Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Hoàn thiện công tác chi bảo hiểm xã hội bắt buộc của BHXH thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.07 KB, 82 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Trịnh Thị Thanh Huyền

i


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS Vương Toàn
Thuyên, người đã tận tình hướng dẫn, gợi mở nhiều vấn đề, bổ sung kiến thức
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo,
những người đã dành tâm huyết truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức bổ
ích trong khoảng thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Hàng Hải
Việt Nam.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu Viện Đào tạo sau Đại
học - Trường Đại học Hàng Hải Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi trong quá
trình học tập. Xin chân thành cảm ơn Bảo hiểm xã hội thành phố Hải Phòng đã
cung cấp thông tin trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của
mình.
Hải Phòng, ngày 03 tháng 9 năm 2015
Tác giả

Trịnh Thị Thanh Huyền


ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

Chữ viết tắt
ASXH

Giải thích
An sinh xã hội

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

Bệnh nghề nghiệp


BNN

NLĐ

Người lao động

NSNN

Ngân sách nhà nước

PHSK

Phục hồi sức khỏe

SDLĐ

Sử dụng lao động

TNLĐ

Tai nạn lao động

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
2.1
2.2
2.3

2.4
2.5

Tên bảng
Kết quả chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn giai đoạn
2010 -2014
Số đối tượng hưởng BHXH dài hạn tại thành phố
Hải Phòng giai đoạn 2010-2014
Số tiền chi BHXH dài hạn tại thành phố Hải Phòng
giai đoạn 2010-2014
Số tiền chi theo từng chế độ BHXH dài hạn do NSNN
đảm bảo giai đoạn 2010-2014
Số tiền chi theo từng chế độ BHXH dài hạn do Quỹ
BHXH đảm bảo giai đoạn 2010-2014

v

Trang
31
34
36
39
40


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình
2.1
2.2
2.3

2.4
2.5
2.6
2.7

Tên hình

Trang

Vị trí BHXH thành phố Hải Phòng trong hệ thống tổ
chức quản lý BHXH
Tổ chức bộ máy BHXH thành phố Hải Phòng

24

Tình hình chi chế độ BHXH ngắn hạn giai đoạn 20102014
Diễn biến tăng đối tượng hưởng BHXH dài hạn
giai đoạn 2010-2014
Diễn biến tăng số tiền chi cho đối tượng hưởng
BHXH dài hạn giai đoạn 2010-2014
Phản ánh số chi chế độ BHXH

dài

hạn

do NSNN đảm bảo giai đoạn 2010-2014
Phản ánh số chi chế độ BHXH

dài


hạn

do Quỹ BHXH đảm bảo giai đoạn 2010-2014

vi

23

32
35
38
41
42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
BHXH hoặc bất kỳ một ngành Bảo hiểm thương mại nào đều mang lại những
lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực, góp phần ổn định tài chính cho người tham gia
trước tổn thất do rủi ro, đề phòng và hạn chế tổn thất giúp cho cuộc sống con người
an toàn hơn, trật tự xã hội được bảo đảm hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân và
cộng đồng.
Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, một mặt nỗ lực hướng vào và phát huy
mọi nguồn lực, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; mặt khác, không
ngừng hoàn thiện hệ thống ASXH, trước hết là BHXH để giúp cho con người,
NLĐ có khả năng chống đỡ với các rủi ro xã hội. Kinh tế ngày càng phát triển theo
hướng thị trường thì ASXH càng phải đảm bảo tốt hơn.
Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các
chính sách xã hội đối với NLĐ. Chính vì vậy, ngay từ khi thành lập nước, Chính

phủ đã ban hành các đạo luật về BHXH. Chính sách BHXH trong từng thời kỳ đã
đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo ASXH cho đất nước.
Thực hiện Bộ Luật lao động trong đó có Chương XII về BHXH, và từ khi
Chính phủ ban hành Nghị định số 12/NĐ-CP ngày 23/01/1995 thì các đối tượng
tham gia đóng, hưởng BHXH đã được mở rộng đến tất cả các thành phần kinh tế.
Số người tham gia và thụ hưởng các chính sách BHXH, BHTN, BHYT tăng nhanh
qua từng năm.
Tuy đạt được những thành tựu đáng kể, song trên thực tế công tác chi trả các
chế độ BHXH, BHTN, BHYT nói chung và BHXH bắt buộc nói riêng còn gặp
nhiều khó khăn và hạn chế. Biểu hiện là: còn tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ
BHXH, tại một số địa phương còn để xảy ra tình trạng mất an toàn trong công tác
chi trả, người thụ hưởng không chấp hành đúng các quy định về chi trả, ...
Một trong những nguyên nhân cơ bản là chúng ta chưa xây dựng được một
giải pháp hữu hiệu nhằm quản lý nguồn quỹ, chi trả cho các đối tượng thụ hưởng
một cách đồng bộ và hiệu quả.

1


Những năm vừa qua, lĩnh vực BHXH đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Một số công trình như: “Chiến lược phát triển BHXH phục vụ
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020”(1999) của tác giả Nguyễn Huy
Ban; “Lộ trình và giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo
Nghị định 01/2003/NĐ-CP ngày 9/01/2003”(2004) của tác giả Dương Xuân Triệu;
“Cơ sở khoa học để hoàn thiện qui chế tài chính đối với BHXH Việt Nam”(1999)
của tác giả Phạm Thành; “Hoàn thiện quy chế quản lý tài chính và chế độ kế toán
trong hệ thống BHXH Việt Nam”(2005) của tác giả Nguyễn Phước Tường; “Xây
dựng chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020”(2006) của tác
giả Dương Xuân Triệu; “Hoàn thiện quy chế thu BHXH”(2005) của tác giả Nguyễn
Tiến Quyết: “Thực hiện các chế độ BHXH theo Luật BHXH- Thực trạng và giải

pháp” (2009) của tác giả Nguyễn Anh Minh;... Tuy nhiên chưa có đề tài nào đề cập
đến nội dung công tác chi BHXH bắt buộc trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Là một cán bộ viên chức công tác tại BHXH thành phố Hải Phòng, với mong
muốn đóng góp xây dựng công tác chi trả chế độ BHXH bắt buộc ngày càng hợp lý,
hiệu quả, góp phần ổn định tình hình chính trị, thúc đẩy sự phát triền kinh tế - xã hội
của thành phố, em xin chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác chi BHXH bắt buộc của
BHXH thành phố Hải Phòng” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá tổng quát thực trạng công tác chi BHXH bắt buộc trong giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2014 và đề xuất những biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện
công tác chi BHXH bắt buộc đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những quy phạm pháp luật về BHXH liên quan đến
công tác chi BHXH bắt buộc, các quy định trong quản lý, thực thi nghiệp vụ chi
BHXH bắt buộc được áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các vấn đề về chi BHXH bắt buộc cho đối
tượng thụ hưởng, các yếu tố ảnh hưởng đến công tác chi BHXH bắt buộc, những
biện pháp chống tình trạng lạm dụng, mất an toàn nguồn quỹ.

2


Phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng công tác chi BHXH bắt
buộc trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác- Lê nin và các phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê, phân
tích số liệu từ năm 2010 đến năm 2014, nhằm phân tích hoạt động chi BHXH
bắt buộc cho các đối tượng thụ hưởng và đề ra những giải pháp nhằm quản lý
chặt chẽ nguồn quỹ, chống tình trạng lạm dụng, mất an toàn nguồn quỹ.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Góp phần hệ thống hóa những vấn đề về chi BHXH bắt buộc;
- Đánh giá thực trạng và rút ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của
hạn chế về công tác chi BHXH bắt buộc;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện công tác
chi BHXH bắt buộc cho đối tượng thụ hưởng trên địa bàn thành phố Hải
Phòng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các
phụ lục, luận văn được kết cấu bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Bảo hiểm xã hội và công tác chi Bảo hiểm xã hội
bắt buộc.
Chương 2: Đánh giá thực trạng công tác chi Bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa
bàn thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Biện pháp hoàn thiện công tác chi Bảo hiểm xã hội bắt buộc trên
địa bàn thành phố Hải Phòng.

3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC
CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội
Đến nay còn có nhiều khái niệm về BHXH, chưa có khái niệm thống nhất do
BHXH là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau.
Theo từ điển Bách khoa: "BHXH là sự đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập cho NLĐ khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên

cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ
của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo, an toàn đời sống cho NLĐ và gia
đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội".
Theo Công ước 102 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm về
BHXH như sau: “BHXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của
mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó
khăn về kinh tế và xã hội dẫn đến việc ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập
gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết;
đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con”. Khái
niệm này đã phản ánh được sự kết hợp hai mặt của BHXH là mặt kinh tế và mặt xã
hội.
Theo quy định tại Điều 3 Luật BHXH: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc
chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”
Như vậy, có thể nói BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập cho NLĐ, khi họ gặp phải biến cố, rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả
năng lao động, mất việc làm hoặc chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ tiền

4


tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia BHXH đóng góp và việc sử
dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho bản thân
NLĐ và thân nhân của NLĐ trực tiếp phải nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an toàn
xã hội.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan và sự phát triển của Bảo hiểm xã hội
Trong cuộc sống, để sinh tồn và phát triển con người phải lao động để làm ra
của cải vật chất, nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu. Để lao động con người
phải có sức khỏe. Tuy nhiên trên thực tế con người không phải lúc nào cũng đủ

điều kiện về sức khỏe, không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi, may mắn, có đầy đủ
thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều biến cố, rủi
ro có thể xảy ra với bất kỳ ai, có thể do điều kiện tự nhiên, môi trường sống, hoặc
điều kiện khách quan như: ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu, không có khả
năng lao động, tử vong... cần đến sự sẻ chia về tinh thần và vật chất để giảm bớt
gánh nặng trong cuộc sống sinh hoạt. Muốn an tâm ổn định cuộc sống, con người
đã tìm ra nhiều cách để giải quyết, như san sẻ, đùm bọc lẫn nhau, đi vay mượn
hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước.
Sự tương trợ cộng đồng dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình
thức khác nhau. Lúc đầu, sự trợ giúp này là thụ động, cục bộ, không ổn định và
không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công
trở nên phổ biến, cuộc sống của NLĐ phụ thuộc vào thu nhập do lao động làm thuê
mang lại. Chính vì thế, mất việc làm hoặc gặp rủi ro như ốm đau, bệnh tật đã trở
thành mối đe dọa đối với họ. Ngoài việc được trả tiền công, NLĐ đòi hỏi một
khoản trợ cấp khi họ gặp ốm đau, tai nạn rủi ro, sinh con hoặc khi mất việc làm, ...
Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và chủ SDLĐ
không phải chi trả. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một
khoản tiền lớn mà họ không mong muốn. Để giải quyết vấn đề trên, Nhà nước yêu
cầu cả chủ SDLĐ và NLĐ đều phải đóng một khoản tiền nhất định hàng tháng trên
cơ sở được tính toán chặt chẽ. Từ đó hình thành một quỹ tập trung trên phạm vi
quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ NSNN khi cần thiết để đảm bảo đời sống

5


cho NLĐ khi gặp những biến cố bất lợi. Nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà
rủi ro, bất lợi của NLĐ được dàn trải, cuộc sống của NLĐ ngày càng được ổn định.
Người SDLĐ cũng được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh
được những xáo trộn, mâu thuẫn. Vì vậy nguồn quỹ này được hình thành và không
ngừng phát triển, mang ý nghĩa như một tấm lưới che đỡ cuộc sống của con người.

Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên
được quan niệm là BHXH đối với NLĐ. Như vậy, BHXH ra đời và phát triển là
một tất yếu khách quan và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của mỗi
quốc gia. Mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết tham gia BHXH, nó trở
thành quyền lợi và nhu cầu không thể thiếu của NLĐ.
1.1.3. Vai trò của Bảo hiểm xã hội
1.1.3.1. Đối với người lao động
Thứ nhất, BHXH có vai trò ổn định thu nhập cho NLĐ và gia đình họ. Khi
tham gia BHXH, NLĐ phải trích một khoản phí nộp vào quỹ. Khi gặp rủi ro như:
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm cho chi phí gia đình tăng lên hoặc phải
ngừng làm việc tạm thời. Do vậy, thu nhập của gia đình bị giảm, đời sống kinh tế
rơi vào tình cảnh khó khăn. Nhờ có chính sách BHXH mà họ được nhận một
khoản tiền trợ cấp để đảm bảo ổn định thu nhập, ổn định đời sống, tạo cho NLĐ
luôn yên tâm làm việc.
Thứ hai, ngoài việc đảm bảo đời sống kinh tế, BHXH tạo được tâm lý an tâm,
tin tưởng. Khi tham gia BHXH góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho NLĐ,
đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân.
1.1.3.2. Đối với xã hội
Thứ nhất, tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước, người SDLĐ và NLĐ. Tuy
nhiên, mối quan hệ này thể hiện trên giác độ khác nhau. NLĐ tham gia BHXH với vai
trò bảo vệ quyền lợi cho chính mình, đồng thời phải có trách nhiệm đối với cộng đồng
và xã hội. Người SDLĐ tham gia BHXH là để tăng cường tình đoàn kết và cùng chia
sẻ rủi ro cho NLĐ nhưng đồng thời cũng bảo vệ, ổn định cuộc sống cho các thành
viên trong xã hội. Mối quan hệ này thể hiện tính nhân văn sâu sắc của BHXH.

6


Thứ hai, BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, tạo cho những người
bất hạnh có thêm điều kiện, lực đẩy cần thiết để khắc phục những biến cố xã hội,

hoà nhập vào cộng đồng, kích thích tính tích cực của xã hội trong mỗi con người.
BHXH là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng
tộc, vị thế xã hội đồng thời giúp mọi người hướng tới một cuộc sống công bằng.
Thứ ba, BHXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân
tương ái của cộng đồng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là nhân tố
quan trọng, giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân
bản của con người, tạo điều kiện cho một xã hội phát triển lành mạnh và bền vững.
Thứ tư, BHXH góp phần thực hiện bình đẳng xã hội. BHXH là một công cụ
để nâng cao điều kiện sống cho NLĐ, đồng thời là một công cụ phân phối lại thu
nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. Nhờ sự điều tiết này NLĐ được thực
hiện bình đẳng, không phân biệt các tầng lớp trong xã hội.
1.1.3.3. Đối với nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, khi chuyển sang cơ chế thị trường, thì sự phân tầng giữa các lớp
trong xã hội trở nên rõ rệt, tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các ngành nghề
khác nhau. Rủi ro xảy ra trong cuộc sống không loại trừ một ai, nếu rơi vào những
người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn thì cuộc sống của họ trở nên túng quẫn. BHXH
đã góp phần ổn định đời sống cho họ và gia đình họ.
Thứ hai, đối với các doanh nghiệp, khi NLĐ không may gặp rủi ro thì đã được
chuyển giao cho cơ quan BHXH chi trả. Nhờ vậy tình hình tài chính của các doanh
nghiệp được ổn định hơn. Hệ thống BHXH đã bảo đảm ổn định xã hội tạo tiền đề
để phát triển kinh tế thị trường.
Thứ ba, khi tham gia BHXH cho NLĐ sẽ phát huy tinh thần trách nhiệm, gắn
bó của NLĐ trong các doanh nghiệp làm cho mối quan hệ thị trường lao động
được trở nên lành mạnh hơn, thị trường sức lao động vận động theo hướng tích cực
góp phần phát triển nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, quỹ BHXH do các bên tham gia đóng góp được tích tụ tập trung rất
lớn, phần quỹ nhàn rỗi được đem đầu tư cho kinh tế tạo ra sự tăng trưởng, phát

7



triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho NLĐ.
Thứ năm, BHXH vừa tạo động lực cho các thành phần kinh tế phát triển, vừa
tạo ra sự bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư thông qua hệ thống phân phối lại thu
nhập góp phần lành mạnh hóa thị trường lao động.
1.1.4. Nguyên tắc của Bảo hiểm xã hội
Các nguyên tắc cơ bản của BHXH là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt và
chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật BHXH. BHXH luôn chứa đựng
và đan xen hai yếu tố kinh tế và xã hội. BHXH phải tuân thủ triệt để các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật ASXH. Cụ thể là:
Thứ nhất, mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được hưởng ASXH, là
một trong những biểu hiện cụ thể của quyền con người. Tuy nhiên, để được hưởng
một chế độ trợ giúp nào đó thì đối tượng được trợ giúp phải thỏa mãn những điều
kiện nhất định, như để hưởng BHXH thì NLĐ phải tham gia BHXH theo quy định.
Thứ hai, nhà nước thống nhất quản lí vấn đề ASXH. Cơ sở của nguyên tắc
này nằm ngay chính ở chức năng xã hội của nhà nước. Nhà nước, người chủ sở
hữu cao nhất đồng thời là người chủ SDLĐ lớn nhất, người đại diện cho toàn xã
hội phải là người thống nhất quản lý toàn bộ lĩnh vực ASXH.
Thứ ba, kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Mục tiêu của
chính sách xã hội là nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con
người. Trong khi đó, nguồn lực của con người lại được xác định là “yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Kết hợp hài hòa giữa
phát triển kinh tế và phát triển văn hóa - xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ xã hội là chủ trương có tính chiến lược của Nhà nước ta.
Thứ tư, kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp” và
nguyên tắc “lấy đông bù số ít”. Nguyên tắc có tính chất kép này rất đặc trưng cho
pháp luật ASXH. Trợ cấp ASXH có nhiều mức khác nhau. Tuy nhiên, về nguyên
tắc, mức trợ cấp không cao hơn mức thu nhập khi làm việc, nhưng mức thấp nhất
cũng phải đảm bảo những nhu cầu tối thiểu, thiết yếu cho những người thụ hưởng.
Ngoài các nguyên tắc nêu trên, BHXH với những nội dung đặc thù nhất định nên


8


trong quá trình áp dụng, thực hiện còn phải tuân thủ những nguyên tắc riêng sau:
Một là, mọi NLĐ trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động
hoặc mất việc làm đều có quyền được hưởng BHXH.
Hai là, Nhà nước và người SDLĐ có trách nhiệm phải đóng BHXH đối với
NLĐ, NLĐ cũng có trách nhiệm phải tự đóng BHXH cho mình.
Ba là, BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để tự hình
thành quỹ BHXH độc lập và tập trung.
Bốn là, phải kết hợp hài hoà giữa các lợi ích, các khả năng và phương thức
đáp ứng nhu cầu BHXH.
Năm là, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm,
nhưng thấp nhất cũng phải bảo đảm mức sống tối thiểu.
Sáu là, phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời
phải phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành.
1.1.5. Nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội
1.1.5.1. Đối tượng của Bảo hiểm xã hội
BHXH là một hệ thống đảm bảo nguồn thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do
NLĐ bị giảm hoặc mất khả năng lao động vì các nguyên nhân ốm đau, tai nạn lao
động, già yếu, ... Do vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của NLĐ bị biến
động hoặc mất đi do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của người
tham gia BHXH.
Đối với đối tượng tham gia BHXH, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội
của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào
đó. Các mối quan hệ trong BHXH, gồm:
Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa
vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia, dựa trên quan hệ lao động và
diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Đây là

đặc trưng riêng của BHXH, nó quyết định sự tồn tại, hoạt động và phát triển của
BHXH một cách ổn định và bền vững.
Bên tham gia BHXH gồm có NLĐ, người SDLĐ và Nhà nước (đối với một số

9


trường hợp). NLĐ tham gia BHXH là để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san
sẻ rủi ro của một số đông NLĐ khác. Người SDLĐ đóng góp vào quỹ BHXH là
trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho NLĐ, đồng thời cũng vì lợi ích của chính họ,
đó là bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng khi
phát sinh nhu cầu BHXH. Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ
cho các hoạt động của quỹ BHXH đảm bảo giá trị đồng vốn và hỗ trợ cho quỹ
BHXH trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra, Nhà nước tham gia BHXH còn
với tư cách chủ thể quản lý, định ra những chế độ, chính sách, định hướng cho hoạt
động BHXH.
Bên BHXH là bên nhận BHXH từ những người tham gia, có trách nhiệm chi
trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và làm cho quỹ BHXH
phát triển.
Bên được BHXH là người tham gia BHXH và thân nhân của họ theo quy định
của pháp luật. Bên được BHXH được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh
những nhu cầu về BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại rủi ro được
bảo hiểm gây ra.
Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong nền kinh tế thị trường,
bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (như NLĐ).
1.1.5.2. Các chế độ Bảo hiểm xã hội
Theo Công ước Quốc tế 102 của ILO “Công ước về quy phạm tối thiểu của
BHXH” quy định 9 chế độ BHXH, gồm: Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp
thất nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Trợ
cấp gia đình; Trợ cấp thai sản; Trợ cấp tàn tật; Trợ cấp mất người nuôi dưỡng.

Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng thực hiện đầy đủ 9 chế độ trên, mà
việc xây dựng, thực hiện các chế độ BHXH ở các nước là khác nhau phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế - xã hội, yếu tố sinh học, điều kiện làm việc và chế độ bảo hộ an
toàn lao động của mỗi nước.
Ở Việt Nam, Luật BHXH quy định có 2 loại hình BHXH là BHXH bắt
buộc và BHXH tự nguyện. BHXH bắt buộc có các chế độ sau: Chế độ ốm đau;

10


Chế độ thai sản; Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Chế độ hưu trí;
Chế độ tử tuất.
BHXH tự nguyện có các chế độ sau: Chế độ hưu trí; Chế độ tử tuất.
1.1.6. Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.1.6.1. Khái niệm
Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia
BHXH, người SDLĐ và có sự hỗ trợ của Nhà nước hình thành nên một quỹ tiền tệ tập
trung để chi trả cho những người được BHXH và thân nhân của họ khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Việc hình thành quỹ BHXH là rất cần thiết. Lợi ích của người tham gia
BHXH trong trường hợp gặp một loại rủi ro ngẫu nhiên xác định thì được cơ quan
BHXH trợ cấp kịp thời nhằm bù đắp một phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất.
Ngoài ra cơ quan BHXH còn phải chi phí cho công tác quản lý bộ máy từ Trung
ương đến địa phương. Do vậy quỹ BHXH ra đời là điều tất yếu để trang trải các
chi phí trên.
1.1.6.2. Nguồn hình thành quỹ Bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia gồm: NLĐ,
người SDLĐ và Nhà nước. Đây là nguồn thu chủ yếu của quỹ. Trong phần trách
nhiệm đóng góp BHXH của mỗi bên thì giữa NLĐ và người SDLĐ được phân chia
trên cơ sở quan hệ lao động. Về phía người SDLĐ, đóng góp một phần cho NLĐ

sẽ tránh được những thiệt hại thực tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro
xảy ra với NLĐ mà mình thuê mướn, đồng thời góp phần giảm bớt tình trạng tranh
chấp và kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ. Về phía NLĐ, sự đóng góp
một phần vừa để bảo hiểm cho chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và
quyền lợi một cách chặt chẽ. Sự đóng góp của Nhà nước thể hiện qua các luật lệ
được coi là chuẩn mực pháp lý bắt buộc NLĐ và người SDLĐ phải tuân theo.
1.1.6.3. Mục đích sử dụng quỹ Bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH được hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết rủi ro
cho người tham gia, đảm bảo an toàn kinh tế cho NLĐ và gia đình họ, giảm thiểu

11


thiệt hại kinh tế cho người SDLĐ, tiết kiệm chi cho NSNN và ngân sách gia đình.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mục đích:
- Chi trả các chế độ BHXH: đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
quỹ BHXH;
- Chi quản lý cho hệ thống thực hiện BHXH như tiền lương, chi đào tạo, mua
sắm tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số loại chi khác.
1.2. CÔNG TÁC CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.2.1. Khái niệm chi Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Chi BHXH bắt buộc là việc cơ quan BHXH sử dụng số tiền thuộc nguồn quỹ
BHXH để dùng chi trả các chế độ BHXH bắt buộc.
Quá trình chi trả phải đảm bảo nguyên tắc chi đúng, chi đủ, chi kịp thời. Đó là
điều kiện tiên quyết để thực hiện quá trình chi trả được thuận lợi và đúng với quy
định của các văn bản hướng dẫn chi các chế độ BHXH bắt buộc do BHXH Việt
Nam quy định.
Việc chi BHXH bắt buộc trước hết phải tuân theo nguyên tắc chi đúng đối
tượng tức là thuộc đối tượng nào thì chi cho đối tượng đó, thu ở chế độ nào thì chi
ở chế độ đó. Theo tính toán của BHXH Việt Nam thì đến năm 2020, cơ bản NSNN

không còn phải bao cấp vì cán bộ, công chức, NLĐ đã tham gia đóng góp xây
dựng quỹ BHXH. Theo tính toán, lượng tiền dồn tích của NLĐ để dành sau này về
hưu hiện nay đã được trên 50 nghìn tỷ đồng. Theo chỉ đạo của Chính phủ, số kinh
phí này bước đầu được đầu tư có hiệu quả như cho các ngân hàng vay để sinh lời.
Nhờ đó đã có một số dự án lớn được triển khai như xây dựng trường học, bệnh
viện, đường sá, ... các dự án này đã tạo việc làm và thu nhập cho hàng vạn NLĐ, từ
đó NLĐ tiếp tục tham gia BHXH, phát triển nguồn quỹ, góp phần ổn định chính
trị, trật tự, an toàn xã hội.
1.2.2. Những yếu tố cấu thành công tác chi Bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.2.1. Quản lý chi Bảo hiểm hội bắt buộc
Công tác quản lý diễn ra trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người
khi có nhiều người liên kết, hợp tác với nhau, diễn ra trên nhiều cấp độ khác nhau,

12


được vận dụng khái niệm chung về quản lý. Đối với ngành BHXH, đó là quản lý
toàn bộ hoạt động chi BHXH bắt buộc, bao gồm cả quản lý các đối tượng tham gia
và thụ hưởng.
Việc quản lý chi BHXH bắt buộc là một khâu rất quan trọng, là công việc
mang ý nghĩa kinh tế, chính trị và xã hội to lớn, cụ thể:
- Thực hiện chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước đối với NLĐ;
- Đảm bảo cuộc sống hàng ngày cho cá nhân và gia đình họ khi gặp rủi ro,
tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động, góp phần tích cực vào việc ổn định
trật tự an toàn xã hội;
- Tạo được lòng tin cho NLĐ tham gia BHXH, từ đó tạo điều kiện để họ an tâm
công tác, sản xuất và phát triển, mở rộng các đối tượng tham gia BHXH.
1.2.2.2. Các chế độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc buộc và điều kiện hưởng:
a) Chế độ ốm đau:
- Bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở y tế.

- Có con dưới bảy tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc để chăm sóc con và có xác
nhận của cơ sở y tế.
b) Chế độ thai sản:
Lao động nữ mang thai; Lao động nữ sinh con; NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới
bốn tháng tuổi; NLĐ đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản.
NLĐ nữ sinh con và nhận nuôi con nuôi phải đóng BHXH từ đủ sáu tháng trở
lên trong thời gian mười hai tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
c) Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
- Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp: Tại nơi làm việc và trong giờ làm
việc; Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu
cầu của người SDLĐ; Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong
khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý;
- Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn.
d) Chế độ hưu trí:
- NLĐ có đủ hai mươi năm đóng BHXH trở lên được hưởng lương hưu khi

13


thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Nam đủ sáu mươi tuổi, nữ đủ năm mươi lăm tuổi;
+ Nam từ đủ năm mươi lăm tuổi đến đủ sáu mươi tuổi, nữ từ đủ năm mươi
tuổi đến đủ năm mươi lăm tuổi và có đủ mười lăm năm làm nghề hoặc công việc
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ
cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên.
- NLĐ đã đóng BHXH đủ hai mươi năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên, hưởng lương hưu với mức thấp hơn khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
+ Nam đủ năm mươi tuổi, nữ đủ bốn mươi lăm tuổi trở lên;
+ Có đủ mười lăm năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc,

độc hại, nguy hiểm.
e) Chế độ tử tuất
* Trợ cấp mai táng:
Các đối tượng sau đây khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai
táng: NLĐ đang đóng BHXH; NLĐ đang bảo lưu thời gian đóng BHXH; Người
đang hưởng lương hưu; hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng
tháng đã nghỉ việc.
* Các đối tượng thuộc một trong các trường hợp sau đây khi chết thì thân
nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng: Đã đóng BHXH đủ mười lăm năm trở lên
nhưng chưa hưởng BHXH một lần; Đang hưởng lương hưu; Chết do tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp; Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
hằng tháng với mức suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Thân nhân của các đối tượng trên được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng, bao gồm:
- Con chưa đủ mười lăm tuổi; con chưa đủ mười tám tuổi nếu còn đi học; con từ
đủ mười lăm tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
- Vợ từ đủ năm mươi lăm tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ sáu mươi tuổi trở lên;
vợ dưới năm mươi lăm tuổi, chồng dưới sáu mươi tuổi nếu bị suy giảm khả năng
lao động từ 81% trở lên;

14


- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác
mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ đủ sáu mươi tuổi trở lên đối
với nam, từ đủ năm mươi lăm tuổi trở lên đối với nữ;
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà
đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu dưới sáu mươi tuổi đối với nam, dưới
năm mươi lăm tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Thân nhân phải không có thu nhập hoặc có thu nhập hằng tháng nhưng thấp
hơn mức lương tối thiểu chung.

1.2.3. Các tiêu chí đánh giá việc hoàn thiện công tác chi Bảo hiểm xã hội
bắt buộc
BHXH là trụ cột trong hệ thống ASXH của một quốc gia, là chỗ dựa cho NLĐ
trong những hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy việc chi trả các chế độ BHXH phải đảm
bảo các tiêu chí: chi đúng, chi đủ, chi an toàn, chi kịp thời.
- Chi đúng là chi đúng đối tượng, đúng chế độ, đúng thời hạn, ... nhằm đảm bảo
lợi ích cho những đối tượng đang hưởng và sẽ hưởng trong tương lai.
- Chi đủ là chi đủ khoản trợ cấp mà đối tượng đáng được hưởng.
- Chi an toàn là đảm bảo cho khoản tiền trong quá trình chuyển từ cơ quan
BHXH đến tay đối tượng được hưởng mà không bị thất thoát hoặc thất lạc đến tay
người khác.
- Chi kịp thời là chi đúng thời điểm người lao động gặp rủi ro trong cuộc sống
làm giảm hoặc mất thu nhập, cần sự trợ giúp từ cơ quan BHXH. Điều này có ý
nghĩa rất quan trọng, giúp cho NLĐ ổn định thu nhập, yên tâm, tin tưởng vào
BHXH và tin tưởng vào chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước.
Thực hiện tốt các tiêu chí trên thì chính sách BHXH mới được coi là thành
công, đảm bảo quyền lợi cho NLĐ.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC CHI BẢO HIỂM
XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.3.1. Hệ thống thể chế, chính sách về chi Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Ở mỗi thời kỳ phát triển khác nhau của nền kinh tế, với thể chế kinh tế khác

15


nhau, thì công tác chi BHXH bắt buộc cũng khác nhau. Cụ thể như, từ năm 1980 1990 việc thu BHXH bắt buộc do Bộ Tài chính thực hiện và được tính vào khoản
thu NSNN mà không có quỹ BHXH độc lập. Thời kỳ này, việc chi chế độ hưu trí,
mất sức lao động và tử tuất do NSNN đảm nhiệm, được tính trong kế hoạch chi
ngân sách hàng năm. Từ sau 1995, quỹ BHXH được hình thành, do đó việc chi trả
các chế độ BHXH bắt buộc cho NLĐ được hưởng từ ngày 01/01/1995 do quỹ

BHXH chi trả.
Vì thế, các văn bản pháp lý về công tác chi BHXH bắt buộc ở từng thời kỳ
phải phù hợp với bối cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, mà chủ yếu là phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Công tác chi BHXH bắt buộc bao gồm các văn bản pháp luật quy định về: Tổ
chức bộ máy quản lý công tác chi; các quy định về chi BHXH; trách nhiệm, quyền
hạn, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, chi trả chế độ BHXH;
mối liên hệ giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình chi BHXH...
Nếu Nhà nước và ngành BHXH xây dựng được các quy tắc, quy định, các văn
bản pháp quy hướng dẫn chi BHXH bắt buộc càng chặt chẽ, càng đầy đủ, đồng bộ,
toàn diện càng phù hợp với điều kiện thực tế, điều kiện kinh tế của NLĐ thì công
tác chi BHXH bắt buộc càng có hiệu quả, góp phần đảm bảo cuộc sống ổn định và
không ngừng được cải thiện. Ngược lại nếu Nhà nước và ngành BHXH không xây
dựng, ban hành được các quy định, quy tắc, văn bản pháp quy về BHXH bắt buộc
chặt chẽ, đồng bộ thì công tác chi BHXH bắt buộc sẽ càng kém hiệu quả và không
đạt được yêu cầu, mục đích đề ra.
1.3.2. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
Đây là nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến công tác chi BHXH
bắt buộc. Thực tế cho thấy, những nơi có số chi BHXH bắt buộc lớn là những địa
phương có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn so với nơi khác. Chẳng hạn
như, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa phương có số chi BHXH bắt
buộc rất lớn. Đó là bởi vì, ở những địa phương này kinh tế - xã hội phát triển, nơi
tập trung nhiều doanh nghiệp lớn, nơi mà người dân có mức thu nhập cao hơn, dẫn

16


đến quyền lợi thụ hưởng cao hơn.
Mặt khác, nếu hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thì người SDLĐ
cũng sẽ tự giác, có trách nhiệm với nguồn nhân lực của doanh nghiệp, nên sẽ có ý

thức trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng góp BHXH bắt buộc, do đó quyền lợi cua
NLĐ được đảm bảo.
Chỉ khi có điều kiện về kinh tế khá, thì NLĐ mới có điều kiện, mới có ý thức
tham gia BHXH bắt buộc và thụ hưởng các chế độ BHXH bắt buộc. Chính vì vậy
các nước có nền kinh tế phát triển thì BHXH của họ ngày càng phát triển theo.
Ngược lại, ở các nước có nền kinh tế thấp kém, lạc hậu, thu nhập của dân trí thấp
thì BHXH cũng không thể phát triển được.
1.3.3. Năng lực tổ chức, quản lý, điều hành, thực hiện công tác chi Bảo
hiểm xã hội bắt buộc
Đây là nhân tố phản ánh trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công tác chi
BHXH của cơ quan BHXH; là quá trình vận dụng, triển khai chủ trương, chính
sách BHXH bắt buộc để tổ chức thực hiện tại mỗi địa phương theo những mục tiêu
đã định.
Thực tế cho thấy, nhiều địa phương trên cả nước có điểm tương đồng về phát triển
kinh tế - xã hội, nhưng nơi nào năng lực tổ chức, điều hành công tác chi BHXH tốt, thì
hiệu quả sẽ cao, ít có hiện tượng lạm dụng, thất thoát quỹ BHXH.
Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy được thiết lập hoàn chỉnh, vận hành đồng bộ,
từng bộ phận thực hiện tốt chức năng và quyền hạn trách nhiệm của mình thì công
tác chi BHXH sẽ đạt kết quả tốt.
Nhân tố chính này thể hiện phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý,
điều hành và cán bộ làm công tác chi trả. Nếu đội ngũ cán bộ này có năng lực,
chuyên môn vững, phẩm chất đạo đức tốt thì năng lực, tổ chức quản lý điều hành
thực hiện chi BHXH bắt buộc sẽ đạt kết quả cao và ngược lại.
1.3.4. Trình độ nhận thức và ý thức trách nhiệm của người thụ hưởng chế
độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Theo quy định của Luật BHXH, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ở nước ta

17



bao gồm tất cả những NLĐ trong các thành phần kinh tế. Quỹ BHXH bắt buộc được
hình thành từ việc đóng BHXH của người SDLĐ và NLĐ, được quản lý thống nhất,
tập trung, độc lập với NSNN và được Nhà nước bảo hộ.
Như vậy có thể thấy, trình độ nhận thức và ý thức chấp hành việc nộp BHXH
bắt buộc của NLĐ là nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ tới nguồn thu BHXH và là
yếu tố quyết định của công tác chi BHXH bắt buộc.
Rõ ràng nếu chủ doanh nghiệp nhận thức và thực hiện đúng trách nhiệm của
mình thì công tác chi trả được thực hiện đúng, đầy đủ, đảm bảo quyền lợi cho
NLĐ. Ngược lại nếu chủ doanh nghiệp thực hiện không nghiêm túc sẽ dẫn đến khó
khăn cho công tác chi BHXH bắt buộc.

18


CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG VÀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM XÃ
HỘI HẢI PHÒNG
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Hải Phòng
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Hải Phòng là một thành phố ven biển, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía
Tây giáp tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Đông giáp Vịnh Bắc
Bộ thuộc biển Đông và đảo Hải Nam - cách huyện đảo Bạch Long Vĩ khoảng
70 km. Thành phố cách thủ đô Hà Nội 102 km về phía Đông Đông Bắc. Điểm cực
Bắc của thành phố là xã Lại Xuân thuộc huyện Thủy Nguyên; cực Tây là xã Hiệp
Hòa, huyện Vĩnh Bảo; cực Nam là xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo; và cực Đông
là đảo Bạch Long Vĩ.
Hải Phòng có tổng diện tích đất 1507,57 km², trong đó diện tích đất liền là

1208,49 km². Tổng diện tích đất sử dụng là 152,2 nghìn ha trong đó đất ở chiếm
8,61%; đất dùng cho nông nghiệp chiếm 33,64%; đất lâm nghiệp chiếm 14,45%;
còn lại là đất chuyên dụng.
Thời tiết Hải Phòng mang tính chất cận nhiệt đới ẩm đặc trưng của thời tiết
miền Bắc Việt Nam: mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều, mùa đông khô và lạnh, có 4
mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông tương đối rõ rệt. Nhiệt độ trung bình vào mùa hè là
khoảng 32,5 °C, mùa đông là 20,3 °C và nhiệt độ trung bình năm là trên 23,9 °C.
Lượng mưa trung bình năm là khoảng 1600 – 1800 mm. Độ ẩm trong không khí
trung bình 85 - 86%.
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Với tiềm năng lợi thế và vai trò cầu nối quan trọng, thành phố Hải Phòng có
điều kiện rất thuận lợi để giao lưu liên kết, hội nhập và hợp tác kinh tế với thế giới

19


×