Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thủ tục thi hành án dân sự trong pháp luật thi hành án dân sự việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

BÙI THỊ VÂN ANH

THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRONG
PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

BÙI THỊ VÂN ANH

THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền

Hà Nội- 2016


ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Bùi Thị Vân Anh

iii


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ ................................................................................................................. 1
1.1.Khái niệm và đặc điểm của thủ tục thi hành án dân sự ................................ 1

1.2.Cơ sở khoa học của việc xây dựng thủ tục thi hành án dân sự ..................... 6
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật THADS về thủ tục thi hành
án ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. ..................... 7
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của thủ tục thi hành án dân sự .........18
1.5. Khái quát về thủ tục thi hành án theo pháp luật một số nước trên Thế giới
và kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam. ..........................................................23
CHƢƠNG 2 - THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH .....................................................................33
2.1. Thủ tục thi hành án dân sự theo đơn yêu cầu ............................................33
2.2. Thủ tục thi hành án dân sự chủ động ........................................................42
2.3. Thủ tục xác minh thi hành án dân sự ........................................................46
2.4. Ủy thác thi hành án dân sự.........................................................................52
2.5. Một số quyết định phát sinh trong quá trình THADS ..............................55
2.5.1. Thủ tục ra quyết định hỗn thi hành án dân sự .......................................... 55
2.5.2. Thủ tục ra quyết định tạm đình chỉ THADS............................................. 60

iv


2.5.3. Thủ tục ra quyết định đình chỉ THADS ..................................................... 62
CHƢƠNG 3 - THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT
NAM ....................................................................................................................68
3.1. Thực tiễn áp dụng thủ tục thi hành án dân sự ............................................68
3.1.1. Những kết quả đạt được từ khi thực hiện pháp luật về thủ tục THADS
theo Luật THADS năm 2008 đến trước ngày 1/7/2015 ...................................... 68
3.1.2. Những hạn chế, bất cập về thủ tục THADS còn tồn tại ......................... 72
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong công tác THADS ...... 82
3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về thủ tục THADS ở Việt Nam. ...85
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự ở Việt

Nam hiện nay ....................................................................................................87
3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục thi hành án trên
thực tiễn hiện nay ..............................................................................................89
KẾT LUẬN .........................................................................................................94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................96

v


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BLTTDS 2004

Bộ luật Tố Tụng dân sự năm 2004

Luật THADS 2008

Luật Thi hành án dân sự năm 2008

Luật sửa đổi, bổ sung

Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự 2008

PLTHADS 2004

Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004

PLTHADS 1993

Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993


PLTHADS 1989

Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989

THA

Thi hành án

THADS

Thi hành án dân sự

CQTHADS

Cơ quan thi hành án dân sự

CHV

Chấp hành viên

UBND

Ủy ban Nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

TAND


Tòa án nhân dân

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

BA, QĐ

Bản án, Quyết định

Bản án, quyết định dân sự của Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh (Gọi tắt là BA, QĐ có hiệu lực thi hành).

vi


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thi hành án là một trong những hoạt động thể hiện sự nghiêm minh của
pháp luật, tính uy nghiêm của Nhà nước. Hoạt động thi hành án là hoạt động đưa
các bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực
tế. Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành
nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lịng tin của nhân dân đối với pháp luật.
Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ
vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Để đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngồi
chức năng của cơ quan Cơng an, Viện kiểm sát, Tịa án thì cơ quan THADS giữ
một vai trị đặc biệt và là một mắt xích khơng thể thiếu của quá trình tố tụng.

Mọi phán quyết của Tòa án chỉ là những quyết định trên giấy và không thể phát
huy hết hiệu quả trên thực tế nếu không được thi hành đúng và đầy đủ, nhất là
trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, khi nước ta đang xây
dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vô số các quan hệ
giao dịch được phát sinh dẫn đến các tranh chấp cũng nhiều hơn, số lượng công
việc mà các cơ quan Tư pháp phải giải quyết vì thế cũng ngày càng tăng, và tính
chất cũng phức tạp hơn. Đòi hỏi tất yếu đặt ra là các cơ quan Tư pháp nói chung
và cơ quan THADS nói riêng phải hoạt động sao cho đạt hiệu quả cao nhất nhằm
đảm bảo pháp luật được thực thi, xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Luật Thi hành án dân sự (THADS) được Quốc hội thông qua ngày
14/11/2008 và có hiệu lực thi hành ngày 1/7/2009 là cơ sở pháp lý quan trọng
cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Qua 05 năm thi hành luật, công tác
thi hành án dân sự đã từng bước đi vào nề nếp và có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, quá trình thi hành luật cũng cho thấy nhiều nội dung, quy định của
luật khơng cịn phù hợp với thực tiễn, tạo ra trở lực cho quá trình thi hành án và
chưa thực sự đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Vì vậy, dự thảo
luật THADS ban hành ngày 21/2/2014 đã được lấy ý kiến sâu rộng từ nhân dân,
vii


và được Quốc hội biểu quyết thông qua vào ngày 25/11/2014. Luật sửa đổi, bổ
sung Luật thi hành án dân sự 2008 đã có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015, có nhiều
điểm mới về thủ tục THADS.
Đổi mới hoạt động THA nói chung và nâng cao hiệu quả đối với THADS
nói riêng là một nội dung quan trọng của cơng cuộc cải cách tư pháp được ghi
nhận trong nhiều văn bản như: Nghị quyết Trung Ương 8 khóa VII, Nghị quyết
Trung ương 3 Khóa VIII, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng qua các kì họp, đặc
biệt Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 của Bộ Chính trị

ngày 24/5/2005, Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị “Về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Chính vì lẽ đó mà tác giả lựa chọn
đề tài “Thủ tục Thi hành án dân sự trong pháp luật thi hành án dân sự Việt
Nam hiện nay” để nghiên cứu. Bởi lẽ đây là vấn đề đang được thu hút được
đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm - việc sửa đổi, bổ sung luật THADS
2008 nói chung, thủ tục THADS nói riêng khơng những nằm trong chiến lược
cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020 mà cịn nằm trong
chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020, trọng tâm là cải
cách thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, cũng dựa trên kinh nghiệm thực tế làm
việc tại cơ quan tiến hành tố tụng (Viện kiểm sát) của bản thân với công tác kiểm
sát thi hành án dân sự, tác giả hiểu rằng, muốn tiến tới mục tiêu giảm án dân sự
tồn đọng, nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự thì việc hoàn thiện pháp luật về
thủ tục THADS là một yêu cầu khách quan và tất yếu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi Luật THADS ra đời, THADS cũng đã được quan tâm nghiên
cứu trong các cơng trình như Luận văn thạc sỹ “Đổi mới thủ tục THADS ở Việt
Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn năm 2004; Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện pháp
luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy năm 2001... Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường, Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật THADS
của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004, Cơng trình nghiên cứu khoa học
cấp bộ, Bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, của Viện khoa học pháp
lý - Bộ tư pháp năm 2006…và rất nhiều cơng trình nghiên cứu khác.

viii


Từ khi Luật THADS năm 2008 có hiệu lực pháp luật đến nay, việc nghiên
cứu về THADS đã được quan tâm đáng kể hơn nữa. Năm 2011 có Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trường về “Những điểm mới của Luật THADS năm 2008” của
trường Đại học Luật Hà Nội do Tiến sỹ Bùi Thị Huyền chủ nhiệm. Ngoài ra trên

sách báo pháp lý, các diễn đàn pháp luật từ 2009 đến nay cũng có rất nhiều bài
nghiên cứu, trao đổi về THADS, trong đó có thủ tục THADS. Cũng có thể kể
đến những nghiên cứu khác như cuốn sách tham khảo “Một số vấn đề về hoàn
thiện pháp luật Thi hành án dân sự Việt Nam” – tác giả Tiến sỹ Lê Thu Hà – học
viện Tư Pháp viết, xuất bản năm 2011, hay các bài viết trên tạp chí Dân chủ và
pháp luật số chuyên đề về thi hành án dân sự các tháng 2/2012, tháng 4/2012,
tháng 12/2012, tháng 03/2014; số chuyên đề tháng 6/2012 về thi hành án dân sự
tồn đọng; số chuyên đề tháng 12/2013 về thực hiện Luật THADS

… và rất

nhiều các bài viết khác trong các sách báo, tạp chí nghiên cứu về thủ tục THADS
như Tạp chí Nghề Luật của Học viện Tư pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,…
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp, Bộ tư pháp đã ban hành
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự. Luật đã được Quốc hội thảo luận,
cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2014) và được biểu quyết thông qua vào kỳ
họp thứ 8 ngày 25/11/2014, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015 vừa qua.
Trên cơ sở các nghiên cứu trước đó, luận văn của tác giả nghiên cứu sâu
hơn về một số thủ tục THADS, với việc đưa ra khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa,
quá trình hình thành và phát triển qua các thời kì của thủ tục THADS; tìm hiểu
thủ tục THADS theo quy định một số nước trên Thế giới và đặc biệt là phân tích,
đánh giá thực trạng áp dụng thủ tục THADS từ khi Luật THADS 2008 ra đời
cho đến nay, chỉ ra những bất cập, đề xuất những đóng góp cho q trình sửa
đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự hiện nay.
3.

Mục tiêu nghiên cứu
Dựa trên kết quả nghiên cứu, mục tiêu của Luận văn là phân tích, đánh

giá một số thủ tục THADS, nêu ra những hạn chế, bất cập và đề xuất quan điểm

hoàn thiện pháp luật về thủ tục THADS:
- Phân tích được những vấn đề lý luận và thực tiễn của thủ tục THADS ở Việt
Nam.
ix


- Đánh giá đúng thực trạng, hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện
thủ tục THADS ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra các quan điểm cá nhân đánh giá Luật sửa đổi, bổ sung Luật
THADS năm 2014 cũng như đề xuất các giải pháp có tính khả thi cao nhằm bảo
đảm việc thực thi pháp luật thi hành án, nâng cao hiệu quả cơng tác thi hành án
dân sự.
4.

Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đánh giá đúng thực trạng, hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện

thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra các quan điểm cá nhân về việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về
thủ tục THADS, góp ý về một số vấn đề liên quan đến thủ tục thi hành án trong
Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS năm 2008; cũng như đề xuất các giải pháp
có tính khả thi cao nhằm bảo đảm việc thực thi pháp luật THADS, nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án dân sự.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1 . Đối tƣợng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu những vấn đề chung về thủ tục THADS, thực tiễn áp
dụng thủ tục THADS tại các địa phương hiện nay và đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật; đưa ra các kiến nghị, đóng góp để nâng cao hiệu quả công tác
THADS.
5.2. Phạm vi:

Thủ tục THADS bao gồm rất nhiều thủ tục khác nhau, cho nên phạm vi
của đề tài rất rộng, với phạm vi của một luận văn thạc sỹ, tác giả khơng đi sâu
vào tìm hiểu hết tất cả các thủ tục THADS mà chỉ đi sâu vào một số thủ tục cụ
thể, nổi bật theo Luật THADS năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Đó
là các thủ tục: Thủ tục ra quyết định thi hành án theo đơn (bao gồm cấp, chuyển
giao bản án, thủ tục nhận, từ chối đơn yêu cầu, và ra quyết định THA) và thủ tục
thi hành án chủ động của CQTHADS; Thủ tục xác minh THA; Thủ tục ủy thác

x


THA; Các quyết định phát sinh trong quá trình THADS: thủ tục ra quyết định
hỗn; đình chỉ; tạm đình chỉ. Luận văn không nghiên cứu về thủ tục áp dụng các
biện pháp cưỡng chế bảo đảm THADS.
6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận văn bám sát việc phân tích các thủ tục thi
hành án dân sự theo Luật THADS năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm
2014, và những hạn chế, vướng mắc trong công tác THADS để từ đó đề xuất các
phương hướng, quan điểm cá nhân trong việc hoàn thiện pháp luật THADS.
6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mac – Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đường lối
chính sách của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, tác giả
cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp phân
tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp và một số phương pháp luận khác để lựa chọn
những vấn đề cần thiết đưa vào nội dung nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1 – Những vấn đề chung về thủ tục thi hành án dân sự
Chương 2 – Thủ tục thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật

hiện hành
Chương 3 – Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật
về thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam

xi


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục thi hành án dân sự
Trước khi tìm hiểu khái niệm thủ tục thi hành án cần làm rõ các khái niệm sau:
“Thủ tục” – xét về mặt ngôn ngữ có nghĩa “những việc cụ thể phải làm
theo một trình tự đã được quy định, để tiến hành một công việc có tính chất
chính thức” [14, tr.905]. Trình tự là “sự sắp xếp thứ tự trước sau” [14, tr.934].
Qua đó, có thể hiểu khái niệm thủ tục là phải thực hiện một công việc nhất định
theo những quy định cụ thể được sắp xếp theo trình tự nhất định. Cịn “thi hành”
là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [15, tr. 1559].
Trong khoa học pháp lý, “thi hành án” được hiểu là việc đưa các bản án,
quyết định của tịa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Bản án,
quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên
tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và
gia đình, lao động, kinh tế, hành chính... Có thể nói, thi hành án được coi là một
trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước. Bởi lẽ, thi hành án một mặt
bảo đảm việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, mặt khác lại là công cụ hữu
hiệu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân khi khi bị xâm
hại. Trong các công trình nghiên cứu khoa học về thi hành án, có rất nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm thi hành án:
Có quan điểm xem thi hành án là một giai đoạn tố tụng, đây là giai đoạn
tiếp theo của quá trình xét xử khơng thể thiếu trong q trình bảo vệ quyền lợi
của đương sự. Quan điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn kết thúc của tố tụng

mà trong đó cơ quan thi hành án đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi
hành ra thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức [25, tr.
86].
Có quan điểm lại cho rằng thi hành án không phải là một thủ tục tố tụng mà
là một hoạt động mang tính chấp hành và điều hành quyết định của tòa án – cơ
quan tư pháp – mang tính chất của hoạt động quản lý hành chính – tư pháp…
Thi hành án khơng mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai
đoạn mang tính hành chính - tư pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố

1


tụng và quá trình thực hiện thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc
thù mà chủ thể thực thi khơng phải là Tịa án. Các thủ tục trong q trình thi
hành án mang nặng tính hành chính - tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án
kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án
hình sự đối với loại hình phạt khơng phải là hình phạt tù...) [28, tr. 12].
Quan điểm của tác giả đồng nhất với quan điểm cho rằng thi hành án là
một thủ tục tố tụng tư pháp:“Thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp do cơ quan,
tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành để thi hành bản án, quyết định của Tòa
án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước, tổ chức khác do pháp luật quy định,
nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cả các cơ quan,
tổ chức và cá nhân.” [25, tr14].
Thi hành án bao gồm thi hành án hình sự và thi hành án dân sự, trong phạm
vi nghiên cứu của Luận văn về thủ tục thi hành án dân sự, các quan điểm trên về
thi hành án đều có những điểm hợp lý, song dù theo quan điểm nào thì thủ tục
THADS đều có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, thủ tục thi hành án dân sự là cách thức, trình tự tổ chức thi hành
BA, QĐ dân sự có hiệu lực thi hành được pháp luật quy định, bao gồm nhiều thủ
tục khác nhau.

Thủ tục THADS do pháp luật quy định, Chấp hành viên cũng khơng được
đặt ra trình tự, thủ tục và khơng tùy tiện trong q trình tổ chức thực hiện THA
mà phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Q trình THADS thực hiện
thơng qua nhiều thủ tục và theo một trình tự nhất định. Thủ tục THA bao gồm
nhiều bước để đưa một bản án, quyết định của Tòa án ra thi hành.
Đầu tiên là thủ tục cấp, chuyển giao BA, QĐ của Tòa án cho đương sự và
CQTHADS để thi hành; cùng với đó là thủ tục gửi và giải thích BA, QĐ của Tịa
án nhằm mục đích để các cơ quan thực thi pháp luật có cách hiểu thống nhất đối
với các BA, QĐ đảm bảo cho việc CQTHA thực thi đúng bản chất của sự việc,
đúng pháp luật, đúng phán quyết của Tòa án và các cơ quan khác. Tiếp theo đến
thủ tục yêu cầu THA của đương sự, nộp đơn yêu cầu THA, thủ tục nhận hoặc từ
chối nhận đơn của CQTHADS. Và bước quan trọng là thủ tục ra quyết định
THA của thủ trưởng CQTHADS, trong quá trình THA có thể phát sinh các thủ
tục như hỗn, tạm đình chỉ, đình chỉ THA, trả lại đơn yêu cầu THA, xác minh

2


THA… cho đến chuyển giao quyền và nghĩa vụ THA, nộp phí thi hành án,
cưỡng chế thi hành án… rồi cuối cùng kết thúc THA. Trong quá trình THADS, ở
mỗi giai đoạn thực hiện từng thủ tục là khác nhau và các thủ tục này liên kết tồn
bộ q trình thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, có những
thủ tục khơng phải thực hiện hoặc có những thủ tục phải thực hiện ngay ở giai
đoạn đầu, giữa hoặc sau khi đã thi hành xong việc thi hành án, ví dụ như thủ tục
giải quyết khiếu nại hoặc thực hiện kháng nghị của Viện kiểm sát.
Thứ hai, thủ tục thi hành án dân sự là thủ tục nhằm thi hành phán quyết
của các cơ quan như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Thi
hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, xét xử chính là tiền đề của thi hành
án dân sự. Hoạt động thi hành án lệ thuộc và chịu sự chi phối của hoạt động xét
xử, bởi lẽ thi hành án được tiến hành dựa trên BA, QĐ đã có hiệu lực pháp luật

của Tịa án, trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Nói cách khác, căn cứ
pháp lý để thi hành án là bản án, quyết định của các cơ quan nói trên đã có hiệu
lực pháp luật. Ngược lại, THADS tiếp nối với xét xử làm cho BA, QĐ được thực
hiện trên thực tế. Sau khi có bản án, quyết định của tòa án, trọng tài, hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh trên cơ sở của bản án, quyết định do Tòa án và các cơ quan
này chuyển giao hoặc đơn yêu cầu THA của đương sự, CQTHADS ra quyết định
thi hành và thụ lý, tổ chức việc thực hiện thi hành án. THADS là giai đoạn kế
tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố
tụng trước đó (ví dụ: việc thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Tồ án;
trong q trình thi hành án, Chánh án Tồ án, Viện trưởng Viện kiểm sát có
thẩm quyền u cầu CQTHA hỗn việc THA, quyết định tạm đình chỉ THA để
xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm...). Tuy nhiên,
THA lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu
bằng quyết định của Thủ trưởng CQTHADS đối với THADS. Những quyết định
này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và
nghĩa vụ liên quan đến việc THA. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi
trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành
án đạt hiệu quả. Nhằm bảo đảm hiệu lực thi hành của các bản án, quyết định của
các cơ quan Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, hiện nay,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này được quy định tại các Điều từ Điều

3


465 đến Điều 467 Bộ Luật TTDS năm 2015, Điều 66, 67 Luật trọng tài thương
mại, từ Điều 134 đến Điều 135 NĐ số 116/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật cạnh tranh và các Điều 26, 27, 28, 48, 49 và 179 Luật THADS
đã được sửa đổi, bổ sung.
Với ý nghĩa có mối quan hệ hữu cơ, mật thiết với giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử - thi hành án nhằm thi hành phán quyết của các cơ quan như

Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Cụ thể, khoản 2 Điều 121
Luật cạnh tranh năm 2004 quy định“Trường hợp quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành thì bên được thi hành có
quyền u cầu cơ quan THADS tỉnh, TP trực thuộc Trung ương nơi có trụ sở,
nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải THA tổ chức thực hiện quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh”. Đối với việc thi hành quyết định của Trọng tài thương
mại cũng được quy định tại Điều 66, 67 Luật Trọng tài thương mại năm 2010:
“Phán quyết của trọng tài được thi hành theo quy định của Pháp luật về
THADS”. Như vậy, nếu mục đích của thi hành án khơng đạt được thì tồn bộ
hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa.
Nếu như một bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật khơng được thi
hành hoặc thi hành khơng nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền
lực Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản
án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý
Nhà nước.
Thứ ba, thủ tục thi hành án dân sự do cơ quan, tổ chức thi hành án thực hiện.
Mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối vào giai đoạn xét xử, nhưng THA
cũng mang tính độc lập, đây là đặc trưng của hoạt động tư pháp. Ở giai đoạn
THA, tính chất tố tụng đã chấm dứt, bởi vì khi BA, QĐ của Tịa án đã có hiệu
lực pháp luật thì có nghĩa là chức năng xét xử đã hồn thành, có tội hay vơ tội,
đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng. Để đảm bảo hiệu quả của THADS thì
CQTHADS và chấp hành viên phải thực hiện thủ tục THA một cách độc lập và
không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp trái pháp luật vào quá trình
thi hành án dân sự. Cơ quan, tổ chức THA phải tuân thủ đúng thủ tục THA trong
quá trình tổ chức việc THA.

4


Bên cạnh đó, cơ sở của hoạt động thi hành án là các BA, QĐ có hiệu lực thi

hành; các cơ quan tham gia vào quá trình THA chủ yếu là cơ quan tư pháp. Tuy
nhiên, các bản án, quyết định do các cơ quan như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh sau khi được tuyên sẽ được CQTHADS thi hành. Các nước
trên thế giới có các mơ hình khác nhau về cơ quan, tổ chức thi hành án. Ở Việt
Nam, ngoài cơ quan thi hành án dân sự của Nhà nước cịn có tổ chức Thừa phát
lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và hiện nay nhân rộng ra phạm
vi cả nước theo nghị quyết số 107 ngày 26/11/2015, thì một số thủ tục THADS
do văn phòng thừa phát lại thực hiện như: Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu
của Tòa án hoặc CQTHADS; lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức; xác minh điều kiện THA theo yêu cầu của đương sự; trực tiếp tổ chức
THA các BA, QĐ của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ
chức THA các BA, QĐ thuộc diện Thủ trưởng CQTHADS chủ động ra quyết
định THA.
Tịa án có trách nhiệm gửi bản án, quyết định tới CQTHADS và Viện kiểm
sát cùng cấp với Tòa án đã xét sử sơ thẩm. Thủ tục THA do CQTHADS thực
hiện từ việc ra quyết định thi hành án, hỗn, tạm đình chỉ, đình chỉ THA, việc
cưỡng chế THA,… cho đến việc trả lại đơn yêu cầu THA, và quyết định kết thúc
THA. Cơ quan THA là cơ quan chuyên trách để thực thi các BA, QĐ có hiệu lực
thi hành trên thực tế. Việc ra quyết định THA để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ
của đương sự do Thủ trưởng CQTHADS đảm nhiệm. Trước đây, PLTHADS
1989, việc ra quyết định THA còn do chánh án Tòa án sơ thẩm xét xử vụ án,
điều này dẫn đến việc chồng chéo và gánh nặng cho Tòa án, từ PLTHADS năm
1993, PLTHADS năm 2004 và Luật THADS năm 2008 hiện nay, việc THA chỉ
do cơ quan chuyên trách thi hành án thực hiện, đảm bảo tính cơng bằng, khách
quan.
Như vậy qua những đặc điểm đặc trưng của thủ tục THA, chúng ta có thể
rút ra khái niệm về thủ tục thi hành án như sau: Thủ tục thi hành án dân sự là
trình tự thi hành các bản án, quyết định về dân sự, hơn nhân và gia đình, lao
động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định về hình sự, hành chính và
quyết định khác do Cơ quan, tổ chức thi hành án dân sự thực hiện theo qui định

pháp luật.

5


1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng thủ tục thi hành án dân sự
Thứ nhất, thủ tục THADS là cơ sở pháp lý đảm bảo thi hành BA, QĐ có
hiệu lực thi hành và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Kết quả của quá trình xét xử là giải quyết các tranh chấp và đưa ra các
BA, QĐ có hiệu lực thi hành. Nhưng những bản án, quyết định đó, nếu khơng
được đưa ra thi hành thì chỉ là những phán quyết trên giấy tờ, khơng có giá trị
pháp lý ràng buộc các bên trong quan hệ THADS, khơng đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp cho các đương sự. Cho nên, pháp luật quy định về thủ tục THADS
là cần thiết và đảm bảo cho việc thực thi các bản án, quyết định trên thực tế, thể
hiện sự tơn trọng các phán quyết của Tịa án, sự nghiêm minh của pháp luật. Vì
nếu khơng thực thi các phán quyết trên thực tế thì quá trình xét xử, giải quyết
của Tòa án, Trọng tài cũng như Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh là vô nghĩa.
Thứ hai, thủ tục thi hành án còn là cơ sở bảo đảm cho hoạt động THA
được tuân thủ đúng pháp luật.
Thủ tục thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm việc
thi hành án của chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự theo đúng
pháp luật, hạn chế tình trạng lạm quyền để thi hành những bản án, quyết định
không thuộc thẩm quyền thi hành của mình, đồng thời ngăn chặn việc cơ quan
thi hành án dân sự từ chối, đùn đẩy trách nhiệm thi hành những bản án, quyết
định mà cơ quan mình có trách nhiệm phải thi hành. Bên cạnh đó, việc luật hóa
các thủ tục thi hành án trong pháp luật THADS còn là cơ sở pháp lý cho chấp
hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án căn cứ vào đó để thực hiện, bảo vệ q
trình thi hành án, bảo vệ quan điểm cũng như uy tín, danh dự của chính mình.
Nếu làm được như vậy mới tạo được niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào pháp
luật, vào Nhà nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam.

Thứ ba, thủ tục THADS cơ sở bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự.
Q trình thi hành án nhằm khơi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ THA cũng được quy định chặt
chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến
quyền con người, quyền công dân. Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với những người
tiến hành các trình tự, thủ tục thi hành án, kể cả CHV trong THADS là phải độc

6


lập và tuân theo pháp luật để bảo đảm duy trì sự thật trong bản án, quyết định
của Tịa án và tiến tới đạt được sự thật trên thực tế; nếu khơng độc lập và chỉ
tn theo pháp luật thì giá trị sự thật mà BA, QĐ dân sự có hiệu lực đã xác định
sẽ khơng cịn ngun nghĩa của nó, trừ trường hợp các đương sự có sự thỏa
thuận tự nguyện khác trong quá trình thi hành án.
Việc thực hiện THA đúng thủ tục do pháp luật quy định, bảo đảm bản án,
quyết định có hiệu lực thi hành theo thủ tục THADS kịp thời thì lợi ích của cá
nhân và cộng đồng được sẽ bảo vệ, kỉ cương phép nước được tôn trọng, trật tự
xã hội được củng cố. Thủ tục thi hành án dân sự không được quy định hoặc quy
định không rõ ràng, thiếu khoa học sẽ khơng có căn cứ pháp lý hoặc dẫn đến áp
dụng pháp luật không đúng, không đầy đủ, làm phức tạp q trình thi hành án,
gây tốn kém kinh phí, không đáp ứng kịp thời hoặc không bảo đảm được lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
1.3. Lƣợc sử hình thành và phát triển của pháp luật thi hành án dân sự về
thủ tục thi hành án ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến
nay.
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1980
Giai đoạn từ 1945 – 1950, các văn bản pháp luật liên quan đến thủ tục
THADS ở giai đoạn này có thể kể đến như Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ

tịch Hồ Chí Minh “Về việc cho tạm thời giữ các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung
và Nam” nếu những luật lệ ấy không trái với các nguyên tắc độc lập của Nhà
nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hịa, Nghị định số 37 ngày 01/12/1945
về “Tổ chức Bộ Tư pháp”, Sắc lệnh số 13 ngày 20/11/1946 của Chủ tịch Chính
phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hòa về “Tổ chức các Tòa án và các ngạch
thẩm phán”. Những văn bản pháp luật này đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho tổ
chức THADS Việt Nam. Sắc lệnh quy định Ban Tư pháp xã có quyền “thi hành
những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên” bao gồm các BA, QĐ của Tòa án.
Đối với việc THA, Chưởng lý và Biện lý có thẩm quyền giám sát việc THA. Tại
điều 3 của Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hịa đã quy định: “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố, Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh
hoặc án của các Tòa án. Bản án ấy sẽ tuỳ từng việc, chỉ định một nhân viên để

7


giao cho việc thi hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án ở những nơi nào đã có Thừa
phát lại riêng, thì đương sự có quyền nhờ thừa phát lại riêng thi hành mệnh
lệnh”. Tiếp đó, thơng tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ Tư pháp về việc thi
hành các án hình và hộ, đoạn 4 cũng quy định rõ: “Mỗi khi có trở lực trong việc
chấp hành, ơng Biện lý có bổn phận can thiệp để tỏ rõ nhiệm vụ làm cho pháp
luật được tôn trọng.”
Như vậy, theo các văn bản này thì THADS ở nước ta giai đoạn này tồn
tại dưới hai hình thức là: Thừa phát lại và ban Tư pháp xã. Theo đó, thủ tục THA
được quy định bằng những nguyên tắc, thể thức chấp hành các BA, QĐ của Tịa
án, theo Thơng tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thì thủ
tục THA nước ta thời này bao gồm:
Về nguyên tắc chấp hành: người đương sự được kiện, muốn chấp hành
bản án của mình phải xin ở phịng lục sự một bản trích lục hoặc toàn sao bản án

ấy. Nhưng việc chấp hành vẫn chịu quyền giám thị của chưởng lý và biện lý.
Bản thân lục sự của Tòa án phải tự động gửi bản sao bản án cho người đương sự
biết và thi hành.
Về thể thức thi hành: trong các bản trích lục hoặc bản sao được phòng lục
sự cấp cho đương sự, bên dưới phải được lục sự ký: "thừa lệnh Tòa án". Bên chữ
ký của lục sự phải có chữ ký của thẩm phán cơng tố viên "duyệt". Đó là những
bản sao có thể thức chấp hành. Bản sao này chỉ được cấp có một lần. Nhưng
trong trường hợp đặc biệt, ví dụ: đánh mất bản sao có thể thức chấp hành, Chánh
án có thể ra mệnh lệnh cho phép phịng lục sự cấp một bản tồn sao khác có thể
thức chấp hành. Vị chưởng lý và biện lý có nhiệm vụ kiểm soát những thể thức
chấp hành này.
Về cách thức thi hành: pháp luật đặt ra những công lại riêng để thi hành
các án hộ và thương mại, được gọi là các thừa phát lại. Tuy nhiên, thừa phát lại
trước năm 1945 là lý trưởng, thì nay trong tổ chức tư pháp mới là tư pháp xã.
Chức năng này của ban tư pháp xã đã được quy định chính thức trong Sắc lệnh
số 13, ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Khi cần
thiết, các vị chỉ huy binh lực sẽ can thiệp vào việc thi hành án.
Giai đoạn từ 1950 – 1980, tổ chức và hoạt động THADS có sự thay đổi
mang tính chất bước ngoặt kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh

8


số 85/SL ngày 22/5/1950 về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”. Theo
quy định tại điều Điều 19 của Sắc lệnh thì: Thẩm phán huyện dưới sự kiểm sốt
của Biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay
bồi hồn và các án hộ, mà chính Tồ án huyện hoặc Tồ án trên đã tuyên. Việc
phát mại bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do Toà án huyện phụ
trách. Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác ở nhiều huyện khác nhau
thì Biện lý sẽ chỉ định một Thẩm phán huyện để việc phát mại đó vừa có lợi cho

chủ nợ lẫn người mắc nợ.
Như vậy, việc THADS không do Thừa phát lại và Ban Tư pháp thực
hiện nữa mà được thay thế bằng Thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Chánh án Tòa án. Thủ tục THADS cũng từ việc căn cứ vào đơn yêu cầu của
đương sự trở thành trách nhiệm của Nhà nước, Tịa án chủ động THADS mà
khơng chờ u cầu của người được THA.
Việc THADS trong giai đoạn này do nhân viên chấp hành án thực hiện
theo thủ tục do pháp luật quy định (Theo Điều 24, Hiến pháp 1959, Luật tổ chức
Tòa án nhân dân 1960). Ngày 13/10/1972, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra
Quyết định số 186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên. Từ
đó, tên gọi “chấp hành viên” ra đời thay cho“nhân viên chấp hành án”để làm
nhiệm vụ THADS theo Thông tư số 187/TC hướng dẫn thi hành Quyết định số
186/TC do Tòa án nhân dân tối cao ban hành. CHV được đặt tại Tòa án, dưới sự
quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Chánh án Tịa án.
Thơng tư số 443-TC ngày 04/7/1968 của TANDTC về việc đẩy mạnh
công tác THA đã xác định nhiệm vụ của chính quyền cấp xã là giáo dục, theo
dõi, đôn đốc đương sự tự nguyện THA, giúp tịa án điều tra nắm tình hình trong
quá trình THA. TANDTC cũng đã ban hành Điều lệ tạm thời về công tác THA
(kèm theo công văn số 827/CV ngày 23/10/1979) quy định khá chi tiết, cụ thể về
trình tự, thủ tục THA. Tại Điều 6 của bản Điều lệ nêu trên có quy định: "Khi bản
án hoặc quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc theo pháp luật
phải chấp hành khẩn cấp, Tịa án đã xét xử bản án đó phải trích lục án cho CHV
nơi phải chấp hành án và VKSND cùng cấp chậm nhất là trong ba ngày... Sau
khi nhận được trích lục bản án, chậm nhất là ba ngày CHV phải tống đạt trích
lục án cho những người phải chấp hành án, những người được chấp hành án và

9


những người có quyền lợi liên quan; hướng dẫn cho họ cách tự nguyện chấp

hành án và ấn định cho họ một thời gian để họ tự nguyện thi hành".
Có thể thấy, trong giai đoạn này, thủ tục THADS đã được quy định khá
cụ thể, khẳng định trách nhiệm chủ động của Nhà nước đối với việc thi hành các
BA, QĐ của Tòa án. Theo các văn bản pháp luật, CHV có quyền quyết định cho
đương sự một thời hạn để tự nguyện THA, áp dụng biện pháp cưỡng chế mà
pháp luật cho phép sau khi có sự thỏa thuận với Chánh án nơi CHV công tác,
yêu cầu lực lượng bảo vệ trật tự trị an giúp sức khi cần thiết, đề nghị Tịa án có
thẩm quyền cho hỗn, tạm đình chỉ THA và nhiều thủ tục khác về THADS.
1.3.2. Giai đoạn từ 1980 đến 1993
Ở giai đoạn này, sự ra đời của Hiến pháp năm 1980 là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật khác có liên quan như :
Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981; Nghị định số 34/HĐBT ngày 22/11/1981
của Hội đồng bộ trưởng về “chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp”
đã giao cho Bộ Tư Pháp đảm nhiệm cơng tác quản lý Tịa án nhân dân địa
phương về mặt tổ chức, trong đó có cơng tác THADS; Thơng tư liên ngành số
472 về “Quản lý công tác THA trong tổ chức trước mắt” của Bộ Tư pháp và Tòa
án nhân dân tối cao…
Cột mốc đánh dấu sự ra đời của Pháp lệnh THADS đầu tiên của nước ta là
ngày 28/8/1989. Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã ban hành PLTHADS năm 1989,
có hiệu lực thi hành ngày 1/1/1990 và cùng với đó là Thông tư liên ngành số 06
– 89/TTLN ngày 7/12/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ tư pháp “hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp lệnh thi
hành án dân sự”. PLTHADS 1989 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng
cường hoàn thiện, kiện toàn tổ chức, thực hiện hoạt động THADS nói chung và
thủ tục THADS nói riêng.
Theo PLTHADS năm 1989 thì cơng tác THA do Tịa án thực hiện, nhưng
đã có sự chuyên biệt giữa thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử và Thẩm phám làm
nhiệm vụ THA; đồng thời sẽ song song tồn tại hai cơ chế, một là cơ chế chủ
động THA và hai là cơ chế THADS theo đơn yêu cầu, với những thủ tục
THADS khá cụ thể và rõ ràng.


10


Thủ tục thi hành án được quy định tại Chương 3 của Pháp lệnh, từ điều 13
đến điều 22. Theo đó, về quyền yêu cầu THA, người được THA căn cứ vào bản
trích lục BA, QĐ có quyền u cầu người THA thi hành, trong trường hợp người
phải THA không tự nguyện THA, người được THA có quyền gửi đơn đến
Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm hoặc sở thẩm đồng thời là chung thẩm vụ án để
yêu cầu THA, bản trích lục bản án, quyết định của Tồ án phải được gửi kèm
theo đơn yêu cầu THA. Thời hiệu THA theo pháp lệnh này là 3 năm kể từ ngày
BA, QĐ có hiệu lực pháp luật. Chánh án Tòa án chủ động ra quyết định THA
đối với các BA, QĐ về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại XHCN, phạt tiền,
tịch thu tài sản; BA, QĐ chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay
như BA, QĐ sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở
lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng sức khỏe của cơng dân mà
Tịa án cho thi hành ngay mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị; quyết
định khẩn cấp tạm thời để đảm bảo lợi ích cấp thiết của đương sự hoặc bảo đảm
cho việc xét xử và THA.
Các căn cứ để hỗn và tạm đình chỉ THA được quy định tại Điều 18 và 19,
trong trường hợp: Người phải THA án ốm nặng mà theo BA, QĐ thì người đó có
nghĩa vụ phải tự mình thực hiện; người được THA yêu cầu hoặc đồng ý cho
người phải THA hoãn việc thi hành; chưa xác định được địa chỉ của người phải
THA. Khi điều kiện hoãn THA đã hết, thì BA, QĐ được tiếp tục thi hành.
PLTHADS năm1989 cũng đã có những quy định chặt chẽ về các trường hợp
đình chỉ THA, đó là các trường hợp: Người phải THA chết mà theo bản án,
quyết định thì nghĩa vụ thực hiện không được chuyển cho người thừa kế; người
được THA chết mà quyền và lợi ích theo bản án, quyết định không được thừa kế;
người được THA là cá nhân, tổ chức kinh tế tư nhân tự nguyện u cầu khơng
THA nữa; bản án, quyết định bị Tồ án có thẩm quyền huỷ bỏ; thời hiệu yêu cầu

THA đã hết. Trong trường hợp người được THA tự nguyện u cầu khơng THA
nữa, sau đó khơng có quyền u cầu THA trở lại.
Việc quyết định THADS sẽ do Chánh án Tòa án nhân dân thực hiện, Chấp
hành viên là người trực tiếp tổ chức việc THADS. Tuy nhiên, việc Tòa án thực
hiện kiêm nhiệm hai chức năng này là một gánh nặng rất lớn, đồng thời nó cịn
khơng đảm bảo được tính khách quan, cơng bằng trong hoạt động THADS.

11


1.3.3. Giai đoạn từ 1993 đến 2008
Pháp lệnh thi hành án đầu tiên ra đời năm1989 đã bộc lộ những khiếm
khuyết và địi hỏi cần có những sửa đổi, bổi sung cho phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh thực tế của nước ta. Giai đoạn 1993 – 2008 là giai đoạn có nhiều bước
đột phá cho sự phát triển của pháp luật THADS. Trong giai đoạn này, đã có rất
nhiều văn bản pháp luật về thủ tục THADS ra đời mà điển hình là hai
PLTHADS năm 1993 và năm 2004. Thêm vào đó, cũng có rất nhiều văn bản
pháp quy cụ thể liên quan đến thủ tục THADS, tạo khung pháp lý quan trọng cho
việc tổ chức, thực hiện các hoạt động thi hành án dân sự, trong đó phải kể đến
các văn bản như : Luật tổ chức chính phủ năm 1992, Luật tổ chức Tịa án nhân
dân 1992 đã đặt ra những nguyên tắc nền tảng cho q trình cải cách tư pháp,
trong đó có cơng tác THADS ; Nghị quyết “về việc bàn giao công tác thi hành
án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang cơ quan của Chính phủ” được Quốc
hội khóa IX thông qua ngày 06/10/1993.
Trước hết, PLTHADS năm 1993 được Quốc hội ban hành ngày
21/4/1993 thay thế cho PLTHADS năm 1989. Theo đó, cơng tác THA được bàn
giao từ Tịa án sang cơ quan Chính phủ. Cho nên, Chính phủ và các cơ quan có
thẩm quyền đã ban hành những văn bản pháp luật quy định về tổ chức, trình tự,
thủ tục THADS như : Nghị định số 69/CP ngày 18/10/1993 quy định “Thủ tục
thi hành án dân sự”; Thông tư liên ngành số 981/TTLN ngày 21/9/1993 của Bộ

Tư Pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Hướng dẫn
thực hiện một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự”…
PLTHADS năm 1993 vẫn dựa trên những quy định cơ bản về thủ tục THA
của PLTHADS năm 1989, nhưng có những sửa đổ, bổ sung mới. Thủ tục thi
hành án được quy định từ điều 18 đến 28 thuộc chương 3 của Pháp lệnh. Quy
định về quyền yêu cầu thi hành án của đương sự theo pháp lệnh 1993 được bổ
sung thêm một điểm đáng chú ý là trường hợp người phải THA khơng tự nguyện
THA và có đơn u cầu THA của người được THA thì “trong thời hạn mười
ngày, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu cơ quan thi hành án phải ra quyết định thi
hành án” (Điều 19). Quy định này được bổ sung giúp cho quyền lợi của người
được THA được bảo đảm và hạn chế tình trạng nhiêu khê, trì trệ của các
CQTHADS. Theo pháp lệnh này, thủ trưởng CQTHADS sẽ chủ động ra quyết

12


định THA trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được BA, QĐ THA. Việc quy
định thời gian ra quyết định THA đảm bảo cho việc THA nhanh chóng, chủ
động hơn, đảm bảo lợi ích của cá nhân đương sự và nhà nước.
Như vậy, điểm khác biệt cơ bản nữa đó là việc ra quyết định THA khơng
do chánh án tòa án nhân dân ra quyết định nữa, mà do thủ trưởng CQTHA. Việc
thay đổi người ra quyết đinh THA làm giảm bớt gánh nặng cho Tòa án, giảm bớt
chức năng kiêm nhiệm cả hai nhiệm vụ, đảm bảo khách quan, công bằng hơn.
Sự ra đời của PLTHADS năm 1993 và các văn bản hướng dẫn là cơ sở
pháp lý quan trọng để giải quyết việc THADS, kịp thời đáp ứng u cầu của
cơng tác THADS vào hồn cảnh đó, xây dựng được một cơ chế quản lý nhà
nước thống nhất đối với công tác THADS, quy định tương đối cụ thể về trình tự,
thủ tục THA, tạo cơ sở pháp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động THADS.
Tiếp đó, đến ngày 14/1/2004 Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp tục thông
qua Pháp lệnh thi hành án dân sự mới, có hiệu lực thi hành kể từ ngày

01/7/2004. Pháp lệnh này thay thế cho pháp lệnh cũ năm 1993 để đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh đổi mới, cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Bởi vì
trong những năm tiếp theo đó, ngành Tư pháp ln xác định công tác THADS là
một nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt là sau khi nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày
2/1/2002 của Bộ chính trị “ Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung
ương Đảng Khóa IX xác định “đẩy mạnh đổi mới tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp… tập trung thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là THADS,
khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng kéo dài”. Cho nên, Bộ tư pháp đã đẩy
nhạnh tiến độ soạn thảo để trình các cơ quan có thẩm quyền xem xét, ban hành
PLTHADS mới thay thế PLTHADS năm 1993.
Thủ tục THADS được quy định tại chương III của Pháp lệnh này, gồm 19
điều, từ Điều 18 cho đến Điều 36, và Nghị định 173/2004/ NĐ-CP ngày
30/9/2004 “quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt hành chính trong thi hành
án dân sự”. PLTHADS năm 2004 vẫn kế thừa các quy định hợp lý của pháp
lệnh THADS năm 1993. Bên cạnh đó, pháp lệnh có bổ sung nhiều điểm mới đáp
ứng sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế xã hội.

13


Thủ tục thi hành án được quy định từ điều 18 đến điều 36 tại chương 3 của
PLTHADS năm 2004. Có rất nhiều thủ tục được bổ sung ví dụ như: Gửi và giải
thích BA, QĐ của Tồ án; Uỷ thác thi hành án; Chuyển giao quyền và nghĩa vụ
THA...
Bên cạnh đó, những thủ tục được quy định tại pháp lệnh 1993 cũng được
sửa đổi bổ sung theo hướng chặt chẽ và hợp lý: Ví dụ như việc quy định về cấp
BA, QĐ của Tòa án ở Điều 18 của pháp lệnh cho thấy việc quy định rõ hơn về
trách nhiệm của Tịa án trong việc giải thích cho đương sự về quyền được THA;
hay quy định gửi và giải thích bản án, quyết định của Tịa án là một quy định

hoàn toàn mới, là cơ sở pháp lý quan trọng, giúp cho CQTHADS nắm bắt được
thông tin, chủ động tiến hành các thủ tục về THA theo đúng quy định, đảm bảo
quyền lợi ích hợp pháp của đương sự…
Trước đây, PLTHADS năm 1993 đã quy định một số lượng tương đối lớn
các BA, QĐ thuộc diện CQTHADS phải chủ động đưa ra thi hành. Trong đó
phần lớn các trường hợp được CQTHA chủ động ra quyết định THA là do người
được THA là cơ quan, tổ chức Nhà nước. Quy định này đã thể hiện sự bất bình
đẳng giữa các chủ thể là người được THA với nhau. Cụ thể là người được THA
là cá nhân và người THA là cơ quan, tổ chức. Do đó, để đảm bảo sự đối xử công
bằng giữa những người được THA, đảm bảo việc THA nghiêm túc và kịp thời
các khoản thu nộp cho ngân sách Nhà nước, Điều 22 PLTHADS năm 2004 thu
hẹp và quy định cụ thể hơn các trường hợp CQTHA chủ động ra quyết định
THA [23,tr.130], đó là các BA, QĐ liên quan đến : án phí, lệ phí Tịa án, trả lại
tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tịa án; hình phạt tiền; tịch thu tài sản, truy thu thuế,
truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính; xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ; thu hồi
đất theo quyết định của Tòa án; quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời của
Tòa án. Và thời hạn ra quyết định THA chủ động được rút ngắn xuống còn 5
ngày làm việc kể từ ngày nhận được BA, QĐ; còn đối với quyết định về biện
pháp khẩn cấp tạm thời thì phải ra quyết định THA ngay, đảm bảo cho việc thực
hiện những quyết định có tính cấp thiết.
Như vậy, PLTHADS năm 2004 có những quy định đơn giản, chi tiết, cụ thể
hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện các quy định trên thực tế.
Tuy nhiên khi hoàn cảnh xã hội, điều kiện kinh tế của đất nước thay đổi thì việc

14


×