Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn quận Đồ Sơn - thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.17 KB, 89 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Tất cả các số liệu
tổng hợp, thông tin trích dẫn, các kết quả nêu trong luận văn “Biện pháp hoàn
thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa
bàn quận Đồ Sơn - thành phố Hải Phòng” là chính xác, trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan trên đây.
Ngày …. tháng …. năm 2015
Tác giả

Vũ Thị Yến

i


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập chương trình cao học tại Viện sau Đại học của trường
Đại học Hàng Hải Việt Nam và tìm hiểu thực tế tại Chi cục Thuế quận Đồ Sơn.
Đến nay tôi đã hoàn thành đề tài“Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế
đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn quận Đồ Sơn - thành phố
Hải Phòng”.
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã tận tình
hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện tại
Viện sau Đại học của trường Đại học Hàng hải Việt Nam.
Xin chân thành cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn TS. Vũ Công Nhĩ đã tận tình,
chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện bài luận văn này.
Cảm ơn Lãnh đạo, cán bộ công chức Chi cục Thuế quận Đồ Sơn đã giúp đỡ
tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi có thông tin và số liệu hoàn chỉnh để hoàn thành
bài luận văn.
Dù đã cố gắng thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, song trong quá trình
tiếp cận và học hỏi về nghiên cứu khoa học sẽ không trách khỏi những thiếu sót về


mặt kiến thức cũng như kinh nghiệm mà tôi chưa nhận thấy. Chính vì điều đó, tôi
rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ quý thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp
để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................i
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................ii
MỤC LỤC.......................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU......................................iv
DANH MỤC CÁC BẢNG...............................................................................iv
DANH MỤC CÁC HÌNH................................................................................vi
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
CHƯƠNG 1.......................................................................................................5
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ DOANH
NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH...................................................................5
CHƯƠNG 2.....................................................................................................25
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ .................................25
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
ĐỒ SƠN – THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG........................................................25
CHƯƠNG 3.....................................................................................................59
BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TRÊN ĐỊA BÀN ĐỒ SƠN –
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG...........................................................................59
3.2.2.1. Hoàn thiện công tác quản lý thuế ......................................................70
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN.........................................................................79
1.1. Đối với Nhà Nước....................................................................................79

1.2. Đối với Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế......................................................79
1.3. Đối với chính quyền địa phương các cấp và các cơ quan, đoàn thể có liên quan
.........................................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................82

iii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU

Chữ viết tắt

Giải thích

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CP

Cổ phần

CQT

Cơ quan thuế

DN

Doanh nghiệp


DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

GTGT

Giá trị gia tăng

HTX

Hợp tác xã

KBNN

Kho bạc nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NNT

Người nộp thuế

NQD

Ngoài quốc doanh

NSNN


Ngân sách nhà nước

SXKD

Sản xuất kinh doanh

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TTĐB

Thuế tiêu thụ đặc biệt

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

2.1

Kết quả thu NSNN trên địa bàn quận Đồ Sơn từ năm 2010-

33

2014

iv


2.2

Tình hình phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên

37

địa bàn quận Đồ Sơn từ năm 2010-2014
2.3

Số thu thuế Môn bài, thuế GTGT, thuế TNDN từ khu vực


40

doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục Thuế quận Đồ
Sơn (từ năm 2010 đến năm 2014)
2.4

Bảng phát sinh nợ thuế và thu nợ của các DN NQD giai

47

đoạn năm 2010-2014
2.5

Kế hoạch kiểm tra các DN NQD từ năm 2010-2014

v

50


DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hình
2.1

Tên hình
Cơ cấu tổ chức bộ máy Chi cục Thuế quận Đồ Sơn

vi


Trang
29


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều thu
nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía sau quá
trình chuyển dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như tương quan giữa số thuế thu
được trong hiện tại và tương lai; ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh doanh, đến
động thái tiêu dùng xã hội; thuế và tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội...
Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ không chỉ thể hiện ra những vấn
đề kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế không những đòi
hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật định mà còn cần đến nghệ
thuật tinh tế trong hành thu.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, hàng năm số thu về thuế chiếm
khoảng 80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần phải ban
hành đồng bộ các Luật thuế, các văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ
thống thuế, đưa thuế ngày càng tiếp cận thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp bước
chuyển của nền kinh tế thì quản lý thu thuế cần phải thay đổi và phải được hoàn
thiện hơn để đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như các cam
kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa những uy lực vốn có
của thuế để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh
của mọi đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ
nộp thuế cho Nhà nước.
Đối với khu vực kinh tế NQD nói chung và đối với các DN NQD nói riêng,
hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, đều khắp các địa bàn trong
từng địa phương và cả nước. Song việc thực hiện chế độ sổ sách kế toán, chứng từ
hóa đơn của các DN NQD còn tùy tiện, chưa đúng quy định, tình trạng khai man
trốn thuế, lậu thuế còn nhiều, gây ra sự bất bình đẳng và sự cạnh tranh không lành

mạnh giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, quản lý thu thuế đối với các DN NQD
phải tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nhằm thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của hệ
thống thuế đặt ra.
1


Hiện nay, số thu từ khu vực DN NQD chiếm khoảng 35% - 40% tổng số thu
NSNN. Các DN NQD không chỉ góp phần tăng thu cho NSNN mà chính là thực hiện
vai trò quản lý của Nhà nước đối với các DN NQD, góp phần thực hiện sự bình đẳng
và công bằng xã hội, đồng thời thể hiện sự tăng trưởng của nền kinh tế trong nước.
Xuất phát từ ý nghĩa trên, đề tài: “Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế
đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn quận Đồ Sơn - thành phố
Hải Phòng” với mục tiêu: dựa trên cơ sở lý luận cũng như những đánh giá về thực
trạng, ưu nhược điểm của công tác quản lý thu thuế khu vực doanh nghiệp NQD
trong những năm qua trên địa bàn quận Đồ Sơn – là quận thuộc một trong năm
thành phố trực thuộc trung ương, khu du lịch về biển nổi tiếng của thành phố Hải
Phòng cũng như cả nước, từ đó chỉ ra những mặt hạn chế còn tồn tại và đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế trên địa bàn,
nhằm đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu, thu đúng, thu đủ, thu kịp thời theo quy định
của pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về thuế công tác quản lý thu thuế như quản lý thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể
trên địa bàn quận Đồ Sơn – TP Hải Phòng; biện pháp tăng cường thu ngân sách địa
phương trên địa bàn huyện Tiên Lãng – TP Hải Phòng; một số biện pháp cơ bản
chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn quận Hải An – TP Hải
Phòng... Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu,
cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu bàn về quản lý thu thuế đối
với các DN NQD trên địa bàn quận Đồ Sơn. Vì vậy, luận văn nghiên cứu là cần
thiết, qua đó chỉ những nguyên nhân còn hạn chế trong quản lý thu thuế ở các DN

NQD, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp khả thi ở địa bàn quận Đồ Sơn, nhằm
thực hiện được mục tiêu của hệ thống thuế tại địa phương.

2


3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và những giải pháp thiết thực
nhằm tăng cường, hoàn thiện quản lý thu thuế đối với các DN NQD trên địa bàn
quận Đồ Sơn.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận của quản lý thu thuế đối với các DN
NQD.
+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế các DN NQD trên địa bàn
quận Đồ Sơn.
+ Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện và tăng
cường quản lý thu thuế đối với các DN NQD tại địa bàn quận Đồ Sơn.
- Phạm vi nghiên cứu:
Quản lý thu thuế đối với các DN NQD đa dạng và phức tạp. Vì vậy, phạm vi
của đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về quản lý thu thuế các DN NQD trên 3 sắc
thuế chính: thuế Môn bài, thuế Giá trị gia tăng (GTGT) và thuế Thu nhập doanh
nghiệp (TNDN) trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, xây dựng,
thương mại trên địa bàn quận Đồ Sơn gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm
hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân từ năm 2010-2014.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương
pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh để rút ra những kết luận cần thiết.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Từ những đánh giá về thực trạng, những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên
nhân những tồn tại của công tác quản lý thu thuế đối với DN NQD ở quận Đồ Sơn,

luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện công tác quản lý
thu thuế DN NQD trên địa bàn quận Đồ Sơn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho Lãnh đạo và các công
chức nghiệp vụ ở cơ quan thuế trong quá trình lập dự toán, phân tích, đánh giá kế
3


hoạch thu, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu
thuế ở đơn vị; nâng cao chất lượng trong hành thu; hạn chế đến mức thấp nhất tình
trạng thất thu thuế; thực hiện công bằng trong điều tiết thuế ở các cơ sở sản xuất
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý thu thuế doanh nghiệp
ngoài quốc doanh.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh trên địa bàn quận Đồ Sơn – thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn quận Đồ Sơn – thành phố Hải Phòng.

4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. Một số vấn đề chung về kinh tế ngoài quốc doanh
1.1.1. Sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

Thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin sẽ trải
qua một thời gian dài trong lịch sử. Trong suốt thời kỳ đó vẫn tồn tại các thành phần
kinh tế phi CNXH cạnh tranh gay gắt với thành phần kinh tế CNXH. Nhà nước
XHCN có vai trò to lớn trong việc làm cho các thành phần kinh tế CNXH ngày càng
phát triển và chiếm ưu thế, đảm bảo thắng lợi của CNXH.
Vậy quá độ lên CNXH bỏ qua tất yếu TBCN không thể không quan tâm đến sự
tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của các thành phần kinh tế khác khau, trong đó
có các thành phần kinh tế khu vực kinh tế NQD. Nước ta quá độ lên CHXH từ một
nước nông nghiệp, lạc hậu, tiềm lực kinh tế còn chưa mạnh, cơ sở vật chất còn nghèo
nàn không đồng nhất giữa các ngành, các vùng, trình độ kinh tế còn thấp kém lại trải
qua chiến tranh. Mâu thuẫn giữa nhu cầu cải tiến đời sống nhân dân với khả năng của
sức sản xuất đang hết sức gay gắt, sự lựa chọn có phát triển kinh tế nhiều thành phần,
trong đó có kinh tế NQD hay không có tính chất quyết định. Tuy nhiên, chấp nhận sự
tồn tại của kinh tế NQD không có nghĩa là để quan hệ sản xuất TBCN xác lập thống
trị mà chỉ để quan hệ sản xuất tồn tại phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế, đẩy
mạnh sự phát triển của các lực lượng sản xuất, tăng nhanh năng suất lao động, tăng
trưởng kinh tế. Do đó bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất chứ không có nghĩa xóa bỏ hoàn toàn kinh tế NQD. Nhưng muốn
quan hệ sản xuất TBCN không trở thành thống trị trong nền kinh tế của xã hội thì
không phải bằng con đường bóp nghẹn như trước đây đã làm, mà bằng cách xóa bỏ
dần dần bằng sự tác động của các nhân tố khác trong đó kinh tế nông nghiệp vẫn là
quan trọng ở nước ta.
Vậy sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ đã
được khẳng định và nó tiếp tục phát triển trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là
5


thành phần kinh tế không thể thiếu được và đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với
nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường, một số định kiến xã hội trước đây đối với khu vực NQD vẫn còn

khá nặng nề, khuôn khổ pháp luật để phát triển kinh tế NQD đang xây dựng, chưa
hoàn chỉnh. Song từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, môi trường kinh doanh đã
bước đầu được cải thiện, các loại giấy phép bất hợp lý đã được xóa bỏ, nhiều doanh
nghiệp đã phát huy được tính chủ động, sáng tạo, tận dụng hết năng lực vốn có và
tăng vốn đầu tư, mở rộng địa bàn để phát triển, sản xuất kinh doanh …
Như vậy định hướng đi lên XHCN, bỏ qua chế độ TBCN tất yếu khách quan
trải qua thời kỳ quá độ bên cạnh đó khẳng định sự tồn tại tất yếu khách quan của khu
vực kinh tế NQD và xu hướng lĩnh vực kinh tế này phục vụ cho các mục tiêu phát
triển kinh tế của đất nước trong thời nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
1.1.2. Kinh tế thị trường và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Việc nghiên cứu kinh tế NQD nói chung và thuế đối với kinh tế NQD nói riêng
đều không thể tách rời việc nghiên cứu những đặc điểm của môi trường mà kinh tế
NQD tồn tại và phát triển. Đó chính là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Việc chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường là nội dung bao trùm nhất của công
cuộc đổi mới. Cho đến nay, cơ chế thị trường đã đi vào cuộc sống và tạo ra nhiều biến
đổi lớn trong đời sống kinh tế xã hội. Trong đó sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành
phần là một tất yếu khách quan, cần thiết để giải phóng sức sản xuất xã hội, giải
phóng mọi tiềm năng về vốn, lao động, kinh nghiệm … góp phần thúc đẩy kinh tế
tăng trưởng và phát triển.
Nếu xét trên gác độ sở hữu và quản lý, nền kinh tế được chia làm hai khu vực:
khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, khu vực
kinh tế trong nước gồm có bốn thành phần kinh tế: thành phần kinh tế Nhà nước;
thành phần kinh tế tập thể; thành phần kinh tế tư bản tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân); thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (theo Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
6


thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam). Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp

luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát
triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của
nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các
hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa
dạng ngày càng phát triển.
Nếu xét trên gác độ chức năng và mục tiêu, nền kinh tế gồm hai khu vực: kinh
tế quốc doanh (chủ yếu thực hiện chức năng dịch vụ công cộng vì mục tiêu là lợi ích
chung của toàn xã hội) và kinh tế ngoài quốc doanh (chủ yếu làm chức năng kinh
doanh vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận). Trong cơ cấu sản xuất xã hội, kinh tế NQD
được coi là một thực thể khách quan, gồm các thành phần kinh tế được xác định tùy
theo đặc điểm kinh tế xã hội và quan điểm chính trị của mỗi quốc gia trong từng giai
đoạn khác nhau. Tại Việt Nam, khu vực kinh tế NQD tồn tại dưới các hình thức:
doanh nghiệp tư nhân (DNTN), công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ
phần (CP), hợp tác xã (HTX), hộ kinh doanh cá thể … Từ năm 1986 đến nay, khu vực
kinh tế NQD đã tạo ra trên 50% tổng sản phẩm trong nước, 1/3 giá trị sản lượng công
nghiệp mỗi năm. Khu vực này bộc lộ nhiều vai trò không thể phủ nhận, nhất là trong
tình hình kinh tế hiện nay:
- Thứ nhất, khu vực kinh tế NQD góp phần khai thác những tiềm năng to lớn
của nền kinh tế. Cùng với khu vực kinh tế quốc doanh, kinh tế NQD đã đào xới
những mảnh đất màu mỡ của nền kinh tế chưa được sử dụng đến. Các doanh nghiệp
NQD có khả năng tập trung vốn, trí tuệ vào các ngành kinh tế phát triển hay những
ngành kinh tế đòi hỏi hàm lượng trí thức như công nghệ thông tin cũng như có khả
năng lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần
nhiều vốn và có mức lợi nhuận thấp mà các nhà đầu tư lớn ít quan tâm.

7



- Thứ hai, khu vực kinh tế NQD là cầu nối quan trọng để nền kinh tế nước ta
hòa nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
- Thứ ba, khu vực kinh tế NQD góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nền
kinh tế, vấn đề thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối trong cơ cấu nền kinh tế.
Trung bình ở nước ta mỗi năm khu vực này đem lại hàng nghìn việc làm cho hàng
triệu người lao động.
- Thứ tư, kinh tế NQD giải phóng năng lực sức sản xuất của người lao động,
tạo ra nguồn sản phẩm phong phú về số lượng và chất lượng đáp ứng mọi nhu cầu của
xã hội. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, kinh tế NQD luôn tập trung cao độ tinh
thần làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có để có thể đem lại hiệu quả cao nhất. Một
mặt, đây là đối thủ cạnh tranh của kinh tế, nếu một trong hai bên không năng động,
mạnh dạn đổi mới thì lập tức sẽ bị môi trường đào thải; mặt khác, sự kết hợp sản xuất
và tiêu thụ giữa hai khu vực tạo ra một dây chuyền sản xuất lớn trong nền kinh tế,
giúp quá trình sản xuất được rút ngắn.
- Thứ năm, kinh tế NQD góp phần tăng thu cho NSNN.
- Thứ sáu, kinh tế NQD tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn
nhiều tiềm năng. Với chính sách đổi mới, nền kinh tế tăng trưởng khá, khu vực kinh
tế NQD ngày càng tăng về số lượng và quy mô. Tính đến tháng 12/2014, trên địa bàn
Đồ Sơn có 146 DN NQD đang hoạt động và hơn 1.000 hộ, cá nhân đang kinh doanh.
1.1.3. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Kinh tế NQD là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh
doanh bằng nguồn vốn của cá nhân hoặc một số cá nhân đóng góp, theo cơ chế thị
trường vì mục tiêu lợi nhuận. Kinh tế NQD có đặc điểm:
- Thứ nhất, kinh tế NQD mang tính sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do tư
nhân quản lý và phân phối lợi nhuận, hiệu quả sản xuất gắn liền với quyền lợi cá nhân
người sản xuất.
- Thứ hai, mục tiêu lớn nhất trong kinh doanh là lợi nhuận nên họ có những
phương án kinh doanh mạo hiểm. Kinh tế NQD thường mang tính tự phát, khó quản


8


lý, không ít cơ sở kinh doanh trái phép, kinh doanh không kê khai nộp thuế, trốn thuế,
lợi dụng hóa đơn chứng từ xin hoàn thuế sai quy định.
- Thứ ba, tổ chức cơ sở kinh tế NQD phần lớn là quy mô nhỏ do vốn ít, cơ cấu
gọn nhẹ, linh hoạt, dễ dàng thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường kinh
doanh. Nhân viên thường đảm nhận công việc theo kiểu đa năng, chi phí nhân công
thấp.
Với các đặc điểm trên, khu vực kinh tế NQD ngày càng được khuyến khích và
bảo đảm môi trường thuận lợi để phát triển. Tuy vậy, khuyến khích phát triển kinh tế
NQD không đồng nghĩa buông lỏng quản lý, do vậy, hệ thống pháp luật phải được thể
chế hóa đầy đủ, rõ ràng cả tầm vĩ mô và vi mô để có thể phát huy tối đa mặt tích cực
và hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực của kinh tế NQD trong cơ chế thị trường.
1.1.4. Các sắc thuế chủ yếu đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Từ ngày 1/1/1999 thực hiện chương trình cải cách thuế bước hai, hệ thống thuế
của Nhà nước ta bao gồm 10 sắc thuế, trong đó có 4 sắc thuế áp dụng phổ biến đối với
khu vực kinh tế NQD.
1.1.4.1. Thuế Môn bài
Thuế Môn bài mang tính chất thuế trực thu, động viên sự đóng góp trực tiếp
của cơ sở kinh doanh, tạo được nguồn thu quan trọng cho nhu cầu chi tiêu của NSNN
ngay từ đầu mỗi năm khi các nguồn thu khác chưa nhiều. Thuế Môn bài có tác dụng
kiểm kê, kiểm soát các cơ sở kinh doanh, có căn cứ phân loại quy mô doanh thu lớn,
vừa, nhỏ để áp dụng biện pháp quản lý thu thuế thích hợp.
Thuế Môn bài áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh; thuế Môn bài
mỗi năm được thu một lần và chủ yếu thu vào đầu năm. Những cơ sở đã kinh doanh
hoạt động trong sáu tháng đầu năm phải nộp mức thuế Môn bài cả năm, nếu bắt đầu
hoạt động trong sáu tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế cả năm.
Theo Thông tư 42/2003/TT-BTC ngày 7/5/20103 của Bộ Tài chính hướng dẫn
bổ sung, sửa đổi Thông tư số 96/2002/TT-BTC ngày 24/10/2002 của Bộ Tài chính

hướng dẫn thực hiện Nghị định số 75/2002/NĐ-CP ngày 30/8/2002 của Chính phủ về
việc điều chỉnh mức thuế môn bài thì:
9


+ Các tổ chức kinh tế tại Khoản 1, Thông tư 42/2003/TT-BTC ngày
7/5/20103 của Bộ Tài chính nộp thuế Môn bài căn cứ vào vốn đăng ký ghi trong
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư theo 4 mức thuế từ
1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
+ Hộ kinh doanh nộp thuế Môn bài theo 6 mức thuế từ 50.000 đồng đến
1.000.000 đồng căn cứ vào mức thu nhập một tháng từ 300.000 đồng đến
1.500.000 đồng.
Với mục đích kiểm kê, kiểm soát các cơ sở thực tế kinh doanh, thuế Môn bài
không có quy định miễn, giảm thuế trừ người nộp thuế có văn bản xin tạm ngừng
nghỉ kinh doanh trọn một năm hoặc hai năm.
1.1.4.2. Thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị gia tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ
phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Bản chất của thuế GTGT là loại thuế do người tiêu dùng hàng hóa hoặc dịch vụ
chi trả, là một yếu tố cấu thành trong giá thanh toán của sản phẩm hàng hóa.
Đối tượng của thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh
và tiêu dùng tại Việt Nam trừ các đối tượng không thuộc diện chịu thuế theo quy định
của Luật Thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành (26 đối tượng không phải
chịu thuế theo Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính quy
định chi tiết thi hành Luật Thuế GTGT).
Hiện nay có hai phương pháp tính thuế GTGT:
a. Thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: căn cứ tính thuế GTGT là giá tính
thuế và thuế suất. Thuế suất ở Việt Nam hiện nay có 3 mức: 0%, 5%, 10%.
- Thuế suất 0% áp dụng với hàng hóa xuất khẩu.
- Thuế suất 5% áp dụng với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu.

- Thuế suất 10% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ phổ thông.
Phương pháp khấu trừ áp dụng cho các đối tượng kinh doanh và các DN Nhà
nước; DN có vốn đầu tư nước ngoài; DN tư nhân, công ty CP, công ty TNHH, HTX
và các tổ chức kinh doanh khác; các cơ sở kinh doanh đăng ký tự nguyện áp dụng
10


phương pháp khấu trừ thuế thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ theo
quy định.
b. Thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp
- Tính thuế GTGT theo tỷ lệ % trên doanh thu theo 4 mức tỷ lệ là: 1%, 5%, 3%
và 2%.
+ Phân phối, cung cấp hàng hóa: tỷ lệ 1%
+ Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: tỷ lệ 5%
+ Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hóa, xây dựng có bao thầu nguyên
vật liệu: tỷ lệ 3%
+ Hoạt động kinh doanh khác: 2%.
Phương pháp tính thuế GTGT theo tỷ lệ % trên doanh thu áp dụng: Doanh
nghiệp, hợp tác xã đang hoạt động có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng
doanh thu một tỷ đồng, trừ trường hợp đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp
khấu trừ thuế; Doanh nghiệp, hợp tác xã mới thành lập, trừ trường hợp đăng ký tự
nguyện; Hộ, cá nhân kinh doanh; Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt
Nam không theo Luật Đầu tư và các tổ chức khác không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật, trừ
các tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ để tiến hành hoạt động
tìm kiếm, thăm dò, phát triển và khai thác dầu khí; Tổ chức kinh tế khác không
phải là doanh nghiệp, hợp tác xã, trừ trường hợp đăng ký nộp thuế theo phương
pháp khấu trừ.
- Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
Số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT bằng

GTGT nhân với thuế suất thuế GTGT 10% áp dụng đối với hoạt động mua, bán, chế
tác vàng bạc, đá quý.
1.1.4.3. Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)
Thuế TTĐB mang tính chất là thuế gián thu áp dụng đối với 10 loại hàng hóa
và 6 loại dịch vụ (quy định trong Luật Thuế TTĐB) được sản xuất và nhập khẩu
không thuộc loại thật cần thiết cho nhu cầu đời sống thiết yếu nhằm động viên sự
11


đóng góp của người tiêu dùng cho NSNN, hạn chế sản xuất, nhập khẩu và tiêu dùng
nhiều các mặt hàng này.
Thuế TTĐB chỉ nộp một lần tại khâu sản xuất (đối với hàng hóa sản xuất trong
nước), khâu nhập khẩu (đối với hàng hóa nhập khẩu) hoặc ở khâu cung ứng dịch vụ
(đối với dịch vụ chịu thuế).
Căn cứ tính thuế TTĐB là giá tính thuế của hàng hóa dịch vụ chịu thuế và thuế
suất. Theo quy định hiện hành, biểu thuế TTĐB có mức thuế suất cao gồm 13 mức
thuế suất khác nhau từ 10% đến 70% được phân theo loại hàng hóa và dịch vụ. Đối
với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB, thuế suất thuế TTĐB không phân biệt hàng
hóa nhập khẩu hay hàng hóa sản xuất trong nước.
Thuế TTĐB được xét miễn giảm và hoàn thuế trong một số trường hợp cụ thể
được quy định trong luật thuế.
1.1.4.4. Thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Thuế TNDN là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các
đối tượng nộp thuế, các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu
nhập chịu thuế.
Căn cứ để tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế và thuế suất. Theo quy định
mới hiện nay, đối với doanh nghiệp có doanh thu dưới 2 tỷ một năm thì thuế suất thuế
TNDN là 20%; doanh nghiệp có doanh thu trên 2 tỷ một năm thì thuế suất thuế
TNDN là 22% và từ ngày 1/1/2016 áp dụng mức thuế suất chung là 20%. Ngoài ra
còn có một số trường hợp đặc biệt mức thuế suất có thể thấp hơn được quy định cụ

thể trong Luật thuế TNDN.
1.2. Đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế
hiện nay
1.2.1. Khái niệm và các hình thức doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh (Theo Luật Doanh nghiệp 2005).

12


Theo Luật DN được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì DN NQD hiện nay
gồm: công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp doanh, công ty tư nhân và hợp
tác xã. Các DN này có phương thức hoạt động kinh doanh đa dạng, phong phú về
mọi lĩnh vực nhưng mỗi hình thức của DN NQD lại có các đặc điểm khác nhau:
a. Công ty TNHH hai thành viên trở lên là DN, trong đó:
- Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá
năm mươi;
- Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp;
- Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định.
b. Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc do
một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công
ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
c. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa;

- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ các trường hợp khác theo quy định.
d. Công ty hợp danh là DN, trong đó:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau
kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp doanh); ngoài các
thành viên hợp doanh có thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình về các nghĩa vụ của công ty;
13


- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
e. Doanh nghiệp tư nhân là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
f. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do người lao động có nhu cầu, lợi ích
chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát
huy sức mạnh của tập thể và từng xã viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các
hoạt động SXKD, dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Tóm lại, DN NQD là hình thức DN không thuộc sở hữu của Nhà nước, trừ
khối hợp tác xã; toàn bộ vốn, tài sản, lợi nhuận đều thuộc sở hữu tư nhân hay tập
thể người lao động, chủ lao động DN hay chủ cơ sở SXKD chịu trách nhiệm toàn
bộ về hoạt động SXKD và toàn quyền quyết định phương thức phân phối lợi nhuận
sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế mà không chịu sự chi phối nào từ quyết
định của Nhà nước hay cơ quan quản lý.
1.2.2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- DN NQD là loại hình DN có tư liệu sản xuất, phương thức sản xuất thuộc

sở hữu cá nhân hay tập thể người lao động sáng lập, bộ máy tổ chức quản lý của
các DN NQD thường gọn gàng và linh hoạt. Do vậy, đây là loại hình DN năng
động, sáng tạo nhạy bén với thị trường.
- Ngành nghề hoạt động kinh doanh của các DN rất phong phú và đa dạng
như thương nghiệp, dịch vụ, sản xuất, xây dựng… và tồn tại dưới nhiều hình thức
như công ty TNHH, công ty CP, DNTN, HTX, công ty hợp doanh. Quy mô của
các DN thường là vừa và nhỏ, do điều kiện vật chất còn khó khăn như vốn ít, lao
động ít, kiến thức kinh doanh còn hạn chế do mang tính tự phát.
- Từ khi Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời, các DN NQD tăng nhanh về số
lượng, nhưng sự gia tăng thường không ổn định có nhiều sự biến động, sự dịch
chuyển cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào quan điểm Nhà nước có khuyến khích các
DN hay kiềm chế sự hoạt động của các DN.
14


Tóm lại, DN NQD hoàn toàn độc lập, tự chủ về nguồn tài chính, các DN tự
bỏ vốn, công sức để đầu tư kiếm lợi nhuận cho chính DN một cách tối đa. Do vậy,
việc kiểm soát hoạt động của các loại hình DN này hết sức khó khăn và phức tạp
nhất là xu hướng hiện nay các DN dùng mọi thủ đoạn để tìm cách trốn và tránh
thuế.
1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế khu vực NQD nói chung và nhất là khu
vực DN NQD đã phát triển vượt bậc. Cùng với sự gia tăng về số lượng và các ngành
nghề kinh doanh phong phú, đa dạng của các DN NQD như thương nghiệp, dịch vụ,
sản xuất… đã đem lại số thu cho NSNN mỗi năm một càng tăng và chiếm tỷ trọng
lớn. Sự phát triển của khu vực DN NQD đã mở mang ra nhiều ngành nghề, thúc đẩy
sự lưu thông hàng hoá, xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động hiệu
quả, tạo được chỗ đứng trên thị trường. Sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú
được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng. Đa số các DN đều tạo ra các
mặt hàng mới, thị trường mới và sản phẩm có sức cạnh tranh. Theo Tổng Cục Thống

kê, khu vực DN NQD với 96% tổng số DN hoạt động hàng năm đã đóng góp khoảng
50% GDP, 86,5% hàng hoá bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng, giá trị sản xuất xây dựng năm
2014 đạt 563,1 nghìn tỷ đồng…
Mặt khác, DN NQD còn có vai trò lớn trong việc ổn định nền kinh tế, giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn 2010-2012, số lao động làm việc tại các
khu vực DN là 11,08 triệu người, trong đó số người làm việc trong khu vực DN NQD
là 6,76 triệu người năm 2012 (chiếm 60,97%). DN NQD tạo việc làm cho nhiều đối
tượng lao động như người đến tuổi lao động cần việc làm; lao động dôi dư từ các cơ
quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giản biên chế, giải thể, chuyển đổi, phá sản; lao
động nông nhàn trong nông nghiệp do chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển sang làm
việc trong các DN NQD.

15


Hiện nay, DN NQD đang là lực lượng chính trong nền kinh tế, luôn chiếm
khoảng 96% tổng số DN đang hoạt động, do vậy các DN NQD có vai trò quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.3. Công tác quản lý thu thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.3.1. Yêu cầu của công tác quản lý thu thuế
Tổng cục Thuế đã nghiên cứu, ban hành các quy trình chế độ nghiệp vụ cho
từng loại đối tượng kinh doanh có thực hiện hoá đơn, sổ sách kế toán hoặc khoán
thuế thuộc diện quản lý thu thuế theo từng sắc thuế. Công tác quản lý thu thuế phải
thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ để nắm chắc cơ sở kinh doanh thực tế, có cơ sở
thu thuế đầy đủ về doanh số phát sinh theo từng cơ sở, từng thời gian, đảm bảo
được nguyên tắc lập sổ thuế, thông báo thuế và thu thuế đúng với thời gian quy
định và cơ sở để giải quyết xử lý nộp chậm, dây dưa tiền thuế, trốn thuế. Việc tách
công tác quản lý thành bốn bộ phận (bộ phận Tuyên truyền - Hỗ trợ NNT; bộ phận
Kê khai - kế toán thuế; bộ phận Quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế; bộ phận

Thanh tra, Kiểm tra thuế) nhằm tạo được sự hỗ trợ trong công tác quản lý thu thuế.
Một số yếu tố cơ bản để cơ quan thuế xác định được việc thu thuế sát đúng với
thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kê khai đăng ký thuế, chế độ hoá đơn chứng từ, sổ
sách kế toán ở tất cả các cơ sở kinh doanh.
Để thực hiện tốt những yêu cầu trên, công tác quản lý cần phải quán triệt
một số quan điểm sau:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh của các cấp, các ngành. Công tác quản lý thu
thuế không chỉ là trách nhiệm riêng của ngành thuế mà là trách nhiệm chung của
chính quyền các cấp, do vậy phải có sự chỉ đạo, lãnh đạo của chính quyền các cấp.
Công tác quản lý thuế là một công tác chính trị, kinh tế tổng hợp liên quan đến mọi
thành phần kinh tế trong xã hội, là cuộc đấu tranh gay gắt giữa lợi ích cá nhân cục
bộ với lợi ích quốc gia, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức hoạt động sản
xuất kinh doanh. Vì vậy không thể tách công tác quản lý thu thuế của ngành thuế
ra khỏi sự chỉ đạo của chính quyền các cấp. Cơ quan thuế cần phải phối kết hợp
với các ngành nội chính để thực hiện công tác thu thuế có hiệu quả.
16


Thứ hai là quan điểm đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế. Trong cơ
chế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật để cạnh tranh
công bằng trong sản xuất kinh doanh. Do đó, hệ thống thuế cũng phải được thực
hiện thống nhất nhằm đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp cho NSNN giữa
các doanh nghiệp, tầng lớp dân cư. Về lâu dài, cần nghiên cứu, thu hẹp tiến tới xoá
bỏ mọi phân biệt, đối xử về nghĩa vụ nộp thuế để đảm bảo sự công bằng và cạnh
tranh lành mạnh.
Thứ ba, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích Nhà nước với người nộp
thuế. Do đó phải xác định rõ nội dung của từng sắc thuế và của cả hệ thống thuế.
Mỗi sắc thuế chỉ nên đảm nhận một số chức năng chủ yếu nhất định, đảm bảo cho
sắc thuế đó đơn giản, có thể thực hiện đầy đủ, có hiệu quả cao. Một chính sách
thuế được coi là hoàn hảo khi nó đạt được các mục tiêu về mặt tài chính (đưa lại số

thu quan trọng cho ngân sách); về mặt xã hội (đảm bảo công bằng và hợp lý); về
mặt kinh tế (có tác dụng khuyến khích và thúc đẩy hoạt động sản xuất); về mặt
nghiệp vụ (đơn giản, dễ hiểu, dễ làm). Chính sách và biện pháp quản lý thuế không
can thiệp quá sâu vào mọi khía cạnh hoạt động tích cực hay tiêu cực của từng
doanh nghiệp và cần tạo môi trường thông thoáng mang tính bình quân để cơ sở
kinh doanh có thể chủ động, linh hoạt trong điều hành sản xuất kinh doanh, tạo thu
nhập cao và nộp thuế đầy đủ theo quy định của pháp luật.
Thứ tư là quan điểm quần chúng của Đảng trong tuyên truyền, giáo dục về
thuế. Việc tuyên truyền, giáo dục chính sách, chế độ thuế không chỉ là truyền đạt
một chiều từ trên xuống mà thông qua công tác quản lý thường xuyên, cán bộ,
công chức thuế phải thấy được những khó khăn thực tế phát sinh trong tổ chức
thực hiện. Phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các doanh nghiệp, từ đó có
những kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách thuế để chế độ về thuế ngày
càng phù hợp với trình độ và khả năng đóng góp của nhân dân.
1.3.2. Nội dung của công tác quản lý thu thuế
1.3.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế:
Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý thu thuế bao gồm ba cấp:
17


- Cấp Trung ương: Tổng cục Thuế là cơ quan quản lý Nhà nước về thuế
(trực thuộc Bộ Tài chính).
- Cấp Tỉnh hoặc cấp Thành phố trực thuộc Trung ương: Cục Thuế chỉ đạo
thống nhất việc thực hiện các luật thuế, pháp lệnh thuế trên địa bàn (trừ thuế xuất
khẩu). Cục Thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của Tổng cục Thuế và Uỷ ban nhân
dân (UBND) cấp Tỉnh hoặc cấp Thành phố trực thuộc Trung ương.
- Cấp Quận, Huyện, Thị xã, thành phố trực thuộc Tỉnh: Chi cục Thuế có
chức năng trực tiếp tổ chức công tác thu trên địa bàn theo đúng pháp luật. Chi cục
Thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của cơ quan thuế cấp trên và UBND cấp quận,
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.

Đối với việc tăng cường tổ chức bộ máy quản lý có ba yêu cầu cần phải đáp
ứng, đó là:
- Thứ nhất, hệ thống quản lý thuế phải được kiện toàn, đảm bảo đủ điều kiện
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của hệ thống thuế.
- Thứ hai, bộ máy quản lý thu thuế phải trở thành hệ thống thống nhất từ
trung ương đến địa phương, đảm bảo hiệu lực của hệ thống chính sách thuế.
- Thứ ba, phẩm chất cách mạng và năng lực toàn diện của cán bộ, công chức
quản lý thu thuế phải được nâng cao về trình độ và nghiệp vụ, chuyên môn, về
trình độ tổ chức quản lý phù hợp với điều kiện mở rộng kinh doanh của tất cả các
thành phần kinh tế và thực hiện một chính sách thuế bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế.
1.3.2.2. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của công tác quản lý
Để phát huy tác dụng tích cực của các luật thuế mới đối với nền kinh tế đặc
biệt là các DN NQD và thực hiện tốt quy trình quản lý thuế mới, công tác quản lý
cần thực hiện các mục tiêu sau:
- Đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của DN trong nền kinh tế,
giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, đổi mới, cải cách các thủ tục
hành chính, tiết kiệm được thời gian cho DN, tăng khả năng cạnh tranh trong nước
cũng như trên thị trường quốc tế.
18


- Đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, khai thác, phát hiện và khơi thông các
nguồn thu còn tiềm ẩn, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế.
- Khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu để giải quyết việc làm cho
người lao động.
- Nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các
DN cũng như các tầng lớp quần chúng trong xã hội.
Để đạt được các mục tiêu trên, công tác quản lý thu thuế có những chức
năng cơ bản sau:

- Hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện quyền và nghĩa vụ thuế, chẳng
hạn: các thủ tục về kê khai, đăng ký nộp thuế, quyết toán thuế...
- Đôn đốc tổ chức thu thuế.
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
- Tuyên truyền giáo dục sâu rộng chính sách, chế độ thuế.
Ngoài ra, bộ máy tổ chức còn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, thông qua công tác quản lý thu thuế và tình hình biến động về
kinh tế, xã hội, trình Nhà nước có những sửa đổi, bổ sung chính sách, chế độ thuế.
Hướng dẫn và tổ chức thực hiện thống nhất các quy định thuế chung cả nước.
Thứ hai, tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ thu các loại thuế hàng năm trên từng
địa bàn và trong phạm vi cả nước, đảm bảo hoàn thành và hoàn thành toàn diện
nhiệm vụ thu thuế được giao.
Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để chống thất thu
nguồn NSNN.
Thứ tư, quản lý thống nhất trong toàn ngành về biên chế, lao động, lương ...
đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành thuế.
1.3.2.3. Đội ngũ cán bộ, công chức thuế
Mỗi cán bộ, công chức thuế phải nắm được lý luận cơ bản về khoa học kinh
tế và khoa học kỹ thuật để có thể phân tích, đánh giá chính xác tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh, hiệu quả kinh tế của từng cơ sở, từ đó xác định đúng mức
phải nộp trong kỳ.
19


×