỷ 19. Các nước Châu Á áp dụng muộn hơn:

Thái lan bắt đầu áp dụng năm 1939, Philippines năm 1945, Hàn quốc năm 1948,
Indonesia năm 1949, Trung quốc năm 1984; Các nước Đông Âu sau khi chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường mới áp dụng lại như Rumani năm 1990, Nga năm
1991, Ba Lan năm 1992...
Thời kỳ mới ban hành, các Chính phủ thường đánh thuế vào đối tượng dễ
đo lường được như đánh trên đất đai, tài sản, hàng hoá hữu hình, các hàng hoá
và tàu biển, hoặc số lượng cửa sổ hoặc lò sưởi trong một toà nhà. Tuy nhiên cho
đến nay sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, thay thế, những chế định quan trọng
trong Luật thuế TNCN đã có nhiều biến đổi.
Thuế TNCN có diện điều chỉnh tất cả các cá nhân có thu nhập từ tiền
lương, tiền công; thu nhập từ kinh doanh; từ đầu tư gián tiếp như mua, bán cổ
phần, trái phiếu, cổ phiếu... Thuế TNCN điều chỉnh không chỉ cá nhân trong
nước mà cả cá nhân người nước ngoài nếu đến nước sở tại làm việc và có thu
nhập. Các khoản thu nhập chịu thuế cũng có diện rộng bao gồm tất cả các
khoản thu nhập của cá nhân. Tuy nhiên, thực hiện chính sách xã hội và mục
tiêu công bằng, luật thuế TNCN của nhiều nước quy định cụ thể một số khoản
thu nhập không chịu thuế, miễn thuế. Cụ thể kinh nghiệm quản lý Thuế
TNCN của một số nước như sau:

3


1.1. Về chính sách Thuế Thu nhập cá nhân
- Xây dựng mô hình đánh Thuế TNCN
Về lý thuyết, có ba mô hình đánh Thuế TNCN chủ yếu: đánh trên từng
loại thu nhập, đánh trên tổng thu nhập và đánh thuế hỗn hợp. Trong thực tế, đại
đa số các nước đều lựa chọn mô hình đánh Thuế TNCN hỗn hợp nhưng có sự
vận dụng cho phù hợp với điều kiện từng nước. Điều đó có nghĩa là, trong hệ
thống thuế, ngoài các loại thu nhập được đánh theo cơ chế chung còn một số
loại thu nhập, do bản chất, được chọn đánh thuế theo cơ chế riêng. Một số nước

tuy vẫn chọn mô hình đánh thuế trên tổng thu nhập nhưng cách xác định thu
nhập ròng chịu thuế của từng loại thu nhập lại áp dụng theo quy tắc riêng.
- Xác định đối tượng nộp Thuế TNCN
Hiện nay, Thuế TNCN của hầu hết các nước trên thế giới chủ yếu dựa
trên hai nguyên tắc đánh thuế, đó là: nguyên tắc đánh thuế theo cư trú (sau đây
gọi tắt là nguyên tắc cư trú) và nguyên tắc đánh thuế theo nguồn phát sinh thu
nhập (sau đây gọi tắt là nguyên tắc nguồn).
Theo nguyên tắc cư trú, một cá nhân được coi là đối tượng cư trú tại một
nước sẽ phải chịu Thuế TNCN đối với toàn bộ thu nhập nhận được, không phân
biệt nguồn thu nhập phát sinh là ở trong nước hay nước ngoài. Còn một cá nhân
được coi là đối tượng không cư trú chỉ phải chịu nghĩa vụ thuế đối với phần thu
nhập có nguồn gốc tại nước đó. Nguyên tắc đánh thuế theo tiêu thức cư trú được
hầu hết các nước áp dụng để đánh thuế đối với các đối tượng được coi là cư trú
tại nước đó. Đa số các nước quy định, đối tượng cư trú là những người có thời
gian sinh sống ở nước sở tại trên 182 hoặc trên 183 ngày trong năm tính thuế (có
thể là năm dương lịch hoặc năm tài chính) hoặc trong khoảng 12 tháng liên tục.
Nếu không thỏa mãn điều kiện trên thì được coi là đối tượng không cư trú. Các
nước áp dụng nguyên tắc này là Nhật Bản, Trung Quốc, Philippin, Malaysia,
Thái Lan, Nga, Thụy Điển...Ví dụ cụ thể của một số nước quy định về đối tượng
nộp thuế TNCN theo nguyên tắc cư trú như:

4


Nhật Bản: Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là những cá nhân cư trú
và không cư trú tại Nhật Bản. Trong đó, cá nhân cư trú tại Nhật Bản là những
người đã sống từ lâu hay đã và đang định cư tại Nhật trong một thời gian dài
liên tục từ một năm trở lên. Cá nhân không cư trú tại Nhật Bản là người có thời
gian cư trú tại Nhật dưới một năm.
Philippin: Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân tại Philippin bao gồm cả

các cá nhân cư trú và không cư trú. Trong đó công dân cư trú là đối tượng chịu
thuế thu nhập trên thu nhập toàn cầu (bao gồm cả thu nhập có nguồn gốc tại
Philippin và thu nhập có nguồn gốc từ nước ngoài). Công dân không cư trú,
người nước ngoài cư trú hoặc người nước ngoài không cư trú là đối tượng chịu
thuế đối với phần thu nhập phát sinh tại Philippin.
Trung Quốc: đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là các cá nhân có chỗ
ở hoặc không có chỗ ở trong nước Trung Quốc, mà cư trú tại Trung Quốc đủ 1
năm, thì phải nộp thuế đối với toàn bộ thu nhập của người đó nhận được từ trong
và ngoài nước Trung Quốc. Cá nhân không có chỗ ở tại Trung Quốc mà cư trú
dưới 1 năm, thì phải nộp thuế đối với thu nhập phát sinh từ Trung Quốc.
Mỹ: Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là những cá nhân cư trú và
không cư trú. Người nước ngoài được coi là cư trú tại Mỹ nếu họ cư trú thường
xuyên hợp pháp tại Mỹ (được cấp thẻ xanh) hoặc nếu họ có mặt ở Mỹ trong một
khoảng thời gian dài đủ để được cấp một thẻ lưu trú.
Nguyên tắc nguồn phát sinh thu nhập được hầu hết các nước áp dụng để
đánh thuế đối với các khoản thu nhập phát sinh tại nước đó của các đối tượng
không cư trú. Cách đánh thuế này cũng phù hợp với những nước có nhiều người
nước ngoài đến làm việc, đầu tư và công dân nước đó ít ra nước ngoài làm việc
hoặc đầu tư. Chẳng hạn Hồng Kông quy định mọi cá nhân, không phân biệt cư
trú hay không cư trú, chỉ phải nộp thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập phát
sinh tại Hồng Kông.

5


- Xác định thu nhập chịu Thuế TNCN
Hiện có hai cách xác định thu nhập chịu thuế khác nhau trong lĩnh vực
này: đó là thu nhập đã nhận (thu nhập gộp) hay thu nhập đã nhận được trừ một
số khoản chi phí để tạo ra thu nhập.
Đối với các nước có quan điểm đánh thuế trên số thu nhập đã nhận thì thu

nhập tính thuế được xác định là toàn bộ số tiền mà NNT đã nhận, không phân
biệt đã phải bỏ ra ít hay nhiều chi phí để tạo ra thu nhập tính thuế. Cách tính
thuế này đơn giản nhưng thường không đảm bảo được sự công bằng trong chính
sách động viên đối với từng cá nhân, từng gia đình. Đây là cách xác định thu
nhập chịu thuế mà chúng ta đã áp dụng trong Pháp lệnh thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao.
Hầu hết các nước hiện nay (như: Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Thái
Lan,...) đều xác định thu nhập chịu thuế là tổng thu nhập trừ đi tổng các khoản
được giảm trừ của đối tượng đó trong kỳ tính thuế. Tổng thu nhập của một đối
tượng trong kỳ tính thuế là tổng thu nhập chịu thuế mà đối tượng đó kiếm được
trong kỳ tính thuế không bao gồm các khoản được miễn thuế. Tổng các khoản
được giảm trừ là tổng chi phí phát sinh trong kỳ tính thuế và các khoản được phép
trừ khác theo quy định như giảm trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế...
Về cơ bản, đa số các nước đều xác định thu nhập chịu thuế và phân loại
chúng dựa theo nguồn hình thành, và thường bao gồm các loại chủ yếu sau:
+ Thu nhập từ công việc lao động;
+ Thu nhập từ sản xuất kinh doanh;
+ Thu nhập từ tài sản như thu nhập từ cho thuê tài sản, chuyển nhượng tài
sản, thừa kế, quà tặng, quà biếu;
+ Thu nhập từ đầu tư gián tiếp như thu nhập từ tiền lãi, cổ tức, thu nhập
được chia từ các hoạt động góp vốn;
+ Thu nhập khác...
Riêng cơ quan thuế Nhật Bản quy định thu nhập từ tiền hưu trí cũng được
coi là một khoản thu nhập chịu Thuế TNCN.
6


- Xác định thu nhập không chịu Thuế TNCN
Qua nghiên cứu Luật Thuế TNCN của các nước trên thế giới nói chung
như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia... có thể thấy, hầu hết các nước

phân biệt thu nhập không chịu thuế dựa vào các tiêu thức chủ yếu sau:
+ Thứ nhất, không chịu thuế vì lý do xã hội như: các khoản phúc lợi xã
hội, học bổng, tiền bồi thường...
+ Thứ hai, không chịu thuế theo quy định của các Hiệp định, hiệp ước,
thoả thuận quốc tế đã ký kết giữa các nước.
+Thứ ba, không chịu thuế có thể vì lý do chính trị hoặc lý do quản lý như:
các khoản thu nhập bất thường,...
+ Thứ tư, miễn thuế vì lý do muốn khuyến khích một hoạt động cụ thể
nào đó như: thu nhập từ quỹ lương hưu nhằm khuyến khích đóng góp lương
hưu, hoặc thu nhập từ cổ phiếu trái phiếu không chịu thuế nhằm khuyến khích
các hoạt động đầu tư gián tiếp.
- Xác định khoản miễn, giảm Thuế TNCN
Quy định về miễn, giảm thuế có thể được thực hiện theo nhiều cách khác
nhau nhằm đạt được hiệu quả tối ưu của Luật thuế, nhất là yếu tố chính trị luôn
được các nhà lập pháp và hoạch định chính sách cân nhắc kỹ lưỡng. Trên thế
giới hiện nay có các phương pháp miễn, giảm chủ yếu sau:
Phương án 1: Trong luật thuế có quy định rõ những trường hợp miễn,
giảm thuế cụ thể bằng mức tiền hoặc khung tỷ lệ phần trăm (%) trên số thuế
phải nộp, thí dụ: NNT gặp rủi ro bất khả kháng do thiên tai, hoàn cảnh đặc
biệt,... Ưu điểm của phương án này là sự rõ ràng, minh bạch, NNT thấy được
ngay kết quả cụ thể của chính sách. Vì vậy trên thế giới có rất nhiều nước áp
dụng, nhất là các nước phát triển.
Phương án 2: Quy định miễn giảm thuế dưới hình thức tạm thời chưa thu
thuế đối với một số khoản thu nhập. Ưu điểm là thu hút nhiều hơn được sự quan
tâm của xã hội mà vẫn đạt được mục tiêu lâu dài của chính sách đồng thời mang
ý nghĩa chính trị lớn.
7


Phương án 3: Dựa trên cơ sở kết hợp ưu điểm của 2 phương pháp trên.

Theo đó vừa quy định miễn giảm thuế cho một số loại thu nhập, vừa cho phép
miễn giảm một số tiền thuế nhất định đối với một số đối tượng trong những
hoàn cảnh nhất định.
- Xác định khoản giảm trừ gia cảnh
Luật Thuế TNCN của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định các
khoản giảm trừ gia cảnh cho đối tượng nộp thuế. Đây chính là biểu hiện rõ nét
nhất của tính công bằng theo chiều ngang trong điều tiết thu nhập. Tuy có cùng
một mức thu nhập như nhau nhưng người có hoàn cảnh khó khăn hơn (ví dụ có
nhiều người phải nuôi dưỡng, bị tàn tật...) sẽ gặp khó khăn nhiều hơn khi phải
nộp cùng một mức thuế với những người có điều kiện thuận lợi. Kinh nghiệm
nước ngoài cho thấy các khoản được giảm trừ có thể thực hiện theo 2 loại: giảm
trừ cá nhân và giảm trừ tiêu chuẩn.
Giảm trừ cá nhân được thực hiện theo phương pháp kê khai chi phí thực
tế phát sinh đối với các khoản được phép giảm trừ. Các khoản chi phí được giảm
trừ này được cá nhân kê khai và phải có chứng từ chứng minh. Hình thức này
đảm bảo công bằng hơn nhưng phức tạp và tốn kém chi phí hành thu, cho nên
thường chỉ được áp dụng ở những nước có trình độ kinh tế phát triển, trình độ
dân trí cao và hệ thống lưu giữ thông tin tốt. Có nước quy định các chế độ miễn
trừ cho bản thân NNT (vợ hoặc chồng, bố mẹ hoặc con cái phải nuôi dưỡng)
như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Philippines,...
nhưng có nước lại áp dụng biểu tính thuế từ đồng thu nhập đầu tiên để NNT
thấy rõ nghĩa vụ và trách nhiệm công dân của mình (Pháp, Mỹ, Anh...).
Để đơn giản hoá chính sách và giảm nhẹ công tác quản lý, các nước chậm
phát triển thường áp dụng hình thức giảm trừ tiêu chuẩn vì không có đủ tiêu
chuẩn để áp dụng hình thức giảm trừ cá nhân. Theo đó, mức khởi điểm chịu thuế
là mức thu nhập trung bình xã hội đảm bảo trang trải đủ những chi phí cần thiết
về kinh tế và xã hội theo quan điểm và tập quán của mỗi nước.
- Xác định thuế suất và biểu thuế
Mức thuế suất cao hay thấp, được thiết kế theo một mức cố định hay theo
biểu luỹ tiến thể hiện chính sách động viên phù hợp với khả năng đóng góp và

8


trình độ quản lý của mỗi nước. Hầu hết các nước đều chia ra làm hai loại thuế
suất: thuế suất toàn phần và thuế suất luỹ tiến. Trong đó thuế suất toàn phần
thường áp dụng cho loại thu nhập từ vốn, thu nhập từ chuyển nhượng tài sản, thu
nhập từ bản quyền... Thuế suất luỹ tiến chủ yếu áp dụng cho thu nhập từ kinh
doanh và thu nhập từ tiền lương, tiền công.
Để đảm bảo nguyên tắc công bằng thì cần phải xây dựng được biểu thuế
và các mức thuế suất cụ thể trên cơ sở đạt sự cân bằng tối ưu giữa các mục tiêu
được đặt ra. Biểu thuế cần rút gọn các mức thuế suất, giảm bớt mức luỹ tiến
thông qua việc mở rộng biên độ chịu thuế giữa các bậc. Từ kinh nghiệm thực
tiễn và xu hướng cải cách Thuế TNCN trên thế giới, biểu thuế nên thiết kế
khoảng 5 -7 bậc với các mức thuế suất từ 5% đến 45% là hợp lý. Một biểu thuế
với ít bậc thuế và khoảng cách giữa các bậc thuế xa sẽ đảm bảo đơn giản cho
việc quản lý, mang lại hiệu quả nhiều hơn cho công tác quản lý thuế. Trái lại lựa
chọn phương án nhiều bậc thuế suất và giữ khoảng cách hợp lý giữa các bậc thu
nhập cho phép thực hiện được yêu cầu công bằng hơn.
Ví dụ: Ở Nhật Bản, biểu thuế suất luỹ tiến áp dụng đối với thu nhập từ các
khoản tiền công và tiền lương bao gồm 4 mức thuế suất: 10%, 20%, 30% và
37%. Biểu thuế áp dụng đối với thu nhập hoạt động kinh doanh của các cơ sở tự
kinh doanh và thu nhập từ quản lý theo hợp đồng hoặc cho thuê đối với các
doanh nghiệp hoặc tổ chức gồm 5%, 10%, và 13%. Nhật Bản thực hiện thuế suất
tỷ lệ cố định 20% được áp dụng đối với thu nhập từ tiền thù lao tác giả (trừ chi
phí 30% thu nhập chịu thuế).
1.2 Về quản lý Thuế Thu nhập cá nhân
Theo tổng hợp kinh nghiệm quốc tế cho thấy có hai cách tiếp cận đối với
việc quản lý Thuế TNCN: kê khai toàn bộ và kê khai hạn chế. Cụ thể:
- Kê khai toàn bộ
Tất cả cá nhân có thu nhập gộp vượt quá một mức tối thiểu nhất định (gọi

là Ngưỡng kê khai) có nghĩa vụ phải nộp tờ khai thuế, nguyên tắc này cũng áp
dụng cho cả các cá nhân có thu nhập từ nguồn duy nhất là tiền lương do một chủ
lao động trả. Các nước yêu cầu kê khai toàn bộ bao gồm Úc, Canađa, Singapore
và Mỹ.
9


Việc thu nộp thuế áp dụng đối với phương thức kê khai toàn bộ là khấu
trừ thuế tại nguồn, theo đó một số loại thu nhập được người/tổ chức chi trả thu
nhập khấu trừ thuế trước khi chi trả cho NNT, bên cạnh đó NNT có thể yêu cầu
thanh toán thuế định kỳ cho các loại thu nhập khác không được khấu trừ. Vào
cuối năm, NNT nộp tờ khai thuế tổng hợp bao gồm kê khai toàn bộ các hình
thức TNCN khác nhau thu được trong năm (tiền công, thu nhập đầu tư, thu nhập
kinh doanh...) và trừ đi các khoản được giảm trừ (như giảm trừ cá nhân, các
khoản chi phí được trừ...). Thu nhập ròng từ tất cả các nguồn thu sau đó bị đánh
thuế theo biểu thuế suất đơn giản (thường với thuế suất luỹ tiến), sau khi được
bù trừ với khoản thuế nộp thừa hay nộp thiếu đã khai trong tờ khai thuế sẽ tính
toán ra nghĩa vụ thuế còn lại trong năm.
Với hình thức này, các tổ chức chi trả có trách nhiệm báo cáo định kỳ cho
cơ quan thuế các thông tin về giao dịch của mình với NNT. Vào cuối năm, cơ
quan thuế sẽ kiểm tra các thông tin bên thứ ba với thông tin do NNT báo cáo
trên tờ khai thuế. Hệ thống kiểm tra này gắn chặt với mã số thuế đã cấp cho
NNT và các tổ chức khác.
Để hạn chế gánh nặng của phương thức kê khai toàn bộ đối với NNT và
đại lý thuế, nhiều nước đã sử dụng rộng rãi hệ thống kê khai thuế điện tử đối với
với tờ khai thuế và báo cáo về khấu trừ tại nguồn. Tại một số nước, theo quy
định của luật, một số tổ chức (ví dụ như các chủ lao động lớn, các tổ chức tài
chính) phải nộp các báo cáo khấu trừ (và chuyển số tiền khấu trừ của mình) dưới
dạng điện tử. Nhằm giảm bớt chi phí tuân thủ, một số đại lý thuế (như Chi lê,
Đan Mạch, và Thụy điển) đã kết hợp các thông tin nhận được từ bên thứ ba (đại

lý khấu trừ và các tổ chức báo cáo thông tin) với các thông tin khác do cơ quan
thuế nắm giữ để lập tờ khai nhằm hỗ trợ cho NNT trước khi điền vào tờ khai
(các thông tin được hỗ trợ điền vào tờ khai của NNT là các thông tin đã biết về
thu nhập, các khoản chi phí được trừ, các khoản miễn thu...) và việc tính ban đầu
số thuế cần phải nộp cho mỗi NNT.
- Kê khai hạn chế
Theo phương thức kê khai hạn chế, nhiều cá nhân không phải nộp tờ khai
thuế, nhưng thay vào đó bị đánh thuế qua việc khấu trừ tại nguồn thông qua hệ
10


thống khấu trừ tiền lương nhằm làm giảm yêu cầu kê khai đối với các cá nhân có
những nguồn thu nhập khác. Các nước như Đức, Nhật Bản, Hà Lan,
Newzealand, Anh đã tiếp cận theo cách này.
Đối với các cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công do một chủ lao
động duy nhất chi trả (thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số lượng NNT
TNCN tại nhiều nước) thì chủ lao động sẽ khấu trừ trên cơ sở ước tính được sát
nhất nghĩa vụ thuế hàng năm của người làm công phải thực hiện, do đó người
lao động không phải nộp tờ khai thuế. Các khoản miễn thu cá nhân và giảm trừ
cho người phụ thuộc được quy định trong luật thuế (đôi khi, áp dụng hình thức
khoảng 0% đối với những mức thu nhập thấp), hoặc ở mức độ có thể, được tính
trực tiếp vào hệ thống khấu trừ lương.
Trường hợp không thể khấu trừ tại nguồn, cơ quan thuế có thể ban hành quy
định chỉ phải kê khai đối với những khoản thu nhập vượt quá ngưỡng tối thiểu để
tránh việc yêu cầu tất cả người lao động đều phải nộp tờ khai.
Trường hợp phức tạp hơn khi các cá nhân có tiền lương, thu nhập từ hai
công việc trở lên. Những đối tượng này có thể yêu cầu giảm trừ cá nhân và gia
cảnh lần thứ hai. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách yêu cầu phải nộp
tờ khai hoặc yêu cầu cơ quan thuế phải xác nhận tính hợp lệ của việc đề nghị
giảm trừ trước khi được chủ lao động chấp nhận.

1.3. Xu hướng cải cách chính sách Thuế Thu nhập cá nhân ở các nước
Cải cách chính sách Thuế TNCN trong những năm gần đây đã được thực
hiện mạnh mẽ ở nhiều nước. Xu hướng chung của các nước là thực hiện đơn
giản hóa biểu thuế suất và cắt giảm mức thuế suất kể cả mức thuế suất luỹ tiến
cao nhất và mức thuế suất thấp nhất. Theo đó, mặt bằng thuế suất Thuế TNCN
đã được điều chỉnh giảm đáng kể so trước đây.
Một số quốc gia ở Đông Âu đã thực hiện cải cách chính sách Thuế
TNCN của mình theo hướng xóa bỏ biểu thuế suất lũy tiến, áp dụng một
mức thuế suất đồng nhất đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công (Bảng 1).
Tuy việc áp dụng một mức thuế suất tạo nên sự đơn giản cho hệ thống thuế
song phương thức cải cách này cũng đã nhận phải một số chỉ trích, nhất là
liên quan đến vấn đề phân phối lại thu nhập. Thực tế, sự phức tạp của một
11


chính sách thuế không phải xuất phát từ biểu thuế suất mà chủ yếu là từ cơ
sở, phương thức tính thuế, cơ chế miễn giảm thuế.
Bảng 1. Một số quốc gia áp dụng Thuế TNCN đồng nhất một mức
Tên Quốc gia
Látvia
Nga
Slovakia
Ucraina
Cộng hòa Séc
Bungari

Thuế suất Thuế TNCN (%)
Trước cải cách thuế
10; 25
12; 20; 30

5 mức (10-38)
6 mức (10-40)
12-32
20-24

Hiện nay
15
13
19
25
24
10
Nguồn: IMF (2007)

Về cơ cấu Biểu thuế, xu hướng chung hiện nay được nhiều nước áp dụng
là song song với việc giảm dần mức thuế suất đồng thời giảm bớt số bậc thuế
trong Biểu thuế luỹ tiến, ví dụ: như ở Mỹ năm 1986 số bậc thuế suất là 12 bậc,
thì đến năm 2002, 2010 đã giảm xuống còn 6 bậc. Tương tự ở Hàn Quốc năm
1986 số bậc thuế suất là 16 bậc, thì đến năm 2002, 2010 đã giảm xuống còn 4
bậc.
Bảng 2. Xu hướng giảm số bậc thuế suất trong Biểu Thuế TNCN
ở một số nước
STT
1
2
3
4
5
6
7

8
9
10

Tên Quốc gia
Mỹ
Úc
Nhật Bản
Hàn Quốc
Hà Lan
Anh
Cộng hoà Séc
Hungary
Ba Lan
Trung Quốc

Năm 1986
12
5
9
16
9
6

Năm 2002
6
4
4
4
4

3
4
3
3
9

Năm 2010
6
4
5
4
4
3
1
1
1
9

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các tài liệu
Để thu hút đầu tư, mức thuế suất đối với thu nhập từ đầu tư của các cá
nhân cũng đã được nhiều nước cắt giảm. Một số nước đã chuyển sang áp
12


dụng một mức thuế suất đồng nhất đối với thu nhập từ đầu tư (bao gồm thu
nhập từ tiền lãi, cổ tức, thu thập từ cho thuê tài sản, từ chuyển nhượng tài
sản...) thay cho việc gộp chung vào thu nhập từ tiền lương, tiền công và áp
dụng theo biểu thuế luỹ tiến như trước. Ví dụ, thu nhập từ đầu tư của các cá
nhân ở Phần Lan và Nauy hiện đang chịu mức thuế suất 28% (tương đương
với mức thuế suất thấp nhất trong Biểu thuế lũy tiến đối với thu nhập từ tiền

lương, tiền công).
Về gánh nặng Thuế TNCN, do việc cắt giảm thuế suất, thu ngân sách từ
Thuế TNCN ở các nước phát triển có xu hướng giảm. Trong giai đoạn 19982008, thu từ Thuế TNCN trung bình của các nước trong EU-27 so với GDP đã
giảm từ 8,5% xuống 8,1%. Đối với các nước đang phát triển thu từ thuế
TNCN trong tổng thu từ thuế có xu hướng tăng, song vẫn còn ở mức khá
thấp. Thu từ Thuế TNCN của Trung Quốc năm 2008 chỉ bằng 1,2% GDP, của
Ấn Độ bằng 2,2% GDP.
Bảng 3. Tổng thu từ Thuế TNCN và mức thuế suất lũy tiến cao nhất trong
Biểu Thuế TNCN của một số nước trong G20
Tổng
Tên Quốc gia

Năm

phát triển
Ấn Độ
Nga
Trung Quốc

thuế
(%GD

Các nước phát
Anh
triển
Canada
Đức
Hàn Quốc
Nhật Bản
Mỹ

Pháp
Các nước đang

thu

2007
2007
2007
2007
2007
2007
2007

36,08
33,28
36,17
26,53
28,33
28,29
43,71

Thuế
TNCN
(%GDP)
10,9
12,4
9,1
4,4
5,5
10,8

7,5

Thuế

Mức thuế

TNCN

suất

trong

TNCN

tổng thuế

cao nhất

30,1
37,4
25,1
16,7
19,6
38,1
17,1

40
39
45
35

40
35
40

2007
18,57
2,2
11,7
30
2007
37,60
4,0
11,1
13
2008
17,27
1,2
6,9
45
Nguồn: Tính toán từ số liệu của IMF (tháng 4, 2010)
13


Như vậy, nhìn chung xu hướng gần đây của nhiều nước là giảm dần mức
thuế suất cao nhất và đơn giản hoá Biểu thuế. Thực hiện nội dung này sẽ góp
phần tăng cường tính minh bạch và giảm thiểu sự bóp méo mà Thuế TNCN có
thể gây ra.
2. Bài học về quản lý Thuế Thu nhập cá nhân cho Việt Nam
Từ việc tổng hợp và nghiên cứu những kinh nghiệm áp dụng Thuế TNCN
trên thế giới, có thể rút ra những bài học để áp dụng vào thực tiễn quản lý Thuế

TNCN của Việt Nam hiện nay như sau:
2.1. Về chính sách Thuế Thu nhập cá nhân
- Về xây dựng mô hình đánh thuế
Do trình độ quản lý thuế của Việt Nam chưa cao nên Việt Nam đã lựa
chọn hợp lý mô hình đánh thuế hỗn hợp, kết hợp đánh thuế theo nguồn và đánh
thuế trên tổng thu nhập. Tuy nhiên cách đánh thuế này đòi hỏi phải quản lý, nắm
bắt được từng nguồn thu nhập và xây dựng mức thuế hợp lý cho một số nguồn
thu nhập có tính chất đặc thù. Kinh nghiệm các nước chỉ ra rằng, cần nhất quán
và kiên trì theo đuổi mô hình đánh thuế, đồng thời hoàn thiện thể chế và quản lý
thực hiện tốt mô hình đã chọn.
- Xác định đối tượng nộp Thuế TNCN
Nhằm kế thừa các quy định về quản lý thu nhập đối với người có thu nhập
cao, khắc phục bất hợp lý của chính sách hiện hành là cá nhân mang quốc tịch
Việt Nam nhưng sống ở nước ngoài vừa phải nộp thuế thu nhập ở Việt Nam vừa
phải nộp thuế ở nước sở tại và đảm bảo tính khả thi của Luật thì việc xác định
đối tượng nộp thuế cần xoá bỏ tiêu thức quốc tịch. Do vậy, việc kết hợp 2 tiêu
thức cư trú và nguồn phát sinh thu nhập để xác định đối tượng nộp Thuế TNCN
trong Luật Thuế TNCN của Việt Nam là phù hợp với thực tiễn quản lý.
- Xác định thu nhập chịu Thuế và không chịu Thuế TNCN
Học tập kinh nghiệm của đa số quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã vận
dụng và tiến hành phân loại các khoản thu nhập chịu Thuế TNCN theo nguồn
hình thành. Đồng thời, trước đây, chúng ta cũng đã đưa thu nhập từ hoạt động
chứng khoán vào diện chịu Thuế TNCN.
14


Việt Nam cũng xác định các khoản thu nhập không chịu thuế, cơ bản
cũng dựa vào các tiêu thức liên quan đến các lý do chính trị, xã hội, tập quán
phong tục của người Việt Nam, hiệp định, hiệp ước quốc tế hoặc nhằm mục đích
khuyến khích một hoạt động cụ thể... Ngoài ra, Việt Nam còn quy định miễn

giảm thuế cho một số loại thu nhập, vừa cho phép miễn giảm một số tiền thuế
nhất định dưới hình thức tạm thời chưa thu thuế đối với một số khoản thu nhập
đối với một số đối tượng trong những hoàn cảnh nhất định.
Bài học ở đây là, chính sách thuế đối với các hoạt động có thu nhập chịu
thuế và không chịu thuế cần dựa trên căn cứ lý thuyết và thực tiễn xác đáng,
không được tùy tiện. Chính sách thuế phải ổn định, dễ nhận biết trước được
những thay đổi nếu có.
- Xác định khoản giảm trừ gia cảnh
Cũng giống như các nước đang phát triển, Việt nam lựa chọn áp dụng
hình thức giảm trừ tiêu chuẩn để đảm bảo cho việc tính toán đơn giản, tiết kiệm
chi phí hành thu, tạo thuận lợi cho NNT tuân thủ pháp luật và phù hợp với trình
độ dân trí còn thấp.
Đồng thời, trên cơ sở chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà
nước, trong Chiến lược cải cách thuế, Việt Nam xác định mức giảm trừ căn
cứ vào cơ cấu thu nhập/chi tiêu của dân cư. Luật quy định về các khoản giảm
trừ gia cảnh với mức khoán bằng tiền cho đối tượng nộp thuế và người phụ
thuộc. Bài học từ kinh nghiệm các nước là việc xác định đúng đối tượng
người phụ thuộc cần có sự kết hợp quản lý với các cơ quan khác như quản lý
hộ tịch.
- Xác định thuế suất và Biểu thuế
Kinh nghiệm chung trên thế giới cũng cho thấy với thuế suất hạ xuống và
tỷ lệ động viên về thuế giảm ở mức hợp lý sẽ hạn chế trốn, lậu thuế vì người ta ý
thức được rằng việc chấp nhận mức thuế thấp có thể chịu đựng được còn hơn bị
phạt nếu cơ quan thuế phát hiện gian lận thuế vừa mất danh dự vừa mất số
tiền bị phạt lớn hơn. Do vậy, Luật Thuế TNCN của Việt Nam đã quy định
thuế suất toàn phần áp dụng cho thu nhập từ đầu tư vốn ở mức thông lệ quốc
15


tế (5%), chuyển nhượng bất động sản (2%), thu nhập từ bản quyền, nhượng

quyền thương mại (5%), thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán (0,1%).
Biểu thuế luỹ tiến áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu
nhập từ kinh doanh với 7 mức thuế suất (5%, 10%, 15%, 20%, 25%, 30%, 35%).
Bài học ở đây là cần giảm số bậc thuế suất vì thuế suất có 7 bậc được coi
là nhiều. Lộ trình giảm số bậc thuế suất có thể theo phương án từng bước. Ngoài
ra Việt Nam cần xem xét việc thực hiện đơn giản hóa biểu thuế suất và cắt
giảm mức thuế suất, kể cả mức thuế suất luỹ tiến cao nhất và mức thuế suất thấp
nhất để phù hợp xu hướng chung là giảm mức động viên về Thuế TNCN. Bên
cạnh đó, nghiên cứu mở rộng đối tượng thu, điều tiết đối với một số khoản thu
nhập mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường hiện nay để đảm bảo nguồn thu
cho NSNN.
2.2. Về quản lý Thuế Thu nhập cá nhân
Qua nghiên cứu kinh nghiệm quản lý Thuế TNCN của các nước, bài học
rút ra cần áp dụng và thực hiện cho ngành Thuế Việt Nam gồm:
- Tổ chức quản lý thu thuế
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế đã có
nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên về trình độ quản lý vẫn còn ở mức trung
bình so với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Nguồn nhân lực
chất lượng cao vẫn còn khan hiếm, trình độ, kinh nghiệm kỹ năng nghiệp vụ
chuyên môn còn hạn chế. Do vậy, để phù hợp với thực tế Việt Nam, đồng thời
học hỏi tiếp thu kinh nghiệm các nước trên thế giới thì về quản lý Thuế TNCN
cần phải lựa chọn hình thức đơn giản, phù hợp với đại đa số NNT, giảm chi phí
quản lý hành chính cho cả NNT và cơ quan thuế. Nghiên cứu áp dụng phương
pháp quản lý rủi ro vào tất cả các khâu quản lý thuế để tập trung nguồn lực giám
sát, kiểm soát những đối tượng rủi ro cao.
- Về mẫu biểu và phương pháp kê khai
Mẫu biểu kê khai Thuế TNCN cần cải tiến đơn giản, dễ hiểu, dễ kê khai
cho NNT. Về phương pháp kê khai nên áp dụng phương pháp hạn chế. Phương
pháp này sẽ giúp loại bỏ các yêu cầu đối với tất cả các đối tượng chịu thuế phải
nộp tờ khai thuế, tạo sự công bằng hợp lý trong quản lý. Từ đó, cơ quan thuế

16


Việt Nam có thể tập trung nguồn lực quản lý của mình vào việc kiểm soát những
lĩnh vực được cho là có rủi ro cao nhất đối với số thu Thuế TNCN là các đại lý
khấu trừ, các đối tượng có nhiều nguồn thu nhập từ nhiều công việc, các cơ sở
kinh doanh nhỏ và cá nhân hành nghề tự do, thay cho việc nếu không áp dụng
phương pháp hạn chế thì cơ quan thuế sẽ phải xử lý số lượng lớn các tờ khai
thuế mà thực tế thì mỗi tờ khai chỉ phải điều chỉnh rất nhỏ (gây tốn kém nguồn
lực). Do đó, theo phương pháp này, chi phí tuân thủ đối với các đại lý khấu trừ
và các cá nhân sẽ được giảm một cách đáng kể.
- Về xây dựng cơ sở dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin
Ngành Thuế cần tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về NNT
TNCN, tạo điều kiện hỗ trợ cho việc đối chiếu chéo thông tin từ các nguồn thu
nhập khác nhau nhằm kiểm tra thông tin kê khai NNT mà không cần phải đến
trụ sở NNT. Đây là biện pháp quan trọng để cơ quan thuế Việt Nam có thể giám
sát được NNT TNCN với số lượng lớn như hiện nay. Trên cơ sở dữ liệu này, cơ
quan Thuế thực hiện phân tích đánh giá rủi ro NNT thông qua việc áp dụng hệ
thống các tiêu thức đánh giá rủi ro (ví dụ: tiêu thức lựa chọn NNT không kê
khai, không nộp thuế, nộp chậm thuế...) để lựa chọn đúng các trường hợp không
chấp hành tốt pháp luật thuế để thanh tra, kiểm tra.
Đồng thời, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế,
đẩy mạnh áp dụng thuế điện tử. Đây được coi là một trong những điều kiện đảm
bảo thành công cho công tác quản lý thuế hiện nay với số lượng NNT ngày càng
tăng lên nhanh chóng với khối lượng thông tin “khổng lồ” về NNT.
- Phát triển nguồn nhân lực cán bộ thuế
Kinh nghiệm các nước chứng minh rằng, chất lượng nhân lực là cốt lõi
cho mọi thành công của công tác quản lý Thuế TNCN, do vậy cần đào tạo nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu quản lý Thuế TNCN ở Việt
Nam. Đội ngũ phải đủ năng lực quản lý và đạo đức nghề nghiệp để thi hành

thành công chính sách Thuế TNCN của nhà nước, vận hành được hệ thống công
nghệ thông tin hiện đại áp dụng cho hệ thống.

17


Kết luận
Qua tham khảo kinh nghiệm của các nước về thuế thu nhập cá nhân cho
thấy thuế thu nhập cá nhân, mặc dù là một nguồn thu quan trọng của ngân sách
của quốc gia nhưng là một sắc thuế có phạm vi điều chỉnh rộng, đụng chạm trực
tiếp đến lợi ích kinh tế của từng cá nhân trong xã hội. Do vậy, việc áp dụng,
thực hiện và quản lý Thuế TNCN luôn là chủ đề phức tạp và cần có sự quan tâm
chú ý của các cấp các ngành trong xã hội. Trong việc xây dựng luật thuế thu
nhập cá nhân ở mỗi nước, những người hoạch định chính sách phải cân nhắc
một cách kỹ lưỡng.
Tài liệu tham khảo:
1. Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế
thu nhập cá nhân;
2. Báo cáo số 12- Xu hướng cải cách chính sách thuế ở một số quốc
gia, Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính- Bộ Tài chính;
3. "Thuế thu nhập cá nhân ở một số nước trên Thế Giới", Báo Pháp lý
ngày 15/7/2011.

18



×