Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

luận văn thạc sĩ phát triển dịch vụ thanh toán tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam – chi nhánh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 112 trang )

1

1

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực, xuất phát từ thực tế của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Phú Thọ. Tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2016
Tác giả luận văn


2

2
2

MỤC LỤC


3

3

3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Viết tắt

Nguyên nghĩa

Agribank

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

ATM

Automatic Teller Machines

BIDV

Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

POS

Point of sale

TTKDTM


Thanh toán không dùng tiền mặt

UNC

Ủy nhiệm chi

UNT

Ủy nhiệm thu

VCB

Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam

Vietinbank

Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam

TCTD

Tổ chức tín dụng

WTO

World Trade Organization

GRDP

Tổng sản phẩm trên địa bàn


TCKT

Tổ chức kinh tế

USD

United States Dollar

VNĐ

Việt Nam Đồng

UBND

Ủy Ban Nhân Dân


4

4

4

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG

SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Chức năng cơ bản của NHTM hiện đại
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Phú Thọ



5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh dịch vụ nói chung, dịch vụ thanh
toán Ngân hàng nói riêng, đóng vai trò quan trọng đối với nhiều quốc gia. Tại Việt
Nam trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, dịch vụ Ngân hàng đã
có những đóng góp hết sức to lớn, là tiền đề thúc đẩy các ngành kinh tế và dịch vụ
khác phát triển.
Bước vào giai đoạn mới hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn, nhưng đồng thời
cũng phải đối mặt nhiều hơn với cạnh tranh, thách thức sau khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ngày 07/11/2006, cam kết mở cửa hoàn toàn
thị trường tài chính – Ngân hàng vào năm 2011, các NHTM xác định kiên trì mục
tiêu và định hướng phát triển theo hướng Tập đoàn tài chính – Ngân hàng mạnh,
hiện đại, có uy tín trong nước, vươn tầm ảnh hưởng ra thị trường tài chính khu vực
và thế giới. Do vậy, cùng với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh thì việc phát triển
và nâng cao chất lượng các loại dịch vụ Ngân hàng hiện đại, đặc biệt là dịch vụ
thanh toán, là đòi hỏi tất yếu khách quan, phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế của các NHTM Việt Nam trước mắt và lâu dài.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) Việt Nam nói
chung, Agribank tỉnh Phú Thọ nói riêng cũng không nằm ngoài xu thế đó. Để có thể
cạnh tranh và đứng vững trên thị trường đòi hỏi Agribank tỉnh Phú Thọ phải tích
cực đổi mới, phát huy những điểm mạnh, khắc phục những tồn tại hạn chế, nhất là
lĩnh vực dịch vụ thanh toán Ngân hàng.
Từ nhận thức lý luận và đòi hỏi của thực tiễn hiện nay, từ thực tế đã từng thực
tập tại Agribank tỉnh Phú Thọ tôi đã chọn đề tài “Phát triển dịch vụ thanh toán tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Phú
Thọ” làm đề tài nghiên cứu của mình, với mong muốn góp phần giúp cho hoạt
động dịch vụ thanh toán tại Agribank tỉnh Phú Thọ ngày càng hoàn thiện và phát

triển để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trên địa bàn.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn


6

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển dịch vụ thanh toán của
NHTM, như: làm rõ các khái niệm, các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng
đến phát triển dịch vụ thanh toán của NHTM; đặc điểm vai trò đối với hoạt động
kinh doanh của NHTM, và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Qua đó thấy
được tầm quan trọng của việc phát triển dịch vụ thanh toán ở các NHTM.
- Phân tích và đánh giá rõ thực trạng phát triển dịch vụ thanh toán tại Agribank
tỉnh Phú Thọ những năm gần đây, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ thanh toán tại
Agribank tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng luận văn tập chungnghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan
đến phát triển dịch vụ thanh toán trong nước tại Agribank tỉnh Phú Thọ .
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+ Về không gian: Phát triển dịch vụ thanh toán tại Agribank tỉnh Phú Thọ.
Ngoài ra có tham chiếu kinh nghiệm phát triển dịch vụ thanh toán của các Ngân
hàng khác trên thế giới.
+ Về thời gian: Thực trạng từ năm 2012 đến năm 2015; dự báo tầm nhìn đến
năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử làm phương pháp luận cơ bản.
Ngoài ra, để nghiên cứu và đánh giá thực trạng, luận văn sử dụng phương
pháp điều tra, thống kê, tổng hợp, phân tích để khảo cứu và phân tích để phát hiện
vấn đề và đề xuất giải pháp tối ưu.

5. Kết cấu luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn bao gồm khảng 100 trang chuẩn, được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phát triển dịch vụ thanh toán củaNgân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng dịch vụ thanh toán tại Agribank tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ thanh toán tại Agribank tỉnh Phú Thọ
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
THANH TOÁN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


7

1.1. Tổng quan dịch vụ thanh toán của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí quan
trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác nhau
về NHTM:
Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa:“Được coi là Ngân hàng là
những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới
hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các
nghiệp vu chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay như Luật Ngân hàng của
Ấn Độ 1950, được bổ sung 1959 đã nêu:“Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền
ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư” [5, tr1]
Luật Ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa:“Những nhà băng
thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề
thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện
các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm v.v…” [5, tr1]
Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 của Việt Nam:“Ngân hàng thương
mại’’ là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là

nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để
cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Theo Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 06
năm 2010 quy định:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
của Ngân hàng theo quy định của Luật này”.
“Ngân hàng thương mại là Ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động
Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm
mục tiêu lơi nhuận”.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế hàng hóa, của công nghệ
thông tin và sự phát triển các chức năng của các đối thủ cạnh tranh là các tổ chức tài


8

chính phí Ngân hàng, các NHTM đã không ngừng phát triển và mở rộng phạm vi
cung cấp các dịch vụ theo mô hình Ngân hàng đa năng hiện đại.
Tổng quát chức năng cơ bản của NHTM đa năng ngày nay:

ủy

Chức năng Tư vấn tài chính
Tín dụng

thác

Chức năng

Chức năng


Lập kế hoạch đầu tư

Chức năng

Chức năng
Chức năng
Bảo hiểm
Môi giới
Chức năng

Chức năng

Thanh toán

Chức năng

Chức năng

Đầu tư vàNHTM
bảo lãnh
QuảnHIỆN
lý tiền mặt
Tiết kiệm
ĐẠI

Sơ đồ 1.1. Chức năng cơ bản của NHTM hiện đại
1.1.2. Khái niệm dịch vụ thanh toán của Ngân hàng thương mại
Bất kỳ nền kinh tế nào, dù ở mức độ phát triển nào, cũng có tính đa dạng nhất
định của nó. Và vì thế, sự tồn tại nhiều loại tiền để thỏa mãn tất cả những nhu cầu

đa dạng của xã hội, của các cá nhân là điều tất nhiên. Nhưng bên cạnh đó, nhu cầu


9

cần sự gọn nhẹ, bảo đảm có lãi cho tài sản, và dễ dàng trong thanh toán ở mọi lúc,
mọi nơi vẫn tạo ra các hình thức tiền khác nhau. Nhiều nhà kinh tế tiên đoán rằng,
trong tương lai với sự phát triển của sản xuất, chi phí lắp đặt cho các hệ thống điện
tử sẽ ngày càng thấp hơn, hiện đại hơn, đến mọi ngõ ngách của đời sống, xã hội và
địa phương. Và thế giới sẽ tiến dần đến thế giới của nền kinh tế không có tiền mà
chỉ có các thanh toán bằng điện tử qua Ngân hàng.
Không có thanh toán, sản xuất và lưu thông không thể tiến hành được. Thanh
toán được coi là điều kiện quan trọng để bảo đảm mọi quá trình sản xuất kinh doanh
tiến hành đều đặn và liên tục. Nếu trong khâu thanh toán bị gián đoạn thì quá trình
sản xuất bị ngưng trệ, các mối quan hệ kinh tế bị phá vỡ. Trong cuộc sống thường
ngày có rất nhiều cái chúng ta phải thanh toán như: thanh toán hóa đơn tiền điện,
tiền nước, siêu thị mà bản chất mà bản chất của việc thanh toán này là chi trả cho
những sản phẩm dịch vụ chúng ta đã sử dụng và đã mua. Đây là hình thức thanh
toán hữu hình, chúng ta phải trả tiền để có được những sản phẩm, dịch vụ mà chúng
ta sử dụng hay còn gọi là hình thức thanh toán phi Ngân hàng. Tuy nhiên, thanh
toán qua Ngân hàng lại không thể đánh đồng với thanh toán hàng hóa, dịch vụ mà
chúng ta đã mua ở trên, cũng không giống với các dịch vụ khác trong Ngân hàng,
dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng đóng vai trò trung gian thực hiện thanh toán hộ
cho các khoản giao dịch cho cả hai bên mua và bán. Tức là thay vì chúng ta trả tiền
trực tiếp cho nhà sản xuất điện, hay cho nhà máy nước…. thì chúng ta yêu cầu
Ngân hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền tương ứng để thanh toán cho bên
sản xuất. Nhờ có các Ngân hàng đã giúp cho nền kinh tế tăng khả năng lưu thông
hàng hóa và thu hẹp khoảng cách về không gian và thời gian thanh toán, biến Ngân
hàng thành trung gian thanh toán của nền kinh tế.
Hoạt động thanh toán là việc mở tài khoản, thực hiện dịch vụ thanh toán, tổ

chức và tham gia các hệ thống thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán và việc mở tài khoản, sử dụng dịch vụ thanh toán của người sử dụng dịch vụ
thanh toán (Nghị định 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán). Tổ chức cung ứng dịch vụ


10

thanh toán là Ngân hàng nhà nước Việt Nam (dưới đây gọi là Ngân hàng nhà nước),
Ngân hàng, tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán. Người sử dụng dịch vụ
thanh toán là tổ chức, cá nhân thực hiện giao dịch thanh toán qua các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán. Giao dịch thanh toán là việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền
hoặc chuyển tiền giữa các tổ chức, cá nhân.“Dịch vụ thanh toán là việc cung ứng
phương tiện thanh toán, thực hiện giao dịch thanh toán trong nước và quốc tế, thực
hiện thu hộ, chi hộ và các loại dịch vụ khác do Ngân hàng Nhà nước quy định của
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ
thanh toán” (Nghị định 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt
động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán).
Tóm lại chúng ta có thể hiểu “Thanh toán qua Ngân hàng là cách thức
thanh toán mà trong đó Ngân hàng đóng vai trò là trung gian thanh toán giữa
người chi trả và người được chi trả, nó được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài
khoản của người chi trả (người mua trong trường hợp chi trả có tài khoản tại Ngân
hàng phục vụ mình) hoặc người chi trả nộp tiền mặt trực tiếp chuyển khoản vào tài
khoản của người thụ hưởng (người bán) hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua
vai trò trung gian của tổ chứccungứngdịch vụ thanh toán”.
1.1.3. Đặc điểm của dịch vụ thanh toán của Ngân hàng thương mại
Dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng mang đặc điểm trừu tượng vì nó
được thực hiện thông qua các kênh thanh toán giữa các Ngân hàng với nhau mà
khách hàng không thể nhìn thấy được như các dịch vụ khác, khách hàng chỉ có thể

thấy được kết quả của việc sử dụng dịch vụ đó là việc thanh toán của khách hàng đã
được thực hiện mà thôi.
Thứ hai, dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng được thực hiện không đi liền với
việc trao đổi hàng hóa, tức là sự vận động của tiền tệ trong Ngân hàng tách biệt với
sự vận động của hàng hóa. Dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng được thực hiện có thể
trước hoặc sau khi việc trao đổi hàng hóa giữa các chủ thể được thực hiện, điều này


11

phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các khách hàng với nhau. Đây là đặc điểm dễ
nhận thấy nhất và khác biệt nhất so với các dịch vụ khác trong nền kinh tế.
Thứ ba, dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng không bị bó hẹp bởi không gian
(khoảng cách địa lý) và thời gian. Một khách hàng có thể ở nhà mà vẫn có thể mua
được hàng hóa trong nước cũng như trên thế giới.
Thứ tư, chứng từ sử dụng trong thanh toán có thể là chứng từ giấy hoặc chứng
từ điện tử. Trong đó chứng từ giấy là chứng từ thanh toán được thể hiện bằng giấy
như giấy nộp tiền, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, séc…; chứng từ điện tử là những
chứng từ thanh toán được thể hiện bằng dữ liệu thông tin trên vật mang tin (như các
loại thẻ thanh toán, băng từ, đĩa từ, dữ liệu qua các chương trình thanh toán điện tử…).
Thứ năm, chủ thể tham gia trong quan hệ thanh toán qua Ngân hàng ngoài
người thụ hưởng, người chi trả còn có Ngân hàng, các tổ chức tài chính trung gian
khác đóng vai trò làm trung gian thanh toán.
1.1.4. Vai trò dịch vụ thanh toán của Ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ kinh doanh và dịch vụ khác, xu
hướng tiến tới một nền kinh tế không dùng tiền mặt đã tạo điều kiện cho các dịch vụ
thanh toán trong Ngân hàng ra đời và phát triển, trong đó thanh toán trong nước là
mảng hoạt động có vai trò quan trọng đối với mỗi Ngân hàng trong bối cảnh cạnh
tranh quyết liệt giữa các Ngân hàng. Cụ thể dịch vụ thanh toán qua NHTM có các
vai trò sau:

Thứ nhất, thanh toán trong nước là nghiệp vụ bổ xung, hỗ trợ cho các mặt
hoạt động khác của Ngân hàng, chẳng hạn như khi phát triển hoạt động thanh toán
trong nước sẽ tăng cường được khả năng huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng.
Dịch vụ thanh toán giúp cho các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng tập trung được
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ nền kinh tế với chi phí vốn thấp để mở rộng việc
cấp tín dụng Ngân hàng cho nền kinh tế, góp phần đầu tư vào quá trình tái sản xuất.
Thứ hai, dịch vụ thanh toán qua NHTM trực tiếp thúc đẩy quá trình vận động
hàng hóa trong nền kinh tế, bởi lẽ thanh toán tham gia thực tiếp vào các khâu của
chu kỳ sản xuất, nhờ vậy chu kỳ sản xuất sẽ được rút ngắn, tăng tốc độ chu chuyển


12

vốn, đáp ứng nhu cầu tái sản xuất của doanh nghiệp, từ đó góp phần tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.
Thứ ba, dịch vụ thanh toán qua NHTM đã góp phần to lớn giảm lượng tiền
mặt trong lưu thông, giảm chi phí cho xã hội: chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển
và cất giữ tiền mặt đồng thời góp phần làm giảm áp lực về in ấn, phát hành tiền cho
Ngân hàng trung ương giúp Ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ một
cách dễ dàng hơn và hiệu quả hơn.
Thứ tư, tiến hành hoạt động thanh toán trong nước tốt sẽ giúp Ngân hàng đáp
ứng tốt hơn như cầu của khách hàng, trên cơ sở đó nâng cao được uy tín của mình.
Thanh toán trong nước là một nghiệp vụ phức tạp, trong dịch vụ thanh toán Ngân
hàng không chỉ là trung gian tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau giữa người mua và người
bán thông qua quan hệ của mình với các Ngân hàng khác mà các Ngân hàng cần
phải đẩy mạnh công tác tư vấn, giúp khách hàng lựa chọn phương thức, công cụ
thanh toán hiệu quả nhất. Quá trình thanh toán diễn ra thuận lợi, người bán nhận đủ
tiền, người mua nhận được hàng hóa đúng số lượng, chất lượng và thời gian sẽ
chứng tỏ được khả năng của Ngân hàng trong hoạt động của mình.
Thứ năm, việc cung ứng dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng còn giúp cho các

NHTM tiếp cận được với nhiều đối tượng khách hàng, mở rộng và triển khai các
dịch vụ Ngân hàng và nâng cao khả năng cạnh trạnh giữa các Ngân hàng.
Thứ sáu, dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng sẽ giúp Ngân hàng mở rộng quan
hệ hợp tác với các Ngân hàng khác trong nước cũng như trên thế giới, tạo điều kiện
thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ Ngân hàng, từ trang bị kỹ thuật đến đào tạo
chuyên viên, góp phần đưa Ngân hàng trở thành Ngân hàng đa năng, hiện đại, phục
vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Thứ bảy, dịch vụ thanh toán là dịch vụ trung gian, phí thu được từ hoạt động
thanh toán không phải là thu nhập chủ yếu nhưng cũng góp phần đáng kể vào tổng
thu nhập của Ngân hàng. Hơn nữa, mức phí trong hoạt động thanh toán cũng là
công cụ để Ngân hàng thực hiện chiến lược lôi cuốn khách hàng.


13

Thứ tám, đối với các nhà quản lý vĩ mô của Nhà nước, Ngân hàng là công cụ
kinh tế quan trọng thông qua đó các chính sách của nhà nước về tiền tệ, tín dụng và
thanh toán được thực hiện. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước qua Ngân hàng chỉ
thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi phần lớn khối lượng thanh toán được tập trung
qua các Ngân hàng. Nếu thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng tăng lên,
lượng tiền ngoài lưu thông giảm, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc quản lý, ổn
định các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: Lạm phát, tỷ giá, công ăn việc làm,… giúp
Ngân hàng Trung ương, các nhà hoạch định có biện pháp, chính sách kịp thời nhằm
thực hiện tốt chức năng kiểm soát tiền tệ.
Nói tóm lại hoạt động thanh toán là mảng hoạt động rất quan trọng của Ngân
hàng, nó không chỉ tạo ra thu nhập mà còn là nhân tố giúp Ngân hàng nâng cao uy
tín, tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng qui mô nghiệp vụ hoạt động cũng như tăng
cường mối quan hệ của mình với các Ngân hàng trong nước cũng như trên toàn thế giới.
1.1.5. Các phương thức thanh toán của Ngân hàng thương mại
Trong một nền kinh tế phát triển, quy mô thanh toán, số lượng các tài khoản

thanh toán và khoảng cách giữa khách hàng với nhau ngày càng tăng lên nhanh
chóng. Việc thanh toán trực tiếp giữa khách hàng sẽ không thể nào thỏa mãn được
yêu cầu của nền kinh tế nếu không có hệ thống NHTM làm chức năng trung gian
thanh toán cho các chủ thể của nền kinh tế.
Dịch vụ thanh toán luôn là một trong những mảng trọng yếu để nâng cao khả
năng cạnh tranh cũng như hiệu quả hoạt động của Ngân hàng, do vậy dịch vụ của
NHTM luôn được cải tiến và áp dụng những công nghệ mới nhất. Hiện nay trên thế
giới đã nghiên cứu và áp dụng nhiều phương tiện thanh toán đa dạng và phong phú.
Nhưng tùy theo thực trạng nền kinh tế, trình độ quản lý, mức độ phát triển hệ thống
Ngân hàng của mỗi nước để lựa chọn sử dụng một số phương tiện cụ thể. Các
phương tiện thanh toán qua Ngân hàng được sử dụng phổ biến hiện nay gồm:
1.1.5.1. Thanh toán bằng tiền mặt
Theo nghị định số 222/2013/NĐ-CP ngày 31/12/2013 của Chính Phủ về thanh
toán bằng tiền mặt:


14

“Thanh toán bằng tiền mặt là việc tổ chức, cá nhân sử dụng tiền mặt để trực
tiếp chi trả hoặc thực hiện các nghĩa vụ trả tiền khác trong các giao dịch thanh
toán”. Vì vậy, hầu hết các khoản thanh toán bằng tiền mặt đều thực hiện bên ngoài
Ngân hàng, người trả tiền chi trả tiền trực tiếp cho người thụ hưởng. Tuy nhiên
ngày nay, nhờ có sự xuất hiện của Ngân hàng với các công nghệ hiện đại, khoảng
cách địa lý giữa người mua và người bán đã bị xóa bỏ, người mua không còn phải
gặp trực tiếp người bán để thanh toán tiền hàng mà người mua có thể đến Ngân
hàng nộp tiền để trả cho người bán, và người bán có thể đến Ngân hàng lĩnh tiền mà
người mua trả (người mua và người bán có hoặc không có tài khoản mở tại Ngân
hàng đều có thể thực hiện được điều này).
Trong quan hệ thanh toán bằng tiền mặt, các Ngân hàng chỉ đóng vai trò là
người giữ hộ tiền và

Tiền là phương tiện thực hiện trao đổi hàng hóa, đồng thời việc kết thúc quá
trình trao đổi. Lúc này tiền thực sự thực hiện chức năng là phương tiện thanh toán.
Sự vận động của tiền tệ có thể tách rời hay độc lập tương đối với sự vận động của
hàng hóa. Thực hiện chức năng làm phương tiện thanh toán, tiền không chỉ sử dụng
để trả các khoản nợ về mua chịu hàng hóa, mà chúng còn được sử dụng để thanh
toán những khoản nợ vượt ra ngoài phạm vi trao đổi như nộp thuế, trả lương, đóng
góp các khoản chi dịch vụ…
Trong lưu thông hàng hóa, người bán và người mua gặp nhau ở một điểm đó
là: Tiêu thụ hàng hóa, nhờ có tiền tệ với chức năng phương tiện trao đổi và phương
tiện thanh toán nên giải quyết tốt mối quan hệ này. Nhưng việc thanh toán ở đây
được thực hiện theo công thức (H – T).
1.1.5.2. Thanh toán không dùng tiền mặt
“Thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán tiền hàng hóa,
dịch vụ không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được tiến hành bằng cách trích tiền
từ tài khoản của người chi trả chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng hoặc
bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò ttrung gian của các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán”[9, tr138]


15

Như vậy thanh toán không dùng tiền mặt là các quá trình tiền tệ thực hiện
chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán không trực tiếp bằng
tiền mặt mà thực hiện bằng cách chuyển trên các tài khoản ở Ngân hàng, tổ chức tín
dụng hoặc bù trừ lẫn nhau giữa những người phải thanh toán và những người thụ
hưởng.
TTKDTM chỉ được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường và
được áp dụng rỗng rãi trong lĩnh vực kinh tế tài chính đối nội cũng như đối ngoại.
Sự phát triển rộng khắp của TTKDTM hiện nay là do yêu cầu phát triển vượt bậc
của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, khối lượng hàng hóa trao đổi trong nước và

ngoài nước càng lớn thì cần có những cách thức trả tiền thuận tiện, an toàn và tiết
kiệm. Theo các văn bản pháp quy hiện hành thì hiện nay có các hình thức
TTKDTM được sử dụng để thanh toán giữa các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền
kinh tế là: Séc; ủy nhiệm chi; ủy nhiệm thu; thẻ Ngân hàng; các phương tiện thanh
toán khác như hối phiếu, lệnh phiếu…theo quy định của pháp luật có liên quan.[9,
tr141]
a, Séc
Séc là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là
Ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam trích một só tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán
cho người thụ hưởng.[9, tr 148]
Séc là phương tiện TTKDTM ra đời từ rất sớm và từ lâu đã được sử dụng rộng
rãi cho các giao dịch thanh toán trong nước và quốc tế. Từ năm 1931, một số nước
châu Âu đã ký một bản công ước về séc tại Hội nghị quốc tế Giơnevơ, đến nay vẫn
được coi là luật chính để điều chỉnh các quan hệ liên quan đến phát hành, sử dụng
séc và được hầu hết các quốc gia căn cứ để xây dựng các văn bản luật hoặc dưới
luật liên quan đến séc.
Đặc điểm của séc là có tính thời hạn, chỉ có thời gian thanh toán trong hiệu lực
được quy định và tùy theo từng tiêu thức mà séc được phân chia thành nhiều loại.
Nếu căn cứ theo tính chất chuyển nhượng, séc có các loại: Séc ký danh, séc vô


16

danh, séc theo lệnh. Nếu căn cứ vào nội dung thanh toán, séc có các loại: séc lĩnh
tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi.
Séc chuyển khoản là séc mà người ký phát séc trực tiếp cho người thụ hưởng
sau khi nhận được hàng hóa, dịch vụ. Người thụ hưởng séc sẽ nộp tờ séc vào Ngân
hàng phục vụ mình để được thanh toán. Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng có
trách nhiệm chuyển tờ séc tới Ngân hàng phát hành. Trên cơ sở tờ séc hợp lệ, Ngân

hàng phát hành sẽ trích nợ tài khoản của người phát hành, chuyển tới Ngân hàng thụ
hưởng để ghi có vào tài khoản của người thụ hưởng séc.
Séc bảo chi là séc đã được tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán xác nhận khả
năng thanh toán trước khi người ký phát trao Séc cho người thụ hưởng để nhận
hàng hóa dịch vụ.
*Ưu điểm: Séc là một phương tiện thanh toán tiện lợi vì những lý do sau:
Nếu số tiền lớn séc không ảnh hưởng đến việc kiểm đếm, mang vác…vì người
thanh toán chỉ cần ghi số tiền cần thanh toán lên tờ séc mà thôi.
Mất séc nếu kịp thời báo cho Ngân hàng có liên quan thì vẫn không bị mất
tiền, còn đối với tiền mặt thì sẽ có rủi ro.
Thanh toán bằng séc đơn giản, dễ dàng và tiện lợi, nên nó được sử dụng rộng
rãi ở nhiều nước và trên phạm vi thế giới.
* Nhược điểm: Thanh toán bằng séc không phải lúc nào cũng tiện lợi, đó là:
Nếu số tiền ghi trên séc nhiều hơn so với số dư tiền gửi của người mua dẫn
đến khó khăn trong khâu thanh toán cho người bán.
Thanh toán bằng séc không phải bao giờ cũng an toàn do sự xuất hiện của
những tờ séc giả. Chính vì vậy, người ta đã không ngừng hoàn thiện kỹ thuật thanh
toán bằng séc trên tất cả các phương tiện. Đồng thời các phương pháp loại trừ séc
giả, đảm bảo thanh toán séc an toàn và nhanh chóng. Từ đó đã xuất hiện Card séc.
Thanh toán bằng Card séc là hình thức thanh toán bằng séc phải dùng tấm
Card séc do Ngân hàng phát hành và cấp cho người sử dụng séc nhằm khắc phục
hiện tượng séc giả. Người sử dụng séc phải xuất trình Card và ghi các yếu tố của
Card vào tờ séc trước sự kiểm soát của người thụ hưởng.
Đặc điểm của hình thức thanh toán bằng séc là:


17

Có thể nhận tiền mặt hoặc thanh toán bằng chuyển khoản trong một giới hạn
nhất định.

Được dùng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ trong nước và ngoài nước
(trong phạm vi các nước cùng tham gia thanh toán card séc với nhau)
Người phát hành séc có thể phát hành quá số dư ở mức độ nhất định, với điều
kiện trong thời hạn quy định phải trả vào Ngân hàng đủ số tiền đó.
Người nhận séc có thể có hoặc không có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng.
Trường hợp không có tài khoản tại Ngân hàng họ sẽ nhận tiền mặt.
Sử dụng Card séc dễ dàng và tiện lợi, nên nó được dùng rất phổ biến ở nhiều
nước và nhiều quốc gia đã liên kết với nhau để sử dụng card séc, như các nước
Châu Âu đã cùng nhau hình thành lên hệ thống séc Châu Âu.
b, Ủy nhiệm chi
Ủy nhiệm chi là lệnh của chủ tài khoản ủy nhiệm cho tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ tài khoản tiền gửi của
mình để chuyển cho người được hưởng có tài khoản ở cùng tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán hoặc khác tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.[9, tr142]
* Đặc điểm: Phải xuất phát từ người mua hàng. Trong quan hệ mua bán hàng
hóa, người mua có thể dùng UNC để ứng trước tiền hàng cho người bán và cũng có
thể thanh toán ngay sau khi nhận đủ hàng hóa, hoặc sau một thời gian nào đó. Việc
dùng UNC đảm bảo thanh toán nhanh gọn, đảm bảo quyền lợi kinh tế cho người
bán. Hình thức này được sử dụng trong quan hệ kinh tế tin tưởng lẫn nhau.
* Phạm vi: Rộng hơn so với séc, thanh toán trên tất cả các phạm vi của chi
nhánh Ngân hàng cùng hệ thống và khác hệ thống.
* Ưu điểm: UNC ra đời từ khá lâu và được sử dụng phổ biến trong quan hệ
thanh toán hàng hóa và phi hàng hóa do các ưu điểm an toàn, hiệu quả, thuận tiện
nhờ việc ứng dụng những thành tựu phát triển trong lĩnh vực công nghệ tin học.
Hiện tại UNC là phương tiện thanh toán phổ biến nhất trong xã hội.
* Nhược điểm: Bên cạnh ưu điểm thì UNC có những nhược điểm, đó là: sử
dụng UNC đồng nghĩa với việc rủi ro hoàn toàn chỉ thuộc về một bên (người mua


18


nếu việc thanh toán được thực hiện trước khi người bán chuyển giao hàng hóa hoặc
người bán nếu thanh toán chỉ được thực hiện sau khi đã nhận được hàng hóa). Nếu
bên thanh toán không đảm bảo về thời gian và số lượng thanh toán thì người thụ
hưởng sẽ bi chiếm dụng vốn.
c, Ủy nhiệm thu
Ủy nhiệm thu được áp dụng trong giao dịch thanh toán giữa những người sử
dụng dịch vụ thanh toán có mở tài khoản trong nội bộ một chi nhánh Ngân hàng
hoặc giữa các Ngân hàng, trên cơ sở có thỏa thuận hoặc hợp đồng về điều kiện thu
hộ giữa các bên trả tiền và bên thu hưởng.[9, tr 144]
Thực chất của UNT là giấy tờ thanh toán do người bán lập để ủy thác cho tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán thu hộ một số tiền ở người mua tương ứng với
giá tri hàng hóa, dịch vụ đã cung ứng.
* Đặc điểm: UNT được dùng để thu tiền hàng đã giao hoặc dịch vụ đã cung
ứng. Ngân hàng chỉ thu hộ trong trường hợp người trả tiền có mở tài khoản thanh
toán tại các tổ chức tín dụng có chức năng thanh toán.
* Ưu điểm: UNT có phạm vi thanh toán rộng, do đó tiết kiệm đáng kể thời
gian, nhân lực và chi phí đi lại.
* Nhược điểm: Việc tự động lập ủy nhiệm thu này có thể dẫn tới người bán lập
UNT để thu khống, thu thừa tiền của người mua, do đó ủy nhiệm thu chỉ được sử
dụng để thanh toán những hàng hóa, dịch vụ có dụng cụ ghi đo chính xác như điện,
điện thoại, nước…Ngoài ra thủ tục thanh toán bằng ủy nhiệm thu phức tạp, khâu
chuyển chứng từ giữa các Ngân hàng mất nhiều thời gian. Điều đó làm giảm tốc độ
luân chuyển vốn của bên bán, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của đơn vị.
d, Thẻ thanh toán
Thẻ là phương tiện thanh toán do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phát
hành và cấp cho người sử dụng dịch vụ thanh toán để sử dụng theo hợp đồng ký kết
giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và người sử dụng dịch vụ thanh toán, theo
đó, người sử dụng thẻ có thể dùng thẻ để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ tại các



19

đơn vị chấp nhận thẻ hay rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ hoặc
tại các máy rút tiền tự động ATM.[9, tr156]
Thẻ là một hình thức thanh toán tiên tiến, tiện dụng ra đời gắn liền với sự phát
triển của ngành Ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng, cùng với
sự ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại. Hiện nay trên thế giới có nhiều loại thẻ,
nếu phân loại theo tính chát thanh toán của thẻ, thẻ bao gồm: thẻ tín dụng, thẻ ghi
nợ. Nếu phân loại theo phạm vi thanh toán thẻ, thẻ bao gồm: thẻ nội địa, thẻ quốc
tế; phân loại theo tính chất vật lý của thẻ có thẻ ghi từ, thẻ chip (smart card).
Để có thể sử dụng được thẻ thanh toán, người sử dụng phải được Ngân hàng
phát hành thẻ. Đối với thẻ ghi nợ, khách hàng được phép thanh toán trong phạm vi
hạn mức của thẻ. Đối với thẻ tín dụng, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong
phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp nhận bằng văn bản. Khi có nhu
cầu thanh toán thẻ, chủ thẻ thực hiện thanh toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ, ứng
tiền mặt tại các điểm ứng tiền mặt thuộc hệ thống Ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để
thực hiện các giao dịch tại máy rút tiền tự động ATM. Tại đơn vị chấp nhận thanh
toán thẻ, thẻ thanh toán được kiểm tra và thực hiện giao dịch qua máy EDC. Sau khi
thực hiện giao dịch với chủ thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ thực hiện thanh toán với Ngân
hàng thanh toán, trên cơ sở đó Ngân hàng thanh toán sẽ truyền thông tin cuối cùng
về Ngân hàng phát hành để hạch toán.
* Ưu điểm: Thẻ là hình thức TTKDTM hiện đại và tiên tiến nhất trên thế giới
hiện nay. Sự xuất hiện của thẻ ATM đã tạo ra một bước phát triển mới, làm cho
công việc thanh toán trở nên dễ dàng hơn. Ưu điểm đầu tiên có thể kể đến là tính
tiện dụng của ATM. Thẻ ATM tích hoạt rất nhiều chức năng khác nhau: bao gồm
chức năng thanh toán, rút tiền, chuyển tiền…Vì vậy không cần mang một số tiền
mặt quá lớn khi thanh toán, rất bất tiện, chúng ta vẫn có thể thanh toán được khi đi
mua sắm, hay thanh toán các hóa đơn điện, nước, điện thoại, internet… hàng tháng
mà không cần đến tận nơi để thanh toán các hóa đơn này.

Tính tiện dụng cũng thể hiện ở việc chuyển tiền và rút tiền. Nhờ có thẻ ATM,
khoảng cách địa lý đã được rút ngắn lại. Người ở xa hoàn toàn có thể chuyển tiền


20

cho gia đình, người thân mà không cần quan tâm đến khoảng cách và số tiền được
chuyển. Cùng với chức năng chuyển tiền và rút tiền, khách hàng có thể nhận lương,
học bổng hay các khoản trợ cấp từ các tổ chức, công ty nơi mình học tập, làm việc
thông qua ATM. Thêm nữa, với sự ra đời của hệ thống liên Ngân hàng tại Việt
Nam, khách hàng có thẻ ATM ở một Ngân hàng có thể rút tiền ở những máy ATM
của bất kỳ Ngân hàng nào khác.
Ưu điểm thứ hai là tính an toàn. Vì không phải mang một số tiền quá lớn theo
người khi đi thanh toán, nên ATM hạn chế được những sự cố như cướp, rơi, mất
cắp. Khi mất thẻ, người khác không thể rút tiền trong tài khoản của bạn vì không có
mã PIN, hoặc biết mã PIN nhưng khách hàng đó báo khóa tài khoản ở Ngân hàng.
Thẻ ATM có thể được làm lại trong trường hợp bị mất.
Về phía Ngân hàng, phương thức thanh toán này giúp Ngân hàng giảm thiểu
nhân lực phục vụ, giảm bớt rủi ro do khách hàng phải chịu trách nhiệm cao về tính
bảo mật thẻ của mình.
* Nhược điểm: ATM là một công cụ thanh toán chuyển tiền hiện đại, nhờ hệ
thống máy ATM. Vì vậy nó cũng chứa đựng những nhược điểm nhất định:
Thứ nhất, việc thanh toán sẽ bị ngừng trệ nếu như hệ thống máy ATM hay
máy tính ở Ngân hàng gặp trục trặc. Ngay cả khi chỉ có một máy gặp sự cố kỹ thuật
cũng có thể kéo theo ngừng hoạt động của toàn bộ máy trong hệ thống. Điều này
hoàn toàn không xảy ra nếu người tiêu dùng thanh toán bằng tiền mặt.
Thứ hai, rút tiền từ thẻ ATM có những hạn chế nhất định. Về số tiền: khách
hàng chỉ có thể rút một số tiền giới hạn cho mỗi lần rút. Về yếu tố kỹ thuật: việc rút
tiền không thể thực hiện nếu máy ATM hết tiền. Trong trường hợp khách hàng
không nhớ mã PIN, hay chưa biết cách sử dụng có thể máy ATM sẽ nuốt thẻ và

không cho rút tiền. Khi gặp sự cố này, khách hàng phải đến Ngân hàng để làm đơn
khiếu nại giải quyết phát sinh. Tại một số Ngân hàng, rút tiền, gửi tiền, hay thanh
toán qua thẻ sẽ bị trừ phí.
e, Thư tín dụng


21

Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng là một sự thỏa thuận mà trong đó
một Ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) đáp ứng những yêu cầu của khách
hàng (người xin mở thư tín dụng) cam kết hay cho phép một Ngân hàng khác (Ngân
hàng ở nước xuất khẩu) chi trả hoặc chấp thuận những yêu cầu của người hưởng lợi
theo đúng điều kiện và chứng từ thanh toán phù hợp với thư tín dụng.[9, tr168]
* Ưu điểm: Với phương thức này, nhà nhập khẩu có cơ sở tin chắc rằng, Ngân
hàng phát hành sẽ không trả tiền trước khi nhà xuất khẩu giao hàng, bởi vì điều này
đòi hỏi nhà xuất khẩu phải xuất trình bộ chứng từ giao hàng; còn nhà xuất khẩu tin
chắc rằng sẽ nhận được tiền hàng xuất khẩu nếu trao cho Ngân hàng phát hành bộ
chứng từ phù hợp với quy định của thư tín dụng. Như vậy, phương thức thanh toán
bằng thư tín dụng đã dung hòa được lợi ích và rủi ro giữa nhà xuất khẩu và nhà
nhập khẩu, đây là ưu điểm vượt trội của phương thức này.
* Nhược điểm: Trong thực tiễn thương mại quốc tế, do diễn biến của thị
trường, giá cả… mà thư tín dụng có thể bị lạm dụng trở thành công cụ để từ chối
nhận hàng, từ chối thanh toán và là công cụ để gian lận và lừa đảo. Từ bản chất của
phương thức than toán bằng thư tín dụng chỉ là giao dịch bằng chứng từ và khi kiểm
tra chứng từ lại chỉ là xem xét trên bề mặt, chứ không xem xét tính chất “bên trong
của chứng từ”, chính vì điều này mà không ít các tranh chấp xảy ra về tính chất tuân
thủ chặt chẽ của chứng từ. Trong thực tế, lập được một bộ chứng từ hoàn hảo,
không có bất cứ sai sót nào là một việc làm không hề dễ chút nào, hơn nữa giữa
“phù hợp” và “sai sót” lại có gianh giới thật mong manh, tùy thuộc vào tập quán,
trình độ, quan điểm, động cơ của những người liên quan. Ngoài ra, do tính chất độc

lập của thư tín dụng với hợp đồng, nên bọn lừa đảo có thể lợi dụng không giao hàng
hoặc giao hàng không đúng nhưng vẫn lập bộ chứng từ phù hợp để thanh toán.
Thực tế trên thế giới đã xảy ra không ít trường hợp như thế.
Trong khuôn khổ của luận văn này, phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở các
dịch vụ thanh toán trong nước, nên với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
luận văn không đề cập đến ở chương 2.
f, Các phương thức thanh toán khác


22

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến,
hiện đại như internet, mạng điện thoại di động, web… đã làm thay đổi quan niệm
truyền thống về giao dịch qua Ngân hàng tại các quầy giao dịch. Bên cạnh Ngân
hàng truyền thống, giờ đây đã xuất hiện thêm khái niệm Ngân hàng điện tử: dịch vụ
Home-banking, E-banking, Phone-banking, Internet Banking, SMS banking, dịch
vụ Ngân hàng trực tuyến, ví điện tử…Đây là những sản phẩm công nghệ hiện đại,
chúng mang lại tiện ích cao cho khách hàng và đang được khách hàng ưa chuộng.
Dịch vụ Home-banking, E-banking, Internet Banking là những dịch vụ Ngân
hàng giúp cho khách hàng là tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và các khách hàng
khác không cần phải đến Ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện giao dịch với Ngân
hàng, tiết kiệm được chi phí, thời gian đi lại. Hiện tại đã có rất nhiều tổ chức kinh
tế, tổ chức tín dụng và các khách hàng khác không cần phải tới Ngân hàng mà vẫn
có thể thực hiện giao dịch với Ngân hàng, tiết kiệm chi phí, thời gian đi lại.
Dịch vụ Ngân hàng trực tuyến là “cây cầu” thu hẹp mọi khoảng cách không
gian và địa lý. Nó được xây dựng trên nền tảng công nghệ cao với tiện ích đặc trưng
là cho phép khách hàng mở tài khoản một nơi nhưng được giao dịch tại bất kỳ điểm
giao dịch nào của Ngân hàng trên toàn quốc.
SMS banking là dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp cho khách hàng để thực hiện
việc truy vấn thông tin Ngân hàng, thông tin tài khoản hoặc thực hiện thanh toán

chuyển khoản thông qua dịch vụ nhắn tin SMS qua mạng điện thoại di động.
Như vậy, với Ngân hàng điện tử khách hàng có thể tiếp cận mọi lúc mọi nơi.
Ngoài ra, khách hàng được Ngân hàng phục vụ tận nơi với những thông tin nóng
hổi nhất như biến động tỷ giá, tra cứu thông tin tài chính của mình … Và hơn nữa,
với những tiêu chuẩn chuẩn hoá, khách hàng được phục vụ tận tụy và chính xác
thay vì phải tuỳ thuộc vào thái độ phục vụ khác nhau của các nhân viên Ngân hàng.
Về phía Ngân hàng: Các giao dịch Ngân hàng được tự động hoá không chỉ mang lại
lợi ích cho khách hàng mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho Ngân hàng. Thông
qua những dịch vụ mới, những kênh phân phối mới, Ngân hàng có thể mở rộng đối
tượng khách hàng, phát triển thị phần, giảm chi phí, thu hút nguồn vốn huy động từ


23

tiền gửi thanh toán của khách hàng, tăng thêm lợi nhuận…Bên cạnh đó, ứng dụng
và phát triển những công nghệ Ngân hàng hiện đại cũng giúp cho các Ngân hàng
luôn tự đổi mới, hoà nhập và phát triển không chỉ ở thị trường trong nước mà còn
hướng tới thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những hạn chế như: Chất lượng dịch vụ Ngân
hàng điện tử còn chưa thoả mãn khách hàng ở những cấp độ cao hơn như việc gửi
tiền mặt vào tài khoản, việc đăng ký sử dụng dịch vụ… còn phải tới trực tiếp giao
dịch tại chi nhánh Ngân hàng.
Cơ sở hạ tầng còn yếu kém như chất lượng mạng, tốc độ đường truyền, lỗi kỹ
thuật hoặc thiết bị đầu cuối không đảm bảo chất lượng dẫn tới chất lượng dịch vụ
chưa cao. Bên cạnh đó, các hệ thống Ngân hàng điện tử của các Ngân hàng còn phát
triển tương đối độc lập, chưa có sự phối hợp, liên thông cần thiết nhằm phát huy cao
nhất hiệu quả của dịch vụ mới này.
Giao dịch Ngân hàng điện tử còn phụ thuộc nhiều vào chứng từ lưu trữ truyền
thống, chưa thể điện tử hoá mọi chứng từ giao dịch. Ngoài ra, việc sử dụng chữ ký
điện tử, chứng nhận điện tử chưa được phổ biến rộng rãi và chưa thể hiện được ưu

thế so với chữ ký thông thường.
Bên cạnh đó, những rủi ro mới như hacker (tin tặc), virus máy tính có thể có
những tác hại rất lớn không chỉ đối với Ngân hàng mà còn đối với khách hàng, gây
mất lòng tin của khách hàng đối với dịch vụ Ngân hàng.
Trong tương lai, với trình độ và tốc độ hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng như
hiện nay, các Ngân hàng Việt Nam đang nỗ lực ứng dụng công nghệ mới, phát triển
dịch vụ mới để tăng sức cạnh tranh, nhanh chóng hoà nhập với khu vực và thế giới.
Từ những webpage giới thiệu dịch vụ Ngân hàng , tới website cung cấp dịch vụ
Ngân hàng, các Ngân hàng Việt Nam đang hướng tới việc cung cấp những dịch vụ
ở cấp độ cao hơn, tăng sự chia sẻ thông tin giữa các Ngân hàng, đối tác và tiến tới
xây dựng mô hình Ngân hàng điện tử thực sự , tận dụng được sức mạnh thực sự của
mạng toàn cầu và cá nhân hoá dịch vụ Ngân hàng cho từng đối tượng khách hàng
chuyên biệt.
1.1.5.3. Các kênh thanh toán của Ngân hàng thương mại


24

Tính đến thời điểm hiện tại, NHTM ở Việt Nam đang tồn tại 5 hệ thống thanh
toán trong nước cùng song song hoạt động. Đó là:
Thứ nhất, hệ thống thanh toán điện tử liên Ngân hàng, được thiết kế theo giải
pháp tập trung hoá tài khoản, mỗi Ngân hàng thành viên chỉ mở và sử dụng một tài
khoản duy nhất tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Đây là hệ thống thanh toán được
thiết kế hiện đại nhất Việt Nam, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và chuẩn mực quốc tế.
Thứ hai, hệ thống chuyển tiền điện tử liên Ngân hàng do NHNN tự xây dựng
và vận hành trước khi có hệ thống thanh toán điện tử liên Ngân hàng. Đây là hệ
thống chuyển tiền điện tử trong nội bộ NHNN, được thiết kế theo giải pháp tài
khoản phân tán, nghĩa là mỗi chi nhánh của các NHTM tham gia hệ thống này bắt
buộc phải mở một tài khoản thanh toán tại chi nhánh NHNN cùng địa bàn.
Thứ ba, hệ thống thanh toán bù trừ tại tỉnh, thành phố do chi nhánh NHNN

tỉnh, thành phố chủ trì. Hệ thống này đang hoạt động ở hai cấp độ kỹ thuật khác
nhau. Đa số các tỉnh, thành phố thực hiện chuyển lệnh thanh toán bằng các thiết bị
điện tử (bù trừ điện tử), số tỉnh còn lại vẫn thực hiện bù trừ giấy theo phương pháp
thủ công, một đến hai phiên giao dịch một ngày. Phần lớn các lệnh thanh toán được
bù trừ trong địa bàn. Những khoản thanh toán ngoài địa bàn sẽ phải chuyển qua hệ
thống chuyển tiền điện tử để thực hiện.
Thứ tư, các hệ thống chuyển tiền điện tử của các NHTM. Cách thức thiết kế kỹ
thuật, phương pháp hạch toán và vận hành có khác nhau nhưng nội dung thực hiện
đều là chuyển các lệnh thanh toán trong nội bộ mỗi NHTM, từ chi nhánh về Hội sở
chính hoặc từ chi nhánh này đến chi nhánh khác. Hệ thống chuyển tiền điện tử hiện
nay của các NHTM cũng sẽ bị triệt tiêu khi hệ thống Corbanking tập trung hoá tài
khoản đã phủ sóng tới tất cả các chi nhánh của mỗi Ngân hàng. Khi đó, trong mỗi
NHTM, thực hiện thanh toán giữa các chi nhánh với Hội sở chính và giữa các chi
nhánh với nhau chỉ đơn giản là việc thực hiện các bút toán nội bộ trực tiếp tức thời.
Thứ năm, hệ thống thanh toán song biênphục vụ nhu cầu thanh toán giữa các
khách hàng của hai Ngân hàng hoặc của bản thân Ngân hàng thông qua hệ thống
thanh toán kết nối trao đổi lệnh thanh toán điện tử giữa hai Ngân hàng.
Những ưu thế vượt trội mà các kênh thanh toán đem lại, đó là:


25

Đối với Ngân hàng: Cho phép các Ngân hàng phát triển nhiều sản phẩm dịch
vụ tiện ích dựa trên nền tảng công nghệ như: Dịch vụ chuyển tiền điện tử; dịch vụ
thanh toán thẻ; các giao dịch điện tử (dịch vụ Internet-banking; Home-banking;
Mobile-banking; Phone-banking…).
Phục vụ khách hàng tốt hơn, đem lại tiện ích, sự thuận tiện cho khách hàng khi
giao dịch với Ngân hàng như triển khai mô hình giao dịch một cửa, gửi tiền một nơi rút nhiều nơi, nộp tiền vào tài khoản ngay tại các máy ATM...
Tạo điều kiện nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý, quản trị của
các Ngân hàng nhờ nắm bắt nhanh, tức thời mọi biến động về vốn, thanh toán, các

hoạt động nghiệp vụ khác. Trên cơ sở đó, các nhà quản trị Ngân hàng có những
biện pháp điều hành, xử lý kịp thời, đảm bảo hoạt động Ngân hàng phát triển ổn
định.
Kích thích các dịch vụ Ngân hàng khác phát triển. Chính những tiện ích của
các sản phẩm dịch vụ hiện đại đã thu hút khách hàng sử dụng và giao dịch với Ngân
hàng ngày càng tăng, qua đó thu hút thêm nguồn vốn tiền gửi thanh toán của tổ
chức kinh tế và cá nhân.
Góp phần làm tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ, trong đó có dịch vụ thanh
toán, giảm tỷ lệ thu nhập từ hoạt động vụ tín dụng, là hoạt động có mức độ rủi ro
tiềm ẩn lớn, góp phần đảm bảo cho hoạt động Ngân hàng tăng trưởng và phát triển
bền vững.
Góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, chủ động tham gia vào quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng.
Đối với nền kinh tế: Làm tăng tốc độ chu chuyển vốn của các doanh nghiệp,
của khách hàng và của cả nền kinh tế nhờ giảm đáng kể được thời gian thanh toán.
Tạo cho vòng quay vốn của khách hàng, của nền kinh tế nhanh hơn, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá - tiền tệ
phát triển, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Mở rộng khả năng cung ứng dịch vụ thanh toán cũng như đa dạng hoá dịch vụ
thanh toán, tạo cho khách hàng nhiều sự lựa chọn, thu hút khách hàng quan hệ giao


×