Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Chính sách phát triển cán bộ dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.56 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Trong công cuộc đổi mới, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng nguồn lực con
người; coi đây là nhân tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Xuất phát từ nhận thức
vị trí chiến lược của miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và đặc điểm
của vấn đề dân tộc thiểu số nước ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc trước đây và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay, Đảng ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nhằm thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc,
đưa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số từng bước phát triển trong sự
phát triển chung của đất nước. Để các dân tộc thiểu số sớm có được đội ngũ
cán bộ đồng bộ, trong đó có nhiều người giỏi, đủ sức giải quyết những vấn đề
phát triển kinh tế- xã hội (KT-XH) của dân tộc mình, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ, công tác cán bộ: “Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc
cán bộ miền núi. Cố nhiên cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh em cán bộ địa
phương nhưng phải làm sao cho cán bộ địa phương tiến bộ, để anh em tự
quản lý lấy công việc ở địa phương, chứ không phải là bao biện làm thay".
Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ 10 của Đảng nhấn mạnh, phải: “Ưu tiên đầu tư phát triển giáo
dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp tục
hoàn chỉnh hệ thống trường lớp, cơ sở vật chất - kỹ thuật các cấp học, mở
thêm các trường nội trú, bán trú và có chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho
các vùng này” và “Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ
dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, con em những gia đình có
công với cách mạng”…
Như vậy, ở bài tiểu luận này chúng tôi muốn đề cập đến thực trạng của
việc sử dụng nguồn nhân lực ở dân tộc thiểu số( đặc biệt là cán bộ, công chức
địa phương),và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đề ra các chính sách phù


hợp ,nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số từng bước phát triển


cả về số lượng và chất lượng, đóng vai trò to lớn trong phát triển KT-XH,
củng cố quốc phòng- an ninh (QP-AN) ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số.Từ đây, đưa ra các định hướng, biện pháp hợp lý góp phần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn (miền núi).
B.

NỘI DUNG CỤ THỂ:

I.

Các khái niệm cơ bản

1.1.

Định nghĩa về “ Chính sách”:

Chính sách là tập hợp những chủ trương và hành động về phương diện
nào đó của Chính Phủ, nó bao gồm các mục tiêu mà Chính Phủ muốn đạt
được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó.
Những mục tiêu đó bao gồm: sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực
KT- VH-XH- Môi trường.
1.2. Khái niệm về “ Dân tộc thiểu số”:
Dân tộc thiểu số là một cộng đồng dân cư có ngôn ngữ riêng, lịch sử
hình thành văn hóa dân tộc riêng , là những dân tộc có số dân ít hơn so với
dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.

1.3. Khái niệm “ Cán bộ”, “ Cán bộ dân tộc thiểu số”:
Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử phê chuẩn bổ nhiệm, giữ
chức vụ , chức danh theo nhiệm kì trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, Tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương , tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương ,ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Cán bộ dân tộc thiểu số là những công dân Việt Nam được bổ nhiệm,
bầu cử, phê chuẩn làm việc, giữ chức vụ , chức danh tại địa bàn nơi dân tộc
thiểu số sinh sống. Hay nói cách khác “Cán bộ dân tộc thiểu số là những người
công tác trong một tổ chức các định của hệ thống chính trị , có thành phần
xuất thân từ các dân tộc thiểu số Việt Nam, có trách nhiệm , quyền hạn nhất
định , được tổ chức và nhân dân giao phó ,có trình độ năng lực đáp ứng các


yêu cầu của nhiệm vụ được giao, có phẩm chất đạo đức cách mạng , có nghĩa
vụ tuyệt đói trung thành với nhân dân .
1.4. “Chính sách cán bộ dân tộc thiểu số” là gì?
Chính sách cán bộ dân tộc thiểu số là những chính sách củ trương mục
tiêu mà Chính phủ hướng tới, đề racho các bộ dân tộc thiểu số để thực hiện
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức , từ đó thực hiện tốt các
chính sách khác , hướng tới các dân tộc thiểu số hội nhập phát triển.
1.5 . Một số văn bản pháp lý có liên quan đến việc xây dựng chính
sách cán bộ dân tộc thiểu số:
- Chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ công chức nhằm nâng cao năng lực
cán bộ.
- Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính
phủ về công tác dân tộc;
- Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính
phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Nghị định số
93/2010/NĐ-CP ngày 31 tháng 8 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi một số

điều của Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính
phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;
- Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính
phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức;
- Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính
phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã; Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 12 năm 2011 của Chính
phủ về công chức xã, phường, thị trấn;
- Nghị định số 58/2014/NĐ-CP ngày 16 tháng 6 năm 2014 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội
vụ;
- Nghị định số 84/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2012 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban
Dân tộc;
- Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc ban hành
Thông tư liên tịch quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành chính sách cán bộ,


công chức, viên chức người dân tộc thiểu số quy định tại Điều 11 Nghị định số
05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công tác dân
tộc.
II.
SỰ CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH CÁN BỘ DÂN TỘC
THIỂU SỐ
Những phát triển mới của đất nước ta hiện nay đòi hỏi một nguồn
nhân lực toàn diện, có chất lượng cao. Đấy là, một đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, các lĩnh vực có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực dự
báo, định hướng sự phát triển theo quan điểm của Đảng và năng lực tổ chức
thực hiện; có đạo đức, lối sống trong sáng; có kiến thức về khoa học quản lý,

lãnh đạo và đã trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Một đội ngũ chuyên
gia khoa học, văn hóa có kiến thức vững vàng, luôn cập nhật những kiến thức
mới của thế giới và gắn bó với thực tiễn, có sức sáng tạo, có tâm huyết với sự
nghiệp phát triển đất nước, cộng tác chặt chẽ với các doanh nghiệp và người
lao động cùng sáng tạo những công trình, sản phẩm đủ sức cạnh tranh trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Một đội ngũ doanh nhân đông đảo, tâm
huyết với sự nghiệp phát triển của đất nước, có ý chí và năng lực phát triển
doanh nghiệp, hiểu biết và tận dụng khoa học- công nghệ tiên tiến để không
ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của nhân dân trong nước và đủ sức cạnh tranh trên thương trường
quốc tế. Một đội ngũ đông đảo những người lao động có trình độ học thức và
tay nghề cao, có đầu óc sáng tạo, đủ sức tiếp cận và vận hành các công nghệ
mới. Một đội ngũ cán bộ quân sự, an ninh trung thành với chế độ, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, được trang bị kiến thức toàn diện, tinh thông nghiệp vụ...
Nếu đặt những yêu cầu này trước thực tế đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số,
với khoảng 50% có trình độ chuyên môn ở bậc trung, sơ cấp hoặc chưa qua
đào tạo đối với cấp tỉnh và tỷ lệ này ở cấp huyện, cơ sở là 80%, thì thấy việc
đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực ở miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số cấp thiết đến thế nào. Để tháo gỡ vấn đề này, nền tảng vẫn là hai
nhân tố: sự vươn lên của chính bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu
số, gắn liền với nhu cầu phát triển; sự quan tâm, giúp đỡ của Nhà nước, xuất
phát từ tổng thể của cộng đồng quốc gia, của từng vùng và từng dân tộc. Từ
đó, tập trung xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số một cách toàn diện.


Chính vì vậy, việc xây dựng các chính sách sử dụng hợp lý đội ngũ cán
bộ, công chức cấp chính quyền địa phương ở các dân tộc thiểu số là vô cùng
quan trọng trong bối cảnh nước ta hiện nay.
I.


THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH CÁN BỘ NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ.

3.1: Tình trạng thiếu nguồn cán bộ giỏi, có trình độ ở các vùng
dân tộc thiểu số.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “ Vô luận việc gì đều do người
làm ra, từ nhỏ đến to, từ xa đến gần đều thế cả”. “ Muốn lập làng kiểu mẫu , đội
kiểu mẫu, thì trước hết phải đào tạo ra những người kiểu mẫu để làm cán bộ
hàng đó, đội đó.
Trên thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số còn thiếu và
còn yếu cả về số lượng cũng như chất lượng. Hiện nay có 50% cán bộ người
dân tộc có trình độ chuyên môn ở bậc trung, sơ cấp hoặc chưa qua đào tạo đối
với cấp tỉnh và tỷ lệ ở cấp huyện và cấp cơ sở là 80%. Từ đó, ta có thể thấy việc
đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực ở miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số là cấp thiết đến thế nào.
Vậy làm sao để chất lượng cán bộ người dân tộc ngày càng được nâng cao
hơn, làm việc hiệu quả và chất lượng hơn. Đó vốn đang là vẫn đề nan giải của
các nhà cầm quyền lúc bấy giờ. Song, quan trọng hơn cả là hai yếu tố sau: Thứ
nhất, là sự vươn lên của chính bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số,
gắn liền với nhu cầu phát triển. Thứ hai, sự quan tâm, giúp đỡ của Nhà nước.
Đó là việc ban hành nhiều chính sách hợp lý góp phần thúc đẩy sự phát triển về
mọi mặt của vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa. Trong đó, tiêu biểu là
chính sách “ Cán bộ người dân tộc thiểu số “. Với sự quan tâm của nhà nước,
trong việc thực hiện chính sách đã đạt được nhiều hiệu quả khá cao bên cạnh
một số tồn tại nhỏ. Cụ thể :
Ở nước ta, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là khu vực có nhiều
tiềm năng để phát triển kinh tế, xã hội. Là địa bàn chiến lược quan trọng, có vai
trò to lớn về an ninh quốc phòng. Nhưng làm thế nào để biến nơi đây thành địa
bàn chiến lược phát triển kinh tế đất nước với đội ngũ cán bộ người dân tộc có

trình độ, làm việc hiểu quả. Vốn dí là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà
nước ta.


3.2: Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện chính sách.
Việc thi hành điều 11 nghị định số 05/2011 NĐ-CP ngày 14-01-2011 của
Chính Phủ về công tác dân tộc. Ủy ban dân tộc, Bộ Nội Vụ ban hành thông tư
liên tịch quyết định chi tiết thi hành một số chính sách tuyển dụng, sử dụng,
quản lý cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số làm việc trong cơ quan nhà
nước, Đảng, tổ chức chính trị, xã hội. Sau nhiều cố gắng, hiện nay, đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số đã phát triển lớn mạnh. Hẩu hết các dân tộc đều có
cán bộ, nhân viên công tác, hoạt động chuyên nghiệp, chiếm đên 73% tổng số
cán bộ, nhân viên trong biên chế ở miền núi.
Trong việc thực hiện chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ miền núi, Đảng và
Nhà nước ta đã thực hiện chính sách ưu tiên, quan tâm, giúp đỡ. Một mặt, sử
dụng đan xen giữa cán bộ dân tộc đa số với cán bộ dân tộc thiểu số, nhắm tăng
cường sự hỗ trợ nhau, nâng cao năng lực, chất lượng và hiểu quả công tác. Mặt
khác, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ tại chỗ cho từng vùng và từng dân
tộc thiểu số. Thực hiện chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các cán bộ làm việc ở
các vùng sâu, vùng xa.
Theo số liệu thống kê cụ thể:
Đến hết năm 2013 cả nước có 68781 biên chế là người dân tộc thiểu số trên
tổng số 588453 biên chế hiện có, chiếm 11,68%.
Có 167 cán bộ là người dân tộc thiểu số được bầu vào ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI ( chiếm 12,13% )
251 cán bộ người dân tộc được bầu vào Ban chỉ huy Đảng bộ. Tỉnh có 78 người
là đại biểu Quốc hội khóa XIII (15,6%)
Tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số được bầu vào cấp ủy, chỉnh quyền, HĐND
cấp huyện, xã ngày càng được tăng lên theo từng năm, đảm bảo số lượng cán bộ
người dân tộc thiểu số theo tỷ lệ số lượng người dân tộc ở địa phương.

11179 cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số được đào tạo về chuyên môn,
8698 cán bộ đã trải qua quá trình đào tạo cử nhân lí luận chính trị.
4939 cán bộ người dân tộc được đào tạo trình độ cử nhân quản lý nhà nước. Và
hơn 48 nghìn cán bộ dân tộc thiểu số được trải qua lớp đào tạo kĩ năng chuyên
nghành.


Tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số tăng lên thời gian qua cho thấy : việc sử
dụng, tuyển dụng cán bộ người dân tộc thiểu số ở các địa phương, đơn vị đã vận
dụng hợp lý các quy định của pháp luật về xét tuyển, tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân tộc thiểu số có được các vị trí trong các cơ quan hành chính nhà
nước. Nhiều đơn vị địa phương còn ban hành các những chính sách thu hút cán
bộ, công chức về công tác tại các tuyến cơ sở, địa bàn có điều kiện khó khăn về
kinh tế- xã hội.
Có thể nói: Chính sách của Đảng đã thực sự tạo điều kiện cho đội ngũ cán
bộ, công chức người dân tộc thiểu số yên tâm công tác, tập trung trí lực, phát
huy tâm huyết để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số thực sự là những chiến sĩ xung kích của Đảng và Nhà nước ta ở các vùng dân
tộc miền núi, vùng sâu vùng xa, hải đảo. Là những biểu tượng tốt đẹp cho khối
đại đoàn kết dân tộc, tạo niềm tin cho đồng bào các dân tộc vào các chính sách
nhất quán của Đảng và Nhà nước. Cùng chung tay chống lại các luận điệu
xuyện tạc của các thế hệ phản động.
Sau đây là những người con tiêu biểu cuả núi rừng, những trí thức trẻ đầu
tiên khai sáng cho con đường phát triển kinh tế, xã hội của đồng bào người dân
tộc ở vùng sâu vùng xa.
Chị Vương Ngọc Hà (sinh năm 1977), Bí thư Tỉnh đoàn Hà Giang, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương Ðoàn khóa X, là con gái nhà báo Vương Văn
Phát. Ông Phát là người dân tộc La Chí ở Bản Máy, huyện vùng cao Hoàng Su
Phì, từng là Trưởng phân xã TTXVN tại Hà Giang. Người con gái La Chí,
Vương Ngọc Hà về công tác tại Phòng Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà

Giang ngay sau khi tốt nghiệp Ðại học Luật Hà Nội. Sau nhiều năm gắn bó với
nghề, mảnh đất vùng cao Hà Giang. Năm 2006, chị trở thành người phụ nữ
La Chí đầu tiên giành tấm bằng thạc sĩ luật, chuyên ngành điều tra tội phạm.
Với kinh nghiệm thực tiễn và lý thuyết được trau dồi, chị có những đóng góp
hiệu quả cho công tác điều tra tội phạm của Công an tỉnh Hà Giang. Khi chị
vui mừng thông báo, đã hoàn thành luận án và đang chuẩn bị bảo vệ luận án
tiến sĩ trước tháng 11 năm nay, chúng tôi thật sự khâm phục những cố gắng
âm thầm không mệt mỏi của người phụ nữ La Chí này. "Tôi rất tâm đắc và
cảm ơn Tỉnh ủy Hà Giang có chủ trương chị tiếp tục học cao học, mong muốn
có thêm cơ hội để phục vụ tốt hơn cho đột phá trong công tác lựa chọn, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số trong hai nhiệm kỳ qua. Nhờ thế


mà tôi và nhiều người khác có cơ hội phấn đấu vươn lên, nâng cao trình độ
chuyên môn, phục vụ công việc tốt hơn" - Chị Vương Ngọc Hà chia sẻ .
Nhờ nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc thực hiện các chính sách đào tạo,
nâng cao năng lực, trình độ của các cán bộ người dân tộc của tỉnh Hà Giang.
Đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng nghi nhận. Cụ thể: Từ năm 2011 đến
nay, tỉnh Hà Giang có 359 cán bộ đào tạo sau đại học; 2.803 cán bộ đại học,
cao đẳng; 17 cán bộ học đại học và sau đại học ở nước ngoài; bồi dưỡng ở
nước ngoài 348 lượt cán bộ. Tỉnh đã bồi dưỡng về kỹ năng lãnh đạo quản lý
648 lượt người, kỹ năng nghiệp vụ 16.482 lượt người; bồi dưỡng ngoại ngữ
126 người, tin học 1.093 người, tiếng dân tộc Mông 1.054 người, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp 5.878 lượt người. Ðồng thời Hà Giang đã tuyển chọn
212 trí thức trẻ là người địa phương, tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc
tại 140 xã đặc biệt khó khăn.
3.3: Những khó khắn còn tồn tại.
Mặc dù những thành công đạt được là không hề nhỏ, nhưng bên cạnh
những thành tựu đó còn tồn tại nhiều bất cập trong việc nâng cao chất lượng
cán bộ người dân tộc thiểu số ở một số địa phương cho thấy vẫn còn tình

trạng mất cân đối trong việc sử dụng và nâng cao chất lượng của cán bộ
người dân tộc thiểu số.
Trình độ chuyên môn, kĩ thuật trong đội ngũ các bộ người dân tộc quản lý
các cấp ở một số địa phương còn thấp. Mặc dù nhà nước đã tập trung xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, nhưng việc quản lý,
sử dụng cán bộ, công chức được đào tạo còn nhiều vấn đề bất cập, nhiều nơi
còn thiếu quy hoạch. Trong khi đó, hiện nay, nhiều cán bộ, kĩ sư người dân tộc
thiểu số được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng vẫn chưa sắp xếp được
vị trí việc làm. Tình trạng này còn diễn ra ở nhiều địa phương, không phải do
không có nhu cầu mà là do địa phương đó không có biên chế nên chưa được
phép tuyển dụng và sử dụng nhân tài.
Một số cán bộ chủ chốt các ngành ở huyện, quận do trình độ yếu, chưa năng
động, nhạy bén nên hạn chế tiếp thu và chuyển tải những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước xuống cơ sở.
Đại bộ phận cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn lúng túng trong tổ chức, chỉ đạo,
quản lý kinh tế ở cơ sở trong thời kỳ mở cửa, hội nhập.
Nhà nước đã có văn bản, quy định về đào tạo, bồi dưỡng; chế độ, chính sách
cho cán bộ dân tộc thiểu số đã được ban hành. Song việc cụ thể hóa, triển


khai hướng dẫn còn bất cập chưa sát với thực tế từng loại đối tượng cán bộ
của từng địa phương, từng vùng dân tộc.
Chưa coi trọng đúng mức đến công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ nguồn. Do vậy bố trí sử dụng
cán bộ cơ sở thường bị động (thiếu cả về số lượng, chất lượng). Có một số
dân tộc thiểu số rất ít người như: Si La, Pu Péo, Brâu, Ơ Đu, Rơ Măm,... chưa
có cán bộ.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS ở từng vùng, miền không đồng đều về
mặt chất lượng. Một số cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng song chương trình,
nội dung giảng dạy còn chắp vá, thiếu tính hệ thống và tính đặc thù của đối

tượng người học là cán bộ người DTTS.
Tỷ lệ cán bộ DTTS chỉ đạt 28% so với tổng số cán bộ cơ sở ở các vùng dân
tộc. Các chức danh chính đảm nhận trong hệ thống chính trị chiếm tỷ lệ thấp,
các xã vùng khó khăn chủ yếu vẫn phải điều động và sử dụng cán bộ tăng
cường từ nơi khác tới.
So với những năm trước đây, số lượng có tăng nhưng nhìn chung vẫn còn rất
thiếu, đặc biệt là các xã vùng 3, vùng kháng chiến khó khăn. Các chức danh
chuyên môn ở các xã vùng này chiếm khoảng 8%.
Điều bất cập thấy rõ là: Tuổi bình quân cao, thiếu trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và quản lý nhà nước, không mang tính chuyên nghiệp, nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức là rất lớn.
Từ những bất cập đó dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ ngay
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhìn chung, chất lượng cũng như số lượng cán bộ người dân tộc thiểu số
còn nhiều vẫn đề nan giải, hạn chế. Hầu hết các tỉnh miền núi hiện nay chưa
thể tự cân đối được lực lượng cán bộ tại chỗ, phải nhờ vào sự điều động, tăng
cường từ các bộ nghành trung ương và địa phương khác đến. Đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý ở các huyện vùng cao, vùng xa vẫn chủ yếu do các cán bộ
tăng cường đảm nhiệm.
Thực trạng này cho thấy, đòi hỏi các cấp, nghành phải ra sức đẩy mạnh
hơn nữa công tác đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số, không chỉ đáp ứng
nhu cẩu trước mắt mà còn đáp ứng lâu dài, phát triển cách mạng ở miền núi.
Một số bất cập tiêu biểu: Công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo bồi
dưỡng cán bộ chưa được tiến hành đồng bộ, hiệu quả. Các cán bộ có năng lực
công tác còn kém, thiếu kinh nghiệm thực tiễn, khả năng bao quát tình hình,
đề ra chủ trương, xác định nhiệm vụ, điều hành công việc còn yếu. Năng lực
làm việc độc lập, cũng như trình độ sử dụng thông tin còn kém, chậm.
3.4:

Nguyên nhân hạn chế.



3.3.1: Nguyên nhân khách quan.
Những bất cập trong công tác đào tạo và sự dụng cán bộ người
dân tộc gặp nhiều khó khăn do vẫn còn tồn tại nhiều nguyên nhân
sau.
Nguyên nhân khách quan: Các yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa
xã hội ảnh hưởng đên công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã là người dân tộc. Đời sông kinh tế của đồng bào dân
tộc còn nhiều khó khắn, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của cán
bộ, làm cho họ không yên tâm công tác, không đầu tư nghiên cứu,
nắm bắt tình hình và tiếp cận với những đường lối, chủ trương của
Đảng, Nhà nước.
3.3.2: Nguyên nhân chủ quan.
Bộ trưởng Giàng Seo Phử cho rằng: sự bất cập, lãng phí nguôn
nhân lực do đào tạo chưa gắn với nhu cầu. Thực tế, đào tạo chưa
gắn với nhu cầu quy hoạch tổng thể, chiến lược phát triển toàn diện
kinh tế xã hội ở các địa phương. Một thực trạng đáng lo ngại là
công tác đánh giá quy hoạch cán bộ, dân tộc thiểu số còn nhiều bất
cập, chưa phản ảnh đúng thực chất, một số địa phương mang tính
cục bộ, khép kín, cơ cấu chưa phù hợp. Một số cấp ủy chưa quan
tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc, chưa chủ động
chuẩn bị nguồn cán bộ, công chức tham gia đào tạo tại các khóa
đào tạo, bồi dưỡng.
Chính sách đối với cán bộ người dân tộc còn mang tính chắp
vá, chua thật sự khuyến khích họ nâng cao năng lực, trình độ. Chưa
có quy chế quản lý các học viện ở các trường đại học sau khi ra
trường để bố trí sử dụng, vì vậy mà nguồn lực bị hụt hứng.



IV. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH
CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ:
4.1: Định hướng :
Trước hết là xây dựng một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có đủ
phẩm chất chính trị và năng lực công tác, gắn bó với quần chúng, đủ sức
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trong giai đoạn mới của cách mạng. Cùng với
đó, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển một đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ
thuật đông đảo, có cơ cấu phù hợp với sự phát triển của miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Tạo mọi điều kiện, thậm chí nâng đỡ cho các doanh
nhân là người dân tộc thiểu số đang manh nha phát triển, coi đây là thành
phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển KT-XH. Có những tiêu chí ưu
tiên về trình độ văn hóa để con em các dân tộc thiểu số được tham gia nghĩa
vụ quân sự, được đào tạo trong các trường sĩ quan, trường kỹ thuật, nghiệp
vụ của quân đội và công an, nhằm hình thành lực lượng nòng cốt trong xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên địa
bàn này.
4.2: Giải pháp:
4.2.1: Giải pháp chung:
Trước mắt, cần nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số một cách toàn diện, trên cơ sở đó kiến nghị với Trung
ương về chiến lược phát triển nguồn nhân lực ở miền núi, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số đáp ứng những yêu cầu mới. Trong đó, vấn đề tạo nguồn
nhân lực và đào tạo cán bộ cho miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
phải được coi là nền tảng trong chiến lược này. Cấp ủy, chính quyền các
cấp cần tập trung giải quyết tốt việc sắp xếp, sử dụng đội ngũ cán bộ hiện
có phù hợp và hiệu quả;
Thứ 2, xây dựng kế hoạch đào tạo và tái đào tạo gắn liền với yêu cầu
phát triển hiện nay; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng sâu,
vùng xa, vùng biên cương, các ngành kinh tế trọng điểm ở từng địa phương;
Thứ 3, kết hợp sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số và cán bộ người

Kinh để bổ sung cho nhau, giúp nhau cùng tiến bộ. Phải quán triệt sâu sắc tư


tưởng Hồ Chí Minh trong việc đổi mới việc thực hành chính sách ưu đãi đối
với miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số: “Miền núi đất rộng người thưa,
tình hình vùng này không giống tình hình vùng khác. Vì vậy, áp dụng chủ
trương và chính sách phải thật sát với tình hình thực tế của mỗi nơi ...
Thứ 4, Ra sức bồi dưỡng cán bộ địa phương, cán bộ phụ nữ và cán bộ
xã về mọi mặt”. Trong tình hình hiện nay, việc thực hành chính sách ở miền
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải được coi là để đầu tư phát triển.
Muốn có nguồn nhân lực dồi dào, cần đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở
miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số với chính sách đặc biệt; bao gồm:
tăng cường đội ngũ giáo viên có đủ số lượng và chất lượng, bổ sung cơ sở vật
chất, kỹ thuật, trang thiết bị dạy và học hiện đại;
Thứ 5, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần; có chính sách, chế
độ đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số ít người, dân tộc thiểu số trong
chương trình bảo tồn nòi giống của Chính phủ;
Thứ 6,đa dạng hóa các loại hình đào tạo gắn liền với thực tế của từng
vùng và từng dân tộc. Cần tập trung đào tạo cán bộ tại chỗ bằng nhiều hình
thức theo một quy hoạch thống nhất và quy chế hóa, nhằm tránh tình trạng
đào tạo cán bộ tại chỗ nhưng lại không được sử dụng như mục đích đã đề ra.
Đặc biệt, từ vị trí chiến lược trọng yếu của miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, cần phát huy nguồn nhân lực trong xây dựng, phát triển kinh tế,
văn hóa- xã hội vào nhiệm vụ xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân,
tăng cường sức mạnh QP-AN qua việc kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với
củng cố QP-AN. Để làm tốt những vấn đề nêu trên, cần thông suốt nhận thức:
đầu tư xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là đầu tư cho sự phát triển kinh tế,
văn hóa-xã hội, QP -AN cho vùng, miền mà là cho cả nước, do đó phải có chiến
lược đúng và toàn diện.

4.2.2: Giải pháp cụ thể:
Để xây dựng được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là
người dân tộc thiểu số có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức
trong sáng, có trình độ kiến thức, năng lực quản lý, điều hành giỏi, khả năng
vận động, thuyết phục quần chúng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai


đoạn cách mạng hiện nay , cần tập trung thực hiện những biện pháp cụ thể
sau:
Thứ nhất, quán triệt quan điểm của Đảng, làm tốt công tác giáo dục
chính trị tư tưởng tăng cường thực hiện công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm.
Thứ 2, củng cố xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, và đội ngũ cán bộ quản
lý, giáo viên cho các trường phổ thông dân tộc nội trú. Đặc biệt chú trọng đầu
tư trang thiết bị cho trường để đủ điều kiện giảng dạy cho học sinh dân tộc
thiểu số các cấp; nghiên cứu mô hình trường nội trú cấp I cụm xã cho các
huyện nhằm tạo nguồn học sinh dân tộc thiểu số cho cấp II và II chất lượng,
đồng thời nghiên cứu chính sách hôc trợ hoặc cấp học bổng , xây dựng ký túc
xá cho các em tốt nghiệp cấp Iitrường dân tộc nội trú không được vào trường
cấp III dân tộc nội trú tỉnh, có thể được học ở cấp III trường huyện. đầu tư cơ
sở vật chất cho các trường dạy nghề ( biện pháp này được áp dụng ở 1 số
tỉnh Tây Nguyên)
Thứ 3, bố trí sử dụng và đào tạo học sinh dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp
phổ thông trung học trở lên.các huyện, thành phố thuộc tỉnh lập kế hoạch bố
trí, sử dụng học sinh dân tộc thiểu số tốt nghiệp cấp III vào các công tác thích
hợp ở các thôn, buôn, xã, trong quá trình công tác nếu xét thấy có triển vọng
thì tiếp tục đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị để sử dụng lâu dài
ở địa phương. Đối với học sinh dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp thì các đơn vị phải chủ động phối hợp với các
sở, ban, ngành để bố trí sử dụng theo biên chế hoặc kí hưpj đồng lao động dài

hạn,sau khi có quyết định biên chế thì tuyển vào biên chế, kinh phí trả cho
hợp đồng lao động lấy từ nguồn ngân sách của tỉnh. Ban tổ chức Tỉnh ủy phối
hợp với Bộ Nội vụ nghiên cứu bổ sung chỉ tiêu, tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số
cho từng vùng.
Thứ 4,nghiên cứu ban hành các chế độ, chính sách đối với học sinh, sinh
viên và cán bộ dân tộc thiểu số.cần có quy chế đào tạo và sử dụng học sinh
viên dân tộc khi vào trườngvà sau khi ra trường để đảm bảo học sinh khi ra
trường phải về công tác ở địa phương. Có chính sách ưu đãi thỏa đáng để
khuyến khích cán bộ là người đan tộc thiểu số theo học các chương trình đại
học. Chính sách đảm bảo điều kiện sinh hoạt cho cán bộ là người đan tộc


thiểu số khi được luân chuyển, điều động đi công tác xa nhà, ở vùng sâu, vùng
xa, để họ in tâm công tác.
Thứ 5, các cấp các ngành cần quan tâm việc sử dụng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số trưởng thành từ cơ sở, từ các phong trào quần chúng, qua
đó lựa chọn, phát triển đảng, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng để đủ điều kiện bố
trí vào những chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp,các ngành phù hợp với
năng lực sở trường công tác của từng cán bộ. công tác đào tạo cán bộ dân
tộc thiểu số nói riêng cần đi vào nền nếp theo kế hoach đã đề ra, đào tạo bồi
dưỡng phải gắn với việc bố trí sử dụng. các cấp các ngành phải xem xét công
tác quy hoạch, đào tạo , bố trí sử dụng cán bộ là việc làm thường xuyên.

•Ví dụ : Nhiệm kỳ 2010-2015, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Mường
Khương (khóa XXII) đề ra 5 chương trình công tác trọng tâm với 19 đề án, dự
án; trong đó, chương trình xây dựng, củng cố hệ thống chính trị được triển
khai với 4 đề án. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã có Đề án số 17 ĐA/HU về
“Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ huyện giai
đoạn 2011-2015” (gọi tắt là Đề án 17). Nội dung chính của đề án là tăng
cường phát triển đảng viên; kiện toàn và thành lập chi bộ, đảng bộ cơ sở; đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
huyện.
Sau khi đề án được ban hành, Ban Thường vụ huyện ủy đã chỉ đạo các
Ban Xây dựng Đảng phối kết hợp với các chi bộ cơ sở nghiêm túc triển khai
thực hiện. Cơ bản cán bộ đảng viên và nhân dân từ huyện đến cơ sở đã được
tiếp thu các nội dung, mục tiêu của đề án. Do vậy, các nội dung của Đề án 17
đã thu được những kết quả rất khả quan. Tính từ tháng 7/2010 đến tháng
5/2013, Đảng bộ huyện đã tạo nguồn và bồi dưỡng kết nạp Đảng được 615
quần chúng. Bình quân mỗi năm kết nạp được trên 130 đảng viên. Số lượng
đảng viên là người dân tộc thiểu số, đảng viên nữ tăng lên. Đến nay, Đảng bộ
huyện đã có trên 2000 đảng viên. Các thôn bản, các đầu mối, trường, trạm
đều có đảng viên.
Qua gần 4 năm thực hiện Đề án 17, huyện Mường Khương đã tách và
thành lập mới được 3 chi bộ trực thuộc Đảng bộ huyện, nâng tổng số từ 41
chi bộ lên 44 chi bộ trực thuộc; trong đó có 19 đảng bộ xã, thị trấn và các cơ
quan, còn lại 25 chi bộ trực thuộc huyện. Hiện nay, đã có 163/231 thôn bản,
tổ dân phố có chi bộ độc lập, chiếm tỷ lệ 70,56% (thời điểm năm 2010, toàn


huyện mới có 15% chi bộ thôn bản độc lập). Kết quả xếp loại hàng năm có
trên 80% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh; 20% tổ chức cơ sở
đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
Công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở
được quan tâm đẩy mạnh. Đến nay, chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ
tại các phòng, ban chuyên môn và đơn vị sự nghiệp của huyện đã từng bước
được nâng lên, cơ bản thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao và tham
mưu có hiệu quả cho cấp ủy, chính quyền huyện trong lĩnh vực chuyên môn.
Từ đặc điểm về địa hình, dân tộc, phân bố dân cư, Ban Thường vụ
Huyện ủy Mường Khương xây dựng kế hoạch, đề án tập trung quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã, ưu tiên người dân tộc thiểu số tại địa bàn và

theo hướng trẻ hóa, kết hợp đào tạo toàn diện cả chuyên môn và lý luận
chính trị, quản lý hành chính. Trong tổng số 359 cán bộ, công chức xã có 276
cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số, chiếm 76,88 %, trong đó dân tộc
Mông chiếm tỷ lệ cao hơn các dân tộc thiểu số khác. Cụ thể, có 31,25 cán bộ
người dân tộc Mông và Dao là Bí thư Đảng ủy xã; cán bộ là Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân xã; phần lớn số cán bộ này trong độ tuổi từ 33 đến 57 tuổi. Hầu hết
cán bộ dân tộc thiểu số có phẩm chất chính trị tốt, nhiệt tình công tác, gắn bó
với nhân dân, tích cực học tập nâng cao nhận thức, chuyên môn, năng lực
công tác. Do vậy, đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, đơn vị,
là hạt nhân tập hợp sức mạnh khối đoàn kết các dân tộc trong việc tổ chức
thực hiện đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Tại cấp cơ sở, việc chấp
hành pháp luật của Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng đời sống văn hóa, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
có những chuyển biến tích cực.
Sau gần 4 năm triển khai thực hiện 5 chương trình công tác trọng tâm
theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII, tình hình an ninh, chính
trị ở Mường Khương ổn định; kinh tế-xã hội tiếp tục phát triển; nhiều mục
tiêu đạt và vượt so với tiến độ đề ra. Ba tháng đầu năm 2014, huyện Mường
Khương thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong các lĩnh vực sản
xuất. Đặc biệt, hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển ổn định, các mặt
hàng tiêu dùng đa dạng, phong phú, đảm bảo chất lượng, cơ bản đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nhất là trong dịp tết Nguyên đán. Tổng mức
lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong quý đạt trên 58 tỷ đồng, tăng 16% so với
cùng kỳ. Công tác quản lý thị trường được duy trì thực hiện tốt, thường


xuyên kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm về kinh doanh, chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn.
Quý I/2014, thu ngân sách trên địa bàn đạt 4,8 tỷ đồng, bằng 17% kế
hoạch, bằng 94% so với cùng kỳ; tổng thu ngân sách địa phương 74,5 tỷ

đồng, đạt 18% kế hoạch, bằng 84% so với cùng kỳ; chi ngân sách 68,3 tỷ
đồng, bằng 16% kế hoạch. Công tác thu, chi được kiểm soát chặt chẽ, đảm
bảo đúng nguyên tắc, tiết kiệm chi không để xảy ra lãng phí. Công tác kiềm
chế lạm phát tiếp tục được triển khai thực hiện…
Bên cạnh các ưu điểm, từ thực tế lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương cũng cho thấy năng lực công tác của một
bộ phận cán bộ là người dân tộc thiểu số còn hạn chế, thể hiện: trình độ
chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, năng lực điều hành, khả năng
vận dụng lý luận vào thực tiễn còn thấp nên khó khăn, lúng túng trong công
tác chỉ đạo, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Tỷ
lệ cán bộ dân tộc thiểu số trong cơ cấu chung cán bộ, công chức của địa
phương tăng, song cơ cấu giữa các thành phần dân tộc chưa hợp lý; tỷ lệ cán
bộ của một số dân tộc thiểu số chưa cân đối với tỷ lệ dân số. Hiện còn 12,69%
cán bộ dân tộc thiểu số cấp huyện và xã chưa đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ; 18,46% là viên chức quản lý ngành giáo dục và ngành
y tế chưa đáp ứng tiêu chuẩn về lý luận chính trị...
Là huyện nghèo, còn gặp nhiều khó khăn, Huyện uỷ Mường Khương xác
định thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn,
bên cạnh sự quan tâm đầu tư của Trung ương, của tỉnh, phải phát huy cao độ
trí tuệ, sức lực của đồng bào và cán bộ dân tộc. Tuy nhiên, muốn thực hiện
thắng lợi chính sách dân tộc phải có cán bộ người dân tộc đủ về số lượng và
đảm bảo về chất lượng. So với cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi, cán
bộ người dân tộc công tác ở vùng dân tộc có nhiều lợi thế hơn do am hiểu
tình hình, phong tục tập quán, tâm lý và ngôn ngữ của đồng bào dân tộc, gắn
bó với gia đình, họ hàng, bà con thân thích và quê hương bản quán của mình,
sẵn sàng đứng chân lâu dài ở vùng biên giới, vùng xa, vùng sâu, hẻo lánh. Mặt
khác, đội ngũ cán bộ người dân tộc tuy còn có những hạn chế nhất định,
nhưng nếu được đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đúng sẽ đủ sức gánh vác các
nhiệm vụ chủ yếu lãnh đạo, quản lý ở các địa phương miền núi. Bên cạnh đó,
sự tham gia của các cán bộ dân tộc thiểu số vào đội ngũ cán bộ nói chung là

biểu hiện rõ và sinh động nhất của khối đại đoàn kết các dân tộc, chính sách


dân tộc của Đảng và Nhà nước, tạo niềm tin cho đồng bào các dân tộc vào
chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước.

C: KẾT LUẬN :
Để xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh, đáp ứng được
yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đòi hỏi huyện cần có chiến lược, phương hướng, các
giải pháp, kế hoạch, bước đi vững chắc, trên cơ sở quán triệt sâu sắc các
quan điểm, nguyên tắc của Đảng và kinh nghiệm thực tiễn trong công tác cán
bộ. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Huyện uỷ. Theo sự chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể, các tổ chức
kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh... chủ động phát hiện, tạo nguồn cán bộ
dân tộc tại chỗ, tập trung vào các trường dân tộc nội trú và quân nhân là
người dân tộc thiểu số xuất ngũ; quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ hợp lý
đồng thời quy định rõ quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên
chức người dân tộc thiểu số trong đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện tốt chủ
trương của tỉnh trong giai đoạn 2011 - 2015, ưu tiên dành biên chế tại các
ngành, các địa phương; áp dụng hình thức hợp đồng lao động vào làm việc
tại những vị trí đang thiếu cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan, xã,
trường học, trạm y tế... dành những vị trí này để tuyển dụng sinh viên là
người dân tộc thiểu số tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học theo chế độ
cử tuyển về làm việc.
Vấn đề cán bộ ở miền núi là một bộ phận quan trọng trong chính sách
dân tộc của Đảng , được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm và đã được giải
quyết tương đối ổn định. Tuy nhiên, tình hình mới hiện nay đòi hỏi các ngành
các cấp phải tăng cường chỉ đạo tốt hơn nữa công tác này . Xây dựng và thực
hiện tốt chính sách cán bộ ở dân tộc thiểu số chính là việc làm cho CBCC có

đủ năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với nhân dân , biết phát
huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp nhân dân.




×