Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH HẢI

QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH HẢI

QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng

Hà Nội - 2016


[

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thanh Hải

iii


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự năm 2005

: BLDS

Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011


: BLTTDS

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

: CHXHCN

Hội đồng xét xử

: HĐXX

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

: HĐTPTANDTC

Tòa án nhân dân

: TAND

Tòa án nhân dân Tối cao

: TANDTC

Tố tụng dân sự

: TTDS

Luật Hôn nhân và Gia đình

: Luật HN và GĐ


Vụ án dân sự

: VADS

Viện kiểm sát

: VKS

iv


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1 .......................................................................................................... 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT .. 8
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ..................... 8
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải
quyết vụ án dân sự .......................................................................................... 8
1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp
luật tố tụng dân sự......................................................................................... 14
1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về
quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam . 17
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 29
Chƣơng 2 ........................................................................................................ 30
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN30
TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ .................................................................................................................... 30
2.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự
......................................................................................................................... 31
2.2. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu

cầu và rút đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập.................... 39
2.3. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc tham gia hòa giải và tự
thỏa thuận giải quyết vụ án dân sự ............................................................. 47
2.4. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ
sung và rút yêu cầu kháng cáo ..................................................................... 54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 63
Chƣơng 3 ........................................................................................................ 64

v


THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT ........................... 64
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ........ 64
3.1. Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải
quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay .................................................... 64
3.2. Một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật và triển khai thực hiện
có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải
quyết vụ án dân sự ở nƣớc ta hiện nay........................................................ 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 89

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong tố tụng dân sự quyền tự định đoạt của đương sự được xem là một
quyền tố tụng đặc biệt quan trọng, chi phối quá trình tố tụng dân sự và tạo nên
đặc trưng cơ bản của tố tụng dân sự so với các loại hình tố tụng khác như tố
tụng hình sự, tố tụng hành chính. Các mâu thuẫn, tranh chấp trong đời sống

dân sự không phải là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phải là tội
phạm được pháp luật hình sự điều chỉnh, vì vậy pháp luật quy định và bảo
đảm cho đương sự có quyền định đoạt trong việc giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp đó. Quyền tự định đoạt của đương sự chính là quyền tự do ý chí
của đương sự, trong đó đương sự hồn tồn có quyền chủ động trong việc giải
quyết mâu thuẫn, các tranh chấp và các việc khác liên quan đến quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự là bảo đảm cho đương sự tự quyết định việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ trước Tòa án theo quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những hoạt
động tích cực trong cơng cuộc cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm và tơn trọng
quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Đặc
biệt, trong xu thế hội nhập, tồn cầu hóa sâu rộng trên các mặt của đời sống
kinh tế - xã hội như hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội ngày càng được quan tâm,
điều chỉnh bởi pháp luật.
Nhà nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã
hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong xã hội bảo vệ một cách tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự

1


2004 (BLTTDS) được Quốc hội khố XII thơng qua ngày 29/3/2011 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 quy định khá đầy đủ các vấn đề về tố
tụng dân sự là một công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm việc giải quyết các vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế và lao động được nhanh chóng, kịp
thời, cơng bằng, đúng pháp luật.

Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua Hiến pháp mới - Hiến pháp nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, trong đó quy định Tịa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích của tổ chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì nhiều
nội dung quan trọng về vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân, về Thẩm phán và Hội thẩm đã được bổ sung, sửa
đổi. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hóa các quan điểm,
chủ trương, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp và đã được cụ thể hóa
một bước trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 và nhiều đạo luật quan trọng khác. Các quy định
của Hiến pháp năm 2013 cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các luật tố tụng
nói chung và Bơ ̣ l ̣t tớ tu ̣ng dân sự nói riêng , tạo cơ sở pháp lý cho việc giải
quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Để đáp ứng các yêu cầu trên, bên cạnh sự phát triển ngày càng sâu rộng
về mọi mặt của đời sống xã hội, ngày 25/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khóa XIII, Quốc hội đã thơng qua Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa
đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự
(sửa đổi) năm 2015 được ban hành đã cụ thể hóa nhiều quy định của Hiến pháp
năm 2013, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của Luật tổ chức

2


Tòa án nhân dân năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành
án dân sự và các luật khác có liên quan; góp phần khắc phục các tồn tại, bất cập
sau thực tiễn mười (10) năm thi hành Bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng dân sự năm2004; bảo đảm
việc giải quyết các vụ việc dân sự một cách dân chủ, bình đẳng, cơng khai, công

bằng, minh bạch; nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án dân sự tại Tịa
án; từ đó bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện
nay, thông qua việc nước ta trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế lớn
và tham gia vào các điều ước quốc tế khi chúng ta là thành viên.
Việc đi sâu nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và những quy định của
pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ
án dân sự tại Tòa án ở Việt Nam là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức và ổn định
trật tự xã hội. Gắn lý luận với thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực tế, qua
đó rút ra được những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện và
đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như tổ
chức thực hiện có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề
tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học pháp
lý đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam. Có thể
kể đến một số cơng trình khoa học như: Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn
Tiến Trung, năm 1997 với đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS”; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Cung, năm 1997 với đề tài
“Các nguyên tắc cơ bản của TTDS Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của

3


Nguyễn Văn Tuyết, năm 2011 với đề tài “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS Việt Nam”; Khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS” của Đỗ Văn Đại năm 1997; Khóa luận

tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Ngần, năm 2012 với đề tài “Quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
Bên cạnh đó, cịn có một số sách chun khảo như: “Pháp luật TTDS
và thực tiễn xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng do Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia xuất bản năm 2009; “Tìm hiểu về quyền tự định đoạt của đương sự
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Phương Hạnh do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản năm
2012.
Ngồi ra, cịn có các bài viết đăng trên các tạp chí như: “Nguyên tắc
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự
Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 5/2005; “Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại
phiên tòa sơ thẩm”, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9/2007; “Sự
thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” của tác giả Bùi
Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật học số 8/2007; “Về nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Lê Minh Hải, đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 4/2009; “Một số vướng mắc trong
quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự - Những kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí Tịa án nhân dân (TAND) số 02,
tháng 01/2010; “Một số vấn đề cần đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố
tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí TAND, số 11, tháng
6/2010; “Những vấn đề sửa đổi, bổ sung một số điều của Phần chung của Bộ
luật Tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường - ThS. Phan Thị Thu Hà,
Tạp chí TAND, số 23, 24, 25 tháng 12/2011…

4


Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu kể trên đã có đề cập đến quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS nói chung, một số cơng trình đã chỉ ra

được những nội dung cơ bản thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự được
quy định trong pháp luật TTDS hiện hành hoặc đi sâu tìm hiểu về một nội
dung nào đó của quyền tự định đoạt; một số cơng trình lại đề cập đến nội
dung quyền tự định đoạt của đương sự như là một phần của công trình nghiên
cứu nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình… Tuy nhiên, các
nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ quyền tự định của đương sự dưới góc độ
là một nguyên tắc của TTDS, hoặc tìm hiểu quyền tự định đoạt của đương sự
thông qua một số quyền tố tụng cụ thể và phần lớn còn nghiên cứu trong giai
đoạn Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 chưa được sửa đổi, bổ sung…
Với mong muốn tiếp cận, đi sâu tìm hiểu một cách tổng quát quyền tự
định đoạt của đương sự dưới dạng các quyền cụ thể trong phạm vi giải quyết
vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ
sung năm 2011 và tiếp cận một số sửa đổi cơ bản về vấn đề này của BLTTDS
năm 2015, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài của tác giả khơng trùng lặp với
các cơng trình khoa học đã được cơng bố có liên quan đến đề tài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận cơ bản về
quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự; các quy định
của Bộ luật TTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định
đoạt của đương sự trong giải quyết các vụ án dân sự; thực tiễn thực hiện các
quy định này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một vấn đề
lớn với nhiều nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn này, việc
nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi quyền tự định đoạt của đương sự
trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án

5


cấp phúc thẩm theo quy định của pháp luật hiện hành mà không nghiên cứu

về quyền tự định đoạt của đương sự trong thủ tục việc dân sự.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra,
để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp phân tích
hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê…
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung
các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện quyền tự định
đoạt của đương sự trong các vụ án dân sự tại Tòa án. Từ đó đưa ra một số giải
pháp nhằm hồn thiện quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các
quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nhằm
đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế.
Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn đã hoàn thành một số nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS;
- Nghiên cứu các quy định của Pháp luật TTDS Việt Nam có liên quan
tới quyền tự định đoạt của đương sự, tìm hiểu thực tiễn xét xử đảm bảo thực
hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Từ đó chỉ ra
những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS;
- Đề xuất một giải pháp nhằm góp phần hồn thiện những quy định về
quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.

6



6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ và
chuyên sâu về những vấn đề liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành nên có những điểm mới khoa học sau:
- Hoàn thiện khái niệm, làm rõ bản chất, ý nghĩa và cơ sở của quyền tự
định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự;
- Xác định nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật TTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 và
những điểm mới trong Bộ luật TTDS sửa đổi năm 2015;
- Đánh giá đúng thực trạng và thực tiễn thực hiện các quy định về
quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại các Tòa án
trong giai đoạn hiện nay.
- Chỉ ra được những điểm còn tồn tại và đề xuất một số kiến nghị về
việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của
đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.
Chương 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền tự
định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự và kiến nghị.

7



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong
giải quyết vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ
án dân sự
Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích
của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ
xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng
các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo
quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp.
Các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng
các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích đó như u cầu
người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu Tòa
án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ. Căn cứ Điều 2 Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014 thì Tịa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó, khi có
chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp
có vi phạm hoặc có tranh chấp thì Tịa án phải xem xét thụ lý giải quyết để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp
luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động do Tịa
án giải quyết được gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những việc có
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự; đối

8



với những việc khơng có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được
gọi là việc dân sự (Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Như vậy, đặc trưng của vụ án dân sự là có tranh chấp giữa các bên
tham gia quan hệ dân sự, đó là sự khơng thống nhất về việc thực hiện hay
không thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ của một trong hai bên khi tham gia các
quan hệ dân sự trong đời sống (mỗi bên có thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ
quan, tổ chức), trong đó một bên u cầu Tịa án buộc bên kia phải thực hiện
một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động.
Đương sự trong tố tụng dân sự là các chủ thể có quyền, lợi ích trong vụ
việc dân sự cần giải quyết. Đương sự trong vụ án dân sự có thể là cá nhân, cơ
quan hay tổ chức, bao gồm: nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến giải quyết vụ án.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) nói
chung và trong giải quyết vụ án dân sự nói riêng là một trong những quyền tố
tụng quan trọng của đương sự để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, quyền này cũng được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ
bản của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Quyền tự định đoạt của đương sự
được hình thành và bắt nguồn từ bản chất của các quan hệ dân sự được xác
lập trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện, cam kết và thỏa thuận. Trên cơ sở
đó, các bên hồn toàn tự nguyện khi tham gia quan hệ dân sự và khi có tranh
chấp phát sinh từ các quan hệ này thì các chủ thể hồn tồn có quyền quyết
định phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngay cả khi
quyết định phương thức yêu cầu Tịa án bảo vệ thì trong q trình giải quyết
vụ án dân sự tại Tòa án, các chủ thể này hay cịn được gọi là đương sự vẫn có
quyền tự định đoạt để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho mình.

9



Ở góc độ thuật ngữ thì “Quyền” là một khái niệm pháp lý dùng để chỉ
những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ
chức để theo đó mà cá nhân được hưởng, được làm, được địi hỏi mà khơng ai
được ngăn cản, hạn chế. Mặt khác, “Quyền” còn được hiểu là quyền năng mà
pháp luật thực định quy định cho mỗi chủ thể pháp luật, cho phép các chủ thể
đó làm một việc gì đó, u cầu hoặc ngăn cản người khác làm một việc gì đó
vì lợi ích của chính mình hoặc vì lợi ích người khác. Như vậy, có thể nhận
thấy, dấu hiệu đặc trưng của quyền là được ghi nhận về mặt pháp lý và được
bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật, đồng thời phải có sự thừa
nhận về mặt xã hội, gắn liền với các chủ thể và được thể hiện cụ thể trong
thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội nhất định. Đối với cá nhân, các
quyền cơ bản phát sinh và ghi nhận khi cá nhân phát triển đến một giai đoạn
nhất định, tham gia những quan hệ xã hội, những lĩnh vực hoạt động nhất
định.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “định đoạt” được hiểu là “quyết định dứt
khoát, dựa vào quyền hành tuyệt đối của mình” [47]. Theo Từ điển giải thích
thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, thì quyền tự định đoạt
của đương sự là “Quyền tố tụng dân sự của đương sự tự quyết định việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án… Trong tố tụng dân sự, đương
sự có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình; rút đơn khởi kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện; hịa
giải với đương sự phía bên kia” [48, tr.224]. Khi nói đến khái niệm “quyền”
thì nội hàm của nó đã bao hàm cả tính “tự định đoạt” của chủ thể có quyền,
nhưng khơng phải trong mọi trường hợp thuộc tính “tự định đoạt” cũng được
phản ánh đầy đủ trong phạm vi quyền. Chỉ trong các quan hệ dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thì quyền “tự định đoạt”
của chủ thể mới được sử dụng rộng rãi và sâu sắc.

10



Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương
sự. Trong quan hệ dân sự, quyền tự định đoạt của các chủ thể được coi là yếu
tố quan trọng hàng đầu, được biểu hiện ở việc các bên tự quyết định về quyền
lợi và nghĩa vụ của mình trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận. Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền
của đương sự trong việc tự quyết định việc tham gia tố tụng và thực hiện các
quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình tại Tịa án. Trong
suốt q trình tố tụng, các đương sự cũng có thể ủy quyền cho người khác
thực hiện một số hoặc tồn bộ quyền và nghĩa vụ của mình, nhưng quyền
quyết định cuối cùng vẫn thuộc về chính bản thân các đương sự. Khi có
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, việc khởi kiện hay không khởi kiện là
do đương sự tự quyết định. Sau khi khởi kiện có thay đổi nội dung khởi kiện
hay khơng, có thỏa thuận giải quyết việc kiện hay khơng hồn tồn phụ thuộc
vào ý chí của các đương sự. Điều đó có nghĩa, các đương sự hồn tồn có
quyền chủ động trong việc giải quyết các mâu thuẫn, các tranh chấp hoặc các
vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tịa án chỉ thụ lý
để giải quyết khi đương sự có đơn yêu cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự theo quy định của pháp luật.
Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự là quyền tự quyết định về phương tiện tố tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Các đương sự có quyền
lựa chọn các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của mình
thơng qua những hành vi cụ thể dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của chính bản
thân đương sự. Quyền này được thực hiện trong suốt q trình Tịa án giải
quyết vụ án nên nó có mối liên hệ trực tiếp đến hoạt động của Tịa án và ít
nhiều sẽ bị ảnh hưởng, bị chi phối bởi những quyết định của Tòa án. Tòa án cơ quan nhân danh quyền lực Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các

11



chủ thể có nghĩa vụ tơn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự và đảm
bảo cho các quyền này được thực thi trên thực tế.
Quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện sự tự do ý chí của đương sự
trong việc giải quyết tranh chấp, nhưng đương sự khơng được thể hiện ý chí
định đoạt một cách tùy tiện mà phải thực hiện trong khuôn khổ nhất định do
pháp luật quy định, sao cho không xâm phạm tới các quyền tố tụng và quyền,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác hoặc lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây gọi tắt là
BLTTDS) quy định về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, theo
đó:
Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, u cầu Tịa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết
vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và
chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau
một cách tự nguyện, khơng trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Quyền tự định đoạt của đương sự không phải là vô hạn định mà phải
được giới hạn bởi pháp luật, không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể
khác. Quyền tự định đoạt này phải đặt trong mối tương quan với nghĩa vụ của
đương sự với các chủ thể khác và phải được đặt trong mối quan hệ với trách
nhiệm của công dân đối với Nhà nước và xã hội.
Qua những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về quyền tự định
đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự như sau:
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một
quyền tố tụng được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, theo đó đương
sự thể hiện tự do ý chí của mình bằng việc tự mình lựa chọn quyết định các

12



hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự.
1.1.2. Ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
vụ án dân sự
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một
trong những quyền cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, nội dung mang tính
xun suốt tồn bộ quá trình tố tụng nhằm bảo đảm cho các đương sự có điều
kiện, bằng hành vi của mình, tự mình thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
tố tụng, trên cơ sở đó mà các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo
vệ và tôn trọng. Ngoài những ý nghĩa chung là bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa, là cơ sở để xây dựng và thực hiện các quy phạm khác của pháp luật
TTDS thì quyền tự định đoạt còn mang ý nghĩa riêng:
Thứ nhất, quyền tự định đoạt của đương sự có ý nghĩa quan trọng trong
việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khi tham gia vào các
quan hệ dân sự và xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, các chủ thể có thể thương
lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết hay quyết định việc có khởi kiện hay
khơng khởi kiện ra trước Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Pháp luật TTDS đã ghi nhận và bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng
hành vi của mình quyết định việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo đúng bản chất của quan hệ dân sự.
Thứ hai, bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự, quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự cịn có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong bảo
đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Điều 5 BLTTDS quy định: “Toà án
chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của
đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn u cầu đó”.
Như vậy, Tịa án giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự


13


và chỉ giải quyết trong phạm vi đương sự yêu cầu, tức là phụ thuộc vào ý chí
của đương sự, từ đó đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự.
Thứ ba, việc pháp luật tố tụng ghi nhận quyền tự định đoạt của đương
sự trong giải quyết vụ án dân sự đã tạo điều kiện cho đương sự quyết định
việc giải quyết tranh chấp. Thể hiện ở việc các chủ thể tham gia tố tụng có
quyền tự do định đoạt các quyền dân sự của mình nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp trước các vi phạm bằng việc khởi kiện hoặc rút đơn khởi kiện không
yêu cầu Tòa án giải quyết nữa hoặc các bên tự thỏa thuận, thương lượng với
nhau về việc giải quyết tranh chấp. Qua đó, góp phần làm giảm bớt áp lực giải
quyết các tranh chấp của Toà án, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được
nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí và thời gian của Tòa án và của đương sự.
Quyền tự định đoạt giúp đương sự quyết định phương thức giải quyết
vụ việc một cách thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả. Những tác dụng này có
ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định trật tự xã hội và giúp nhân dân chủ
động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự
trong Pháp luật tố tụng dân sự
Nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự, trước hết cần nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc pháp
luật quy định quyền tự định đoạt của đương sự.
1.2.1. Cơ sở lý luận
Trước khi tham gia vào một quan hệ tố tụng dân sự cụ thể thì các
đương sự chính là chủ thể của quan hệ dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động. Trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng này, các chủ
thể có các quyền dân sự nhất định và chỉ khi một trong các quyền dân sự của
chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó mới có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa
án bảo vệ. Như vậy, các quyền dân sự của chủ thể là cơ sở của quyền tố tụng


14


dân sự. Các quyền tố tụng của đương sự phải được thể hiện trong pháp luật
theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đương sự có thể bảo vệ được
quyền dân sự của mình khi tham gia tố tụng tại Tòa án.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có quan hệ mật
thiết với quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự
theo nghĩa rộng, là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong
quan hệ dân sự, có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Quyền
tự định đoạt của đương sự trong dân sự khởi nguồn từ các nguyên tắc:
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận (Điều 4 BLDS); nguyên tắc
tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự (Điều 9 BLDS); nguyên tắc hòa giải (Điều 12
BLDS). Trong TTDS, quyền tự định đoạt thể hiện ở khả năng tham gia tố
tụng, tự do định đoạt quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố
tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Từ phân tích trên có thể
thấy rằng quyền tự định đoạt trong TTDS là các quyền được quy định trong
các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh dựa trên các nguyên tắc
giao lưu dân sự trong pháp luật nội dung.
Mặt khác, quyền tự định đoạt được đặt ra do yêu cầu đảm bảo quyền
bảo vệ của đương sự. Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS: “Đương sự có
quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy
định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tịa án có
trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ”. Như
vậy, pháp luật cho phép đương sự có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình và tạo lập hành lang pháp lý giúp đương sự thực hiện tốt điều này.
Đương sự có quyền khởi kiện, u cầu Tịa án giải quyết vụ việc dân sự khi
quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Việc yêu cầu và thay đổi yêu cầu này
hồn tồn dựa trên ý chí của đương sự. Hơn nữa, để bảo đảm quyền tự bảo vệ

của đương sự, pháp luật cịn quy định trong q trình giải quyết vụ án dân sự

15


các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung u cầu… Nếu khơng có
quyền tự định đoạt trong TTDS thì sẽ khơng thể bảo đảm được ngun tắc
bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Bởi vậy, quy định về quyền tự định đoạt
của đương sự tại Điều 5 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, các quan hệ dân sự bao trùm lên tất cả các mặt của đời
sống xã hội nên các tranh chấp xảy ra cũng rất nhiều. Vì vậy, nếu Tòa án
muốn giải quyết các vấn đề phát sinh một cách nhanh chóng và kịp thời, nâng
cao hiệu quả cũng như sự tín nhiệm của nhân dân thì việc quy định quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS là việc làm cần thiết. Chính vì lẽ đó pháp
luật quy định cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức một số quyền lợi nhất định để
họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị người khác xâm
phạm. Cụ thể, đương sự (cơ quan, tổ chức, cá nhân) có quyền tự mình thực
hiện khởi kiện và yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự tùy vào tính chất của vụ
việc. Đây là một trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự, nhờ
vào quyền tự định đoạt mà đương sự được quyền chủ động trong việc khởi
kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dẫn tới vụ việc dân sự được giải quyết nhanh
chóng, đúng đắn, khách quan hơn.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Xã hội ngày càng phát triển dẫn đến phát sinh ngày càng nhiều quan hệ
dân sự và không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp
là một nhu cầu tất yếu và giải quyết tại Tòa án là một trong các phương thức
giải quyết tranh chấp chủ yếu. Xuất phát từ bản chất của các quan hệ pháp
luật dân sự là các bên có quyền tự định đoạt và căn cứ nhu cầu giải quyết kịp
thời, nhanh chóng các tranh chấp, pháp luật quy định đương sự có quyền tự
định đoạt trong tố tụng dân sự.

Về bản chất, các tranh chấp dân sự khơng mang tính chất nguy hiểm
như vi phạm quy phạm pháp luật hình sự và chưa đến mức bị coi là tội phạm.

16


Các tranh chấp trong dân sự là trách nhiệm giữa các công dân với nhau. Khi
các tranh chấp xảy ra, các đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của
mình, tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bằng cách yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự của mình. Việc khởi kiện hoặc yêu cầu nêu trên hồn
tồn dựa vào sự tự do ý chí của đương sự. Tòa án chỉ được giải quyết khi có
yêu cầu của đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì Tịa án cần
phải tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng kịp thời
để bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, do hiểu biết pháp luật của người dân cịn
hạn chế, khơng nhận biết được đầy đủ về quyền và lợi ích của mình khi có
tranh chấp phát sinh nên khơng có u cầu Tịa án bảo vệ, hoặc có biết nhưng
khơng đầy đủ dẫn đến việc u cầu khơng có cơ sở, khơng đầy đủ về mặt nội
dung… Mặt khác, từ phía Tòa án cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu sót
trong q trình thụ lý, giải quyết u cầu của đương sự như kéo dài thời gian
tố tụng, đưa ra quyết định giải quyết yêu cầu không đúng, vượt quá phạm vi
yêu cầu của đương sự… Vì vậy, việc quy định đương sự có quyền khởi kiện,
thay đổi, bổ sung, thậm chí là rút yêu cầu, đồng thời ghi nhận trách nhiệm của
Tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
vụ án dân sự là rất cần thiết, phù hợp với thực tiễn khách quan, bảo đảm được
tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Như vậy, khi áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về quyền tự
định đoạt của đương sự cần hiểu về quyền tự định đoạt đã được cụ thể hóa
trong nguyên tắc của pháp luật tố tụng dụng dân sự, đồng thời nguyên tắc này
xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định.

1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về
quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

17


Để có cái nhìn một cách hệ thống, tổng qt về quyền tự định đoạt của
đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu
quá trình hình thành và phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam là điều cần thiết. Có thể
chia thành các giai đoạn cụ thể như sau:
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, để kịp thời ổn định tình hình trật tự xã hội trong nước, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới trong đó có những văn bản
chứa đựng các quy phạm pháp luật TTDS như Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, cho phép áp dụng luật lệ
cũ để xét xử trong phạm vi cả nước, nếu những quy định trong luật lệ cũ
“không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Dân chủ
Cộng hịa”. Tiếp đó, tại Điều 3, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về Tổ
chức Tòa án và các ngạch thẩm phán quy định: “Ban tư pháp xã có quyền hịa
giải tất cả các việc dân sự và thương sự và nếu hòa giải thành sẽ lập biên bản
hịa giải, có các ủy viên và những người đương sự ký”. Sắc lệnh số 51/SL
ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền của Tịa án và sự phân cơng giữa các
nhân viên trong Tòa án, Điều 9 của Sắc lệnh quy định: “Khi nhận được đơn
kiện về dân sự hay thương sự, ơng thẩm phán sơ cấp phải địi hai bên đến để
thử hịa giải. Biện pháp hịa giải có hiệu lực từ chứng thư”. Sắc lệnh số
16/SL ngày 10/10/1945 quy định về tổ chức đồn thể luật sư có nêu: “Các
luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và
trước các Tòa án quân sự”. Đến năm 1950 nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số

85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng quy định:
“Tòa án nhân dân huyện họp thành hội đồng hòa giải để thử hòa giải tất cả
các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể cả việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà

18


theo luật pháp đương sự khơng có quyền điều đình” (Điều 9). Đồng thời Điều
10 Sắc lệnh số 85/SL cũng quy định:
Biên bản hịa giải là một cơng chứng chứng thư, có thể đem chấp
hành ngay. Tuy nhiên cho đến lúc biên bản hòa giải được chấp
hành xong, nếu Biện lý xét biên bản ấy phạm đến trật tự chung, thì
có quyền u cầu Tịa án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ
những điều mà hai bên đã thỏa thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày
tròn kể từ ngày phòng biện lý nhận được biên bản hòa giải thành.
Như vậy, trong thời kỳ này, ngoài những Sắc lệnh nói trên, hầu như
khơng có văn bản nào quy định và hướng dẫn cụ thể về các thủ tục tố tụng
dân sự, cũng như quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự. Pháp luật TTDS giai đoạn này tuy cịn mang tính tản mạn, nhưng trước
bối cảnh lịch sử của đất nước lúc bấy giờ khi vừa giành được độc lập, lại phải
chống thù trong, giặc ngoài, việc quy định như vậy đã là một sự cố gắng lớn,
thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến các vấn đề quan trọng của xã hội,
trong đó có những quy định của pháp luật liên quan đến quyền của đương sự
trong giải quyết các vụ án dân sự, hơn nhân và gia đình. Đồng thời, đặt nền
móng cho việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật TTDS, trong đó có
cả quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở các giai
đoạn sau này.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1989
Năm 1954, miền Bắc hồn tồn giải phóng, Nhà nước ta đã ban hành
một loạt những văn bản pháp luật mới nhằm chấm dứt việc áp dụng các văn

bản cũ từ trước năm 1945 đồng thời củng cố, tăng cường vai trị, vị trí của
Tịa án nhân dân (tách Tòa án ra khỏi Bộ Tư pháp) cho phù hợp với tình hình
mới. Các văn bản đó là: Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức TAND năm 1960,
Luật Tổ chức VKSND năm 1960, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959.

19


×