Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.11 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LIỆU

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
LÀM CÔNG TÁC ĐẢNG CHUYÊN TRÁCH
TẠI CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƢƠNG

Chuyên ngành
Mã số

: CHÍNH SÁCH CÔNG
: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐỖ PHÚ HẢI

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Liệu


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC ĐẢNG CHUYÊN TRÁCH
1.1. Khái niệm chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
1.2. Vấn đề chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
1.3. Công cụ chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
1.4. Chủ thể chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
1.5. Thể chế chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
1.6. Những nhân tố tác động đến chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC ĐẢNG CHUYÊN TRÁCH TẠI CÁC BỘ,
NGÀNH TRUNG ƢƠNG HIỆN NAY
2.1. Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các
bộ, ngành trung ương
2.2. Kết quả mục tiêu thực hiện Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công
tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành trung ương
2.3. Thực trạng triển khai thực hiện các giải pháp và công cụ Chính sách phát triển
cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành trung ương
2.4. Đánh giá vai trò của các chủ thể chính sách tham gia thực hiện Chính sách phát triển
cán bộ, công chức làm công tác Đảng chuyên trách tại các bộ, ngành trung ương
2.5. Đánh giá môi trường thể chế thực hiện Chính sách phát triển cán bộ, công chức
làm công tác Đảng chuyên trách tại các bộ, ngành trung ương
2.6. Đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện Chính sách phát triển cán bộ,
công chức làm công tác Đảng chuyên trách tại các bộ, ngành trung ương

2.7. Những tồn tại, hạn chế trong xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành trung ương
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC LÀM CÔNG
TÁC ĐẢNG CHUYÊN TRÁCH TẠI CÁC BỘ, NGÀNH TRUNG ƢƠNG
3.1. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu phát triển cán bộ, công chức làm công tác Đảng
3.2. Các giải pháp hoàn thiện Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác
đảng tại các bộ, ngành trung ương
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
8
8
15
24
25
26
27
32
32
33
36
48
49
53
55
59

59

67
76
78


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CQCTĐU

:

Cơ quan Chuyên trách Đảng ủy

CQCTĐ-ĐT

:

Cơ quan Chuyên trách Đảng - Đoàn Thể

TW

:

Trung ương

UBKT

:

Ủy ban Kiểm tra


VPĐU

:

Văn phòng Đảng ủy


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt cuộc đời hoạt động và lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
công tác cán bộ luôn được Người xác định là “cái gốc”, là cơ sở chính trị để xây dựng
thành công một nước Việt Nam mới. Trong tác phẩm “sửa đổi lề lối làm việc” (1947)
Người xác định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém,
có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong” [36, tr.40]. Từ sau Đại hội VI của Đảng đến nay,
công tác cán bộ, công chức luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Kế
thừa và phát triển tư tưởng chỉ đạo qua các kỳ Đại hội, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, X, XI tiếp tục xác định công tác cán bộ là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng. “Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đầu vì lợi ích của nhân dân, của dân
tộc” [22, tr.136], “Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng
tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng” [22, tr.136], “Đổi mới mạnh
mẽ công tác cán bộ, bảo đảm thật sự dân chủ, khoa học, công minh” [22, tr.136], “có
cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ
xứng đáng người có đức, có tài” [22, tr.137]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã
đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ” [25,tr.13].
Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã

chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc,
tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ
hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng giải quyết hợp lý và đồng bộ
chính sách đối với cán bộ cơ sở”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn khẳng định: cán bộ, công
chức là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền

1


với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi Đảng ta phải xây
dựng được đội ngũ cán bộ, công chức ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới; hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm
vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công
tác; có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ công chức hoàn thành
nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ,
vi phạm kỷ luật, mất uy tín.
Từ thực tiễn nêu trên, Đảng ta đã rất quan tâm đến công tác xây dựng chính
sách phát triển cán bộ, công chức đặc biệt đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
đảng chuyên trách nói chung, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác đảng
chuyên trách tại các bộ, ngành TW nói riêng. Vì đây là một bộ phận có sức ảnh
hưởng rộng, giữ gìn kỷ luật của Đảng, coi đây là một nhân tố quan trọng bảo đảm
cho mục tiêu, lý tưởng, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng được thực hiện nghiêm
túc, có hiệu quả.

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên trong công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách của Đảng phải có bản
lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, có lối sống lành mạnh, phẩm chất đạo đức trong
sáng, đồng thời phải có hiểu biết rộng, có kiến thức chuyên môn sâu. Đặc biệt, phải
có tính chiến đấu cao thì mới dám đấu tranh với những hành vi sai trái, vi phạm.
Hơn ai hết, những người làm công tác đảng phải thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Trong những năm qua, cùng
với sự trưởng thành và phát triển của Đảng bộ Khối các cơ quan TW, cơ chế chính
sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách đã được
cấp ủy các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Do vậy,

2


đã từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách
đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng để tổ chức thực hiện toàn diện nhiệm vụ công
tác xây dựng Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng, nhiệm vụ cấp ủy giao và các
yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng.
Những năm qua, công tác tổ chức cán bộ luôn được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm, chú trọng và đạt được những kết quả quan trọng; đã từng bước xây dựng
được một đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp; Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, công tác tổ chức, cán bộ nói chung và đội ngũ
cán bộ công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành nói riêng vẫn
còn nhiều hạn chế, tồn tại cần tập trung giải quyết. Đó là việc đánh giá, bố trí, sử
dụng cán bộ, công chức còn chủ quan, chưa hợp lý; công tác điều động, luân chuyển
cán bộ, công chức chưa khoa học, còn nặng về cơ cấu, lúng túng, bị động dẫn đến
hụt hẫng đội ngũ cán bộ; chế độ, chính sách ưu đãi tuy đã được quan tâm nhưng
chưa đồng bộ, chưa thỏa đáng, còn nhiều bất cập nên chưa đủ sức thu hút đối với
người có tài vào làm việc trong các ngành xây dựng đảng; công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ chưa gắn với yêu cầu, chất lượng đào tạo chưa có sự chuẩn hóa trong

công tác tuyển dụng; công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ chuyên
ngành về công tác xây dựng đảng còn ít; chưa chuyên sâu, chưa thường xuyên và
hiệu quả đào tạo còn thấp. Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức còn mất cân đối, thiếu
đồng bộ, chưa hợp lý; quy hoạch cán bộ còn lúng túng, bị động, chắp vá. Chưa kiên
quyết sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, công chức nhằm thay thế những cán bộ,
công chức không hoàn thành nhiệm vụ, hoặc yếu kém về phẩm chất và năng lực;
vẫn còn tình trạng cục bộ, khép kín cán bộ ở một số bộ, ngành. Dẫn đến chất lượng,
hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của một số công chức chưa cao, đôi khi còn có sự nể
nang, ngại va chạm trong công tác, có sự chồng chéo, chưa xác định rõ trách
nhiệm… Chính điều này dẫn tới một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức ở cơ sở
phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng
phí… làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.

3


Do đó, việc xây dựng chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác
đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW hiện nay để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
chính trị được giao trong công tác xây dựng đảng là vấn đề hết sức quan trọng.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ chính trị của đơn vị nơi đang
công tác, học viên lựa chọn đề tài: “Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm
công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành trung ương” để nghiên cứu và làm
luận văn Thạc sĩ Chính sách Công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xây dựng chính sách phát triển cán bộ, công chức là vấn đề có tầm
quan trọng đặc biệt, vì vậy luôn là mối quan tâm của các nhà hoạch định chính sách
và các nhà khoa học. Đến nay, có nhiều công trình khoa học mang tính lý luận và
thực tiễn nghiên cứu về vấn đề này, điển hình như:
- Sách tham khảo: “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, PGS.TS

Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc
gia, xuất bản năm 2001.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước KX.04.09 do TS.Thang Văn Phúc và
TS.Nguyễn Minh Phương làm chủ nhiệm:“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân”, năm 2005.
- Đề tài “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương trong hệ thống chính trị nước ta” của Ban Tổ chức TW nghiên cứu về
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
- “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra Đảng trên địa
bàn tỉnh Nam Định”, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Quang Hưng, Đại học
Nông nghiệp Hà Nội, năm 2013.
-“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật của Bùi Thị Minh Hoài,
Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2013.

4


Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn quan trọng của công tác cán bộ trong tình hình mới. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về Chính sách phát triển
cán bộ, công chức làm công tác đảng. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học, các tác giả có liên quan về chính sách công tác cán bộ nói chung và Chính sách
phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng nói riêng sẽ là nguồn tư liệu để học
viên tham khảo trong quá trình nghiên cứu viết luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở phân tích, cơ sở lý luận về Chính sách
cán bộ, công chức làm công tác đảng, để đánh giá thực trạng cán bộ, công chức làm

công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW, một số kết quả công tác đã đạt
được từ năm 2010 đến năm 2016. Từ đó đề xuất các quan điểm, định hướng và giải
pháp hoàn thiện chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên
trách tại các bộ, ngành TW, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm
công tác đảng nói chung; cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các
bộ, ngành TW và Đảng bộ Khối các cơ quan TW nói riêng trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích những vấn đề lý luận về xây dựng chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức làm công tác đảng.
- Thực trạng triển khai thực hiện các giải pháp và công cụ chính sách phát triển
cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW hiện nay.
- Kết quả mục tiêu thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công
tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW từ năm 2010 đến năm 2016.
- Đánh giá vai trò của các chủ thể chính sách tham gia thực hiện chính sách
phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW.
- Đánh giá môi trường thể chế thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công
chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW.

5


- Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công
chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW.
- Đề xuất các quan điểm, định hướng và giải pháp nhằm xây dựng chính sách
phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách phát triển
cán bộ, công chức làm công tác đảng, thực tiễn đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW và việc xây dựng chính sách phát triển

cán bộ, công chức làm công tác đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan TW và ở các
đảng bộ bộ, ngành TW. Ngoài ra cũng nghiên cứu một số vấn đề về cán bộ, công
chức làm công tác đảng (kiêm nhiệm) ở các cấp thuộc các bộ, ngành TW từ năm
2010 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ; quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức nhà nước nói chung và làm công tác đảng nói riêng.
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ
nghĩa Duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, luận văn có sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, thống kê tổng
hợp và sử dụng nguồn tài liệu thứ cấp và sơ cấp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương
đối toàn diện về xây dựng Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác
đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW nên có một số đóng góp về khoa học sau:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò của những vấn đề lý luận về xây
dựng chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng.

6


- Kết quả mục tiêu thực hiện Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm
công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW từ năm 2010 đến năm 2016.
- Đánh giá thực trạng triển khai thực hiện chính sách và nguyên nhân của
thực trạng thực hiện Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
chuyên trách tại các bộ, ngành TW hiện nay.
- Đánh giá vai trò của các chủ thể chính sách tham gia thực hiện Chính sách

phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW.
- Đánh giá môi trường thể chế thực hiện Chính sách phát triển cán bộ, công
chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện Chính sách phát triển cán bộ, công
chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng Chính sách phát
triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có giá trị tham khảo cho việc kiện toàn, xây dựng Chính sách phát
triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW trong
giai đoạn hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận Chính sách phát triển cán bộ, công chức
làm công tác đảng chuyên trách.
Chương 2: Thực trạng thực hiện Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm
công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, phương hướng, mục tiêu và giải pháp hoàn thiện
Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ,
ngành TW.

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC LÀM CÔNG TÁC ĐẢNG CHUYÊN TRÁCH
1.1. Khái niệm chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
1.1.1. Khái niệm cán bộ

Khái niệm “cán bộ” được sử dụng khá lâu và phổ biến tại các nước xã hội
chủ nghĩa nó bao hàm các loại nhân sự thuộc khu vực nhà nước và các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Thuật ngữ khi đó thường dùng là “cán bộ, công
nhân viên chức”, bao quát tất cả những người làm công hưởng lương từ nhà nước,
kể từ những người đứng đầu một cơ quan tới các nhân viên phục vụ như lái xe, bảo
vệ hay lao động tạp vụ. Ở nước ta từ “cán bộ” được dùng phổ biến trong thời kháng
chiến chống Pháp. Ban đầu, từ này được dùng nhiều trong quân đội để phân biệt
chiến sĩ và cán bộ, chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở lên.
Dần dần, từ “cán bộ” được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến
thoát ly, để phân biệt với nhân dân. Khi nói về cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa
ra định nghĩa: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém,
có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong” Trong tác phẩm “sửa đổi lề lối làm việc” (1947)
[36, tr.40]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, cán bộ là "1. Người làm việc trong cơ quan
nhà nước. 2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ
trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ tổ chức, cán bộ đại đội" [48, tr.249].
Trải qua một thời gian dài cho đến trước khi Luật cán bộ, công chức được
ban hành năm 2008, trong nhận thức cũng như trong các hoạt động quản lý, chúng
ta chưa xác định được rõ ràng các khái niệm: cán bộ; công chức; viên chức. Cùng
với xu hướng toàn cầu hóa, trên cơ sở những thành tựu của sự phát triển kinh tế - xã
hội, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, trọng tâm là xây dựng Nhà nước Pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã đặt ra nhu cầu điều chỉnh pháp luật ngày càng

8


rõ ràng về đội ngũ cán bộ, công chức. Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày

13/11/2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010 đã quy định tại điều 4 chương
I cụ thể như sau: Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở TW, ở tỉnh, thành phố trực thuộc TW, ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước [41, tr.1]. Theo quy định này, cán bộ luôn gắn liền với chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ; hoạt động của họ gắn với quyền lực chính trị được nhân dân hoặc các
thành viên trao cho và chịu trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
1.1.2. Khái niệm công chức
Công chức là một khái niệm được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế
giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên trong các
cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương. Nhưng do tính đặc thù của
từng quốc gia nên quan niệm công chức ở các nước không hoàn toàn đồng nhất. Có
nước chỉ giới hạn công chức trong phạm vi những người tham gia hoạt động quản
lý nhà nước. Một số nước khác có quan niệm rộng hơn, công chức bao gồm tất cả
những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức có tính chất công quyền.
Ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành, gắn liền với sự phát triển
của nền hành chính nhà nước. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về công
chức là Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, tại Điều 1 quy định: “công chức là những công dân Việt Nam được chính
quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính
phủ, ở trong hay ngoài nước, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”.
Sau đó suốt một thời gian dài, khái niệm công chức ít được sử dụng, thay vào
đó là khái niệm cán bộ, công nhân viên nhà nước, không phân biệt công chức, viên
chức với công nhân.
Thực hiện công cuộc đổi mới, trước yêu cầu khách quan của tiến trình cải
cách nền hành chính nhà nước và đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà

9



nước, thuật ngữ công chức được sử dụng trở lại. Tại Nghị định số 169/HĐBT ngày
25/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng, tiếp đó là Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày
17/11/1998 của Chính phủ, Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của
Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan
nhà nước, khái niệm công chức được đề cập một cách rõ ràng, cụ thể; xong vẫn
chưa phân biệt công chức hành chính với công chức sự nghiệp.
Đến nay, trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của đời
sống chính trị pháp lý, Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực từ ngày
01/01/2010 quy định rõ: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở TW, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn
vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [41, tr.1].
1.1.3. Khái niệm cán bộ, công chức làm công tác đảng
Hướng dẫn thực hiện Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Nghị định số
06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định căn cứ xác định công
chức: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được
bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật,
làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị và chia công chức thành 7 nhóm: Công
chức trong các cơ quan Đảng; công chức trong Văn phòng Chủ tịch nước, Văn
phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước; công chức trong Bộ, cơ quan ngang Bộ, tổ
chức khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập; công chức trong cơ quan


10


hành chính cấp tỉnh, cấp huyện; công chức trong hệ thống tòa án nhân dân; công
chức trong hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân; công chức trong cơ quan của tổ chức
chính trị - xã hội” [14, tr.2].
Theo nghị định này thì cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách tại
Đảng bộ Khối các cơ quan TW và tại các bộ, ngành TW được hiểu như sau:
- Ở Đảng bộ Khối các cơ quan TW (là Đảng bộ tương đương cấp tỉnh):
Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và
người làm việc trong Văn phòng, Cơ quan UBKT, các Ban xây dựng đảng của
Đảng ủy Khối các cơ quan TW. Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp
phó của người đứng đầu và người làm việc trong Văn phòng, Ban Tổ chức, Ban
Tuyên giáo, Ban Dân vận, Cơ quan UBKT của các Đảng ủy cấp trên cơ sở trực
thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan TW.
Cán bộ, công chức làm công tác đảng là một bộ phận cấu thành trong đội ngũ
cán bộ, công chức nói chung. Trong đó, cán bộ, công chức làm công tác đảng
chuyên trách là những người tham mưu, giúp việc cho cấp ủy đảng các cấp và công
tác tại các Ban xây dựng đảng ở TW, ở tỉnh (thành), quận, huyện, thị xã, thị trấn....
Như vậy, “Cán bộ, công chức làm công tác đảng: là khái niệm chỉ những
người làm công tác đảng trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể hưởng lương
từ ngân sách có chức năng tham mưu cho lãnh đạo trong việc nghiên cứu, xây
dựng, thẩm định, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước. Cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên
trách là những người làm công tác xây dựng trong cơ quan của Đảng”.
1.1.4. Khái niệm chính sách, chính sách công
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính
sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào

đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất
của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”

11


Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách là sách lược và
kế hoạch cụ thể để đạt được mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung
và tình hình thực tế”.
Kinh tế gia Franc Ellis lại cho rằng: “Chính sách được xác định như là
đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế,
kể cả mục tiêu mà Chính phủ tìm kiếm và lựa chọn các phương pháp để theo đuổi
các mục tiêu đó”.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm
đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế
mà đề ra”.
Theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể
chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo ra sự
ưu đãi một hoặc một nhóm xã hội, kích thích vào động cợ hoạt động của họ nhằm
thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống
xã hội”. Theo tác giả thì khái niệm “hệ thống xã hội” được hiểu theo một ý nghĩa
khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp,
một nhà trường…
Những quan điểm trên đề cập đến phạm trù chính sách theo những khía cạnh
khác nhau và theo những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, khi đề cập đến phạm trù
chính sách cần phải làm rõ: chính sách là gì? Ai là người tạo ra nó? Nó tác động đến
ai, đến cái gì? Từ yêu cầu trên có thể hiểu rằng, chính sách là công cụ, là biện pháp
can thiệp của Nhà nước vào một ngành, một lĩnh vực hay toàn bộ nền kinh tế theo
những mục tiêu nhất định, với những điều kiện thực hiện nhất định và trong một
thời gian xác định.

Khoa học về chính sách công được nghiên cứu ở phương Tây từ những năm
1940 của thế kỷ XX. Nhưng phải đến những năm 1980, chính sách công mới phát
triển nhanh chóng và được coi như một lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt với các lý
thuyết và các cách tiếp cận của mình. Ở Việt Nam, chính sách công mới được nghiên
cứu vào những năm cuối của thập niên 1990 và những năm đầu của thế kỷ XXI. Là

12


một vấn đề mang bản chất xã hội - nhà nước, chính sách công được nghiên cứu,
nhìn nhận từ các góc độ sau:
- Chính sách công là sản phẩm của một quá trình thực thi quyền lực chính trị.
- Quá trình hoạch định chính sách chủ yếu được diễn ra trong bộ máy Nhà nước.
- Quá trình hoạch định chính sách bao hàm sự trao đổi thông tin và các
nguồn lực, thảo luận, thương thuyết giữa và trong các thể chế nhà nước.
- Quá trình hoạch định chính sách cũng bao hàm sự tương tác với các tổ chức
bên ngoài nhà nước. Nội dung, sự khăng khít và thời gian của những tương tác này
cũng là những chủ đề quan trọng của việc nghiên cứu chính sách công.
- Mục đích căn bản của chính sách công là hướng tới việc làm tăng khả năng
có thể xảy ra của một hiện tượng xã hội đang khao khát.
- Các thể chế nhà nước có quyền và trách nhiệm đối với các vấn đề công
cộng thường chính thống hoá các hoạt động của họ bằng cách tuyên bố rằng, những
chính sách của họ là vì lợi ích chung chứ không thiên vị một nhóm, một khu vực,
hoặc một cá nhân nào.
TS.Đặng Ngọc Lợi trong bài viết đăng trên Tạp chí Kinh tế và dự báo (số
tháng 1 năm 2012) tuy không đưa ra định nghĩa về chính sách công nhưng cho rằng
chính sách công là chính sách của nhà nước, của chính phủ (do Nhà nước, do Chính
phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của
mỗi nước. So với các quan niệm trên thì điểm khác căn bản trong cách tiếp cận
nhận thức về chính sách công là tính công của chính sách, tính công thể hiện trong

quan niệm của TS.Đặng Ngọc Lợi là nhà nước, Chính phủ khác với quan niệm của
các học giả Âu Mỹ xem tính công của chính sách là công cộng (công chúng, đối
tượng chịu sự điều chỉnh, tác động của chính sách).
PGS.TS Lê Chi Mai cho rằng: “Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về
định nghĩa chính sách công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí
rộng rãi”. Tuy vậy theo bà, chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất
như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công không chỉ là
các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn

13


(thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt
ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định; chính sách công gồm
nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau. Trong bài viết của Bà còn đưa ra
khái niệm “chính sách tư” là chính sách do các cơ quan, tổ chức ban hành nhằm giải
quyết những vấn đề thuộc về nội bộ cơ quan, tổ chức, không có hiệu lực thi hành
bên ngoài phạm vi cơ quan, tổ chức.
Như vậy, so với các quan niệm đã nêu ta thấy có những điểm tương đồng
trong quan niệm về chính sách công như: tính nhà nước, tính công cộng, tính hành
động thực tiễn (coi quá trình thực hiện là một phần của chính sách công).
Bên cạnh việc nhìn nhận một cách toàn diện các khía cạnh của khái niệm
chính sách công từ nhiều góc độ, khái niệm “chính sách công” được định nghĩa một
cách ngắn gọn như sau: “Chính sách công là những đường hướng ứng xử cơ bản
của nhà nước với những vấn đề chính sách phát sinh trong đời sống cộng đồng
bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển xã hội và quản lý xã hội”
(Võ Khánh Vinh, chương trình đào tạo thạc sĩ chính sách công năm 2013 Học viện
Khoa học xã hội); hay “chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có
liên quan của nhà nước nhằm lưạ chọn các mục tiêu cụ thể với các giải pháp công
cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định"

(Đỗ Phú Hải, chương trình đào tạo thạc sĩ chính sách công năm 2014 Học viện
Khoa học xã hội).
Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính cũng đã có định nghĩa về chính sách
công như sau: “Chính sách công là chiến lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu
bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tâm của Nhà nước. Chính sách
công cho phép chính phủ đảm nhiệm vai trò của người cha đối với cuộc sống của
nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gìn hạnh phúc và bảo vệ an toàn Tổ quốc”.
1.1.5. Khái niệm chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: chính sách phát triển cán
bộ, công chức làm công tác đảng bao gồm nhiều hoạt động từ tuyển dụng, tiếp
nhận, đánh giá, bố trí, sử dụng, quy hoạch, điều động, luân chuyển, đào tạo, bồi

14


dưỡng, thực hiện các chế độ chính sách... đối với cán bộ, công chức để hình thành
một tập thể cán bộ, công chức trong Cơ quan chuyên trách Đảng bảo đảm về chất
lượng, phù hợp về số lượng và cơ cấu để hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của
Điều lệ Đảng.
Trong đề tài này đi sâu nghiên cứu nội dung Chính sách phát triển cán bộ,
công chức làm công tác đảng chuyên trách tại các bộ, ngành TW. Bởi lẽ kết quả
hoạt động của đảng bộ, chi bộ các cấp phụ thuộc vào kết quả công tác của mỗi cá
nhân cán bộ, công chức trong CQCTĐ-ĐT (CQCTĐU, VPĐU). Tuy nhiên, khi
nghiên cứu về Chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên
trách tại các bộ, ngành TW cũng cần nghiên cứu thêm về đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác đảng bán chuyên trách và kiêm nhiệm vì kết quả hoạt động của các
đảng ủy, chi ủy các cấp có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác đảng bán chuyên trách và kiêm nhiệm.
1.2. Vấn đề chính sách phát triển cán bộ, công chức làm công tác đảng
1.2.1. Xây dựng về số lượng

Cán bộ, công chức làm công tác đảng là lực lượng nòng cốt, là một trong
những nhân tố quyết định việc thực hiện nhiệm vụ của cấp ủy đảng và các cơ quan
của Đảng các cấp, mỗi cán bộ, công chức trong các cơ quan Đảng đều chịu sự lãnh
đạo, chỉ đạo của ban chấp hành mà trực tiếp là ban thường vụ cấp ủy cấp mình. Thực
tế đó yêu cầu trong công tác cán bộ phải chấp hành các quy định của Điều lệ Đảng về
tổ chức hoạt động của cấp ủy đảng, quy định của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và
những quy định về công tác cán bộ.
Theo các văn bản: Hướng dẫn số 01-HD/TW ngày 05/01/2012 của Ban Bí thư
về một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng; Quy định số 219-QĐ/TW, ngày
27/12/2013 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan
chuyên trách tham mưu giúp việc tỉnh ủy, thành ủy; Quy định số 220-QĐ/TW ngày
27/12/2013 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan
chuyên trách tham mưu giúp việc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc
tỉnh ủy, thành ủy; Quy định số 215-QĐ/TW ngày 5/12/2013 của Ban Bí thư về chức

15


năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của đảng ủy cấp trên trực tiếp tổ chức
cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan TW; Hướng dẫn số 11-HD/UBKTTW
ngày 21/10/2014 của Ủy ban Kiểm tra TW về công tác nhân sự UBKT tại đại hội
đảng bộ các cấp tiến tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Khối các cơ quan TW: - Số lượng từ 9 đến 11 ủy
viên (do Đảng ủy Khối quyết định). - Các ủy viên, chuyên trách gồm: Chủ nhiệm,
từ 2 đến 3 phó chủ nhiệm và từ 3 đến 5 ủy viên; trong đó có 2 cấp ủy viên, 1 ủy viên
Ban Thường vụ Đảng ủy làm chủ nhiệm và 1 cấp ủy viên làm phó chủ nhiệm
thường trực. - Ủy viên kiêm chức là cấp ủy viên phụ trách công tác tổ chức, cấp ủy
viên phụ trách công tác khác, bí thư hoặc phó bí thư, chủ nhiệm UBKT Đảng ủy
trực thuộc Đảng ủy khối.
Ủy ban kiểm tra đảng ủy cấp trên cơ sở: - Số lượng từ 5 đến 7 ủy viên (do cấp

ủy cấp trên cơ sở quyết định), trong đó chủ nhiệm là ủy viên Ban Thưởng vụ Đảng
ủy, có từ 1 đến 2 phó chủ nhiệm (phó chủ nhiệm thường trực là chuyên trách) và một
số ủy viên chuyên trách. - Ủy viên kiêm chức gồm đồng chí trưởng ban hoặc phó
trưởng ban tổ chức là cấp ủy viên và chánh thanh tra cùng cấp (nơi không có chánh
thanh tra cùng cấp là đồng chí phó bí thư hoặc chủ nhiệm UBKT đảng ủy trực thuộc).
Ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở: - Số lượng từ 3 đến 5 ủy viên (do Đảng ủy
cơ sở quyết định), trong đó đồng chí phó bí thư hoặc ủy viên ban thường vụ, thường
trực cấp ủy làm chủ nhiệm, Trường hợp không có ban thường vụ cấp ủy thì đồng
chí phó bí thư làm chủ nhiệm; phó chủ nhiệm là cấp ủy viên hoặc đảng viên. - Các
ủy viên khác có thể là cấp ủy viên hoặc đảng viên phụ trách công tác đoàn thể, bí
thư chi bộ, thanh tra nhân dân. - UBKT của đảng ủy cơ sở xã, phường, thị trấn;
những tổ chức đảng trong cơ quan và doanh nghiệp có từ 300 đảng viên trở lên thì
bố trí 1 ủy viên chuyên trách làm phó chủ nhiệm.
Đảng ủy bộ phận và chi bộ: Đảng ủy bộ phận và chi bộ không lập ủy ban
kiểm tra; tập thể cấp ủy, chi bộ thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và phân công 1
cấp ủy viên phụ trách. Ngoài ra, có thế lựa chọn phân công một số đảng viên giúp
đồng chí cấp ủy viên phụ trách làm công tác kiểm tra, giám sát.

16


Do vây, biên chế cán bộ, công chức làm công tác đảng chuyên trách của
đảng ủy thực hiện theo Hướng dẫn số 01-HD/TW ngày 05/01/2012 của Ban Bí thư
về một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng, bố trí trong tổng số biên chế được
giao của cơ quan, đơn vị. Đối với đảng bộ có dưới 2000 đảng viên, bố trí không quá
6 cán bộ chuyên trách, đối với đảng bộ có từ 2000 đến dưới 3000 đảng viên bố trí
không quá 7 cán bộ chuyên trách, từ 3000 đến dưới 5000 đảng viên bố trí không
quá 9 cán bộ chuyên trách, từ 5000 đến dưới 10000 đảng viên bố trí không quá 12
cán bộ chuyên trách. Tăng cường bố trí cán bộ kiêm nhiệm công tác đảng, đảm bảo
không tăng biên chế [5].

Như vậy, có thể nói các văn bản của TW về tổ chức cán bộ đã quy định rất
cụ thể, chi tiết về cơ cấu tổ chức, bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác đảng chuyên trách phải đảm bảo đúng theo các quy định của TW về tổ
chức cán bộ và phù hợp với đặc điểm tình hình của từng đơn vị, tổ chức, quy định cụ
thể về số lượng cán bộ, công chức của từng cấp ủy đảng. Đây là căn cứ để bộ phận
giúp việc tham mưu với cấp ủy trong công tác tuyển dụng, quy hoạch, bố trí sắp xếp
cán bộ, công chức cho phù hợp, nhằm góp phần nâng cao chất lượng trong công tác
xây dựng đảng và công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng của đảng bộ.
1.2.2. Xây dựng về chất lượng theo tiêu chuẩn, chức danh của đảng
Chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác đảng giữ vai trò
quyết định về kết quả của công tác của cấp ủy đảng và kiểm tra, giám sát của UBKT
các cấp, do vậy đòi hỏi cán bộ, công chức làm công tác đảng phải có đầy đủ các tiêu
chí về chất lượng cụ thể được quy định như sau:
* Phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng: cán bộ, công chức làm công
tác đảng phải phấn đấu, rèn luyện theo tiêu chuẩn cán bộ của Đảng và tiêu chuẩn
đảng viên nói chung và theo những tiêu chuẩn của cán bộ, công chức ngành Kiểm
tra Đảng nói riêng. Do tính chất công tác và đặc thù công việc, người làm công tác
đảng phải có các tiêu chuẩn sau:
Thứ nhất, phải tuyệt đối trung thành với mục đích, lý tưởng cách mạng của
Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương,

17


nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có nhiệm vụ bảo vệ sự trong
sạch, vững mạnh của các tổ chức đảng và đảng viên, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của
Đảng. Lòng trung thành và tính gương mẫu của người làm công tác đảng được thể
hiện ở lập trường kiên định, bản lĩnh chính trị vững vàng, có dũng khí, tính chiến
đấu cao khi thực hiện nhiệm vụ được giao, không ngả nghiêng, dao động trước
những tác động tiêu cực hoặc những cám dỗ đời thường trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng.
Thứ hai, phải có nhiệt tình cách mạng, sự năng động, sáng tạo, tinh thần
trách nhiệm và ý thức tổ chức, kỷ luật cao mà còn phải có ý thức tổ chức kỷ luật, tự
giác và nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên và các nguyên tắc,
trong công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện đúng quy trình, phương pháp công tác
kiểm tra, giám sát; giữ bí mật nội dung, tài liệu; thực hiện đúng quy trình về kỷ luật
báo cáo, phát ngôn... Nhiệt tình cách mạng và tinh thần trách nhiệm của người làm
công tác đảng thể hiện ở việc yên tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề, ý chí phấn
đấu, sự năng động, sáng tạo để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác.
Kiên quyết khắc phục và không chịu lùi bước trước mọi khó khăn, trở ngại trong
công tác và đời sống. Tập trung trí tuệ, năng lực, chủ động và sáng tạo thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao. Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ động cơ trong
sáng, kiên quyết đấu tranh chống những hành động vô tổ chức, vô kỷ luật, vô trách
nhiệm, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Tôn trọng
sinh mệnh chính trị của cán bộ, đảng viên và uy tín của tổ chức đảng. Cán bô, công
chức làm công tác kiểm tra đảng khi xem xét, kết luận, xử lý kỷ luật phải bảo đảm
công minh, chính xác, kịp thời, có lý, có tình. Bảo vệ cái đúng, đấu tranh với những
sai trái. Chịu trách nhiệm đầy đủ với các kết luận, quyết định mà bản thân mình
tham gia thảo luận và biểu quyết. Có tác phong trong công tác khoa học, thận trọng,
cụ thể, tỷ mỉ. Không chủ quan, đơn giản, qua loa, tắc trách. Tại Hội nghị cán bộ
kiểm tra toàn quốc năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở UBKT và cán bộ
kiểm tra: “Đặc biệt là phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải phê bình và tự

18


phê bình để là gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng. Phải chí công vô
tư, không thiên vị, không thành kiến” [38, tr.301]
Thứ ba, phải trung thực, khách quan, công tâm, trong sạch. Đặc biệt cách xem

xét, kết luận và đề xuất xử lý vụ việc của người làm công tác kiểm tra không chỉ tác
động trực tiếp tới đối tượng kiểm tra mà còn phát huy tác dụng giáo dục cán bộ, đảng
viên nói chung và củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng. Do vậy, cần có sự trung
thực, khách quan, công tâm của người làm công tác Kiểm tra Đảng. Đây vừa là phẩm
chất đạo đức vừa là cơ sở tạo nên sự tin cậy của tổ chức đảng và đảng viên.
Thứ tư, phải có tinh thần đoàn kết và tình cảm cách mạng sâu sắc. Đoàn kết
là nguyên tắc của Đảng, là phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên. Sức mạnh của
Đảng là ở kỷ luật nghiêm minh. Tinh thần đoàn kết gắn liền với tình cảm cách
mạng, tình thương yêu đồng chí và sự đoàn kết thống nhất cao trong toàn Đảng,
trong từng tổ chức và trong tình đồng chí. Do vậy, đoàn kết phải gắn liền với đấu
tranh để đảm bảo sự thống nhất, hoàn toàn không phải là sự xuê xoa, dễ dãi, vô
nguyên tắc, không để cho chủ nghĩa cá nhân chen vào làm suy yếu sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng.
Cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra đảng khi xem xét sự việc phải thấu
hiểu hoàn cảnh và điều kiện công tác, mặt mạnh, mặt yếu của tổ chức đảng và đảng
viên. Mạnh dạn đấu tranh và có phương pháp phù hợp trong đấu tranh, phê bình,
giúp đỡ đồng chí phân rõ đúng, sai. Kịp thời cổ vũ mặt tốt, nhân tố mới, bảo vệ
những tổ chức và cá nhân làm đúng và có phương hướng khắc phục mặt xấu, tiêu
cực, góp phần chủ động phòng ngừa vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên.
Biết thương yêu, quý trọng đồng chí nhưng không vì thế mà xuê xoa, bỏ qua một
cách tùy tiện đối với khuyết điểm, sai lầm của đồng chí. Biết nghiêm khắc với
khuyết điểm của bản thân, nhưng biết độ lượng với khuyết điểm của đồng chí.
Không xa lánh mà phải gần gũi giúp đỡ đồng chí khi có khuyết điểm, sai lầm.
Tinh thần đoàn kết và tình cảm cách mạng là điều kiện để cán bộ, công chức
làm công tác kiểm tra xem xét, kết luận và xử lý vụ việc có lý, có tình. Đồng thời, đây
cũng là điều kiện để thực hiện tốt việc phối hợp công tác trong nội bộ và với các

19



ngành, góp phần giúp cấp ủy có giải pháp đúng đắn trong việc giải quyết các hiện
tượng mất đoàn kết, bè phái, cục bộ, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
* Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ:
Thứ nhất, về năng lực:
Cán bộ, công chức làm công tác đảng phải có kiến thức, năng lực và chuyên
môn sâu, có khả năng ứng biến nhanh nhẹn, linh hoạt trong mọi lĩnh vực, mọi công
việc. Cán bộ, công chức làm công tác đảng là những người nắm vững chủ trương,
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, phải hiểu biết rộng nhiều lĩnh vực, nhưng phải tinh
thông nghiệp vụ như trong công tác tuyên truyền, giáo dục, kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật của Đảng; có phương pháp làm việc cơ bản; thực hiện phương hướng,
phương châm, nguyên tắc, thủ tục công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
của Đảng một cách linh hoạt, sáng tạo; Tài của người làm công tác đảng thể hiện ở
việc nắm bắt tốt diễn biến, tâm lý của đối tượng được tuyên truyên, giáo dục, kiểm
tra, giám sát; có tư duy khoa học, khả năng tổng hợp, rút ra những bài học kinh
nghiệm từ công tác thực tiễn, kịp thời đề xuất những biện pháp, giải pháp và tìm ra
nguyên nhân khuyết điểm, vướng mắc trong công tác tuyên truyền, giáo dục, kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng. Việc xây dựng hai tiêu chuẩn tài và đức
trong nhân cách của cán bộ, công chức làm công tác đảng là nền tảng quan trọng
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, góp phần
xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Có thể nói năng lực của cán bộ, công chức là yếu tố quyết định chất lượng
công việc và phải có đầy đủ các nội dung sau:
- Phương pháp làm việc khoa học với khả năng tư duy, cách xem xét, phân
tích, đánh giá sự việc, cách xử lý tình huống khoa học và sáng tạo.
- Có trình độ hiểu biết, nắm vững và sử dụng thành thục hệ thống các kỹ
năng nghiệp vụ về công tác xây dựng đảng.
- Có khả năng vận động, thuyết phục, cảm hóa con người một cách nhuần
nhuyễn, uyển chuyển. Đặc biệt trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật

20



của Đảng phải đảm bảo nguyên tắc, phương châm, phương pháp công tác đảng,
đồng thời vận dụng khả năng vận động, thuyết phục và cảm hóa con người.
- Phải có năng lực giao tiếp và khả năng nắm vững, biết tổ chức, thực hiện
các mối quan hệ giữa người với người trong xã hội.
Thứ hai, về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ:
Phải có trình độ học vấn: từ đại học trở lên, được đào tạo chuyên môn nghiệp
vụ đủ khả năng phân tích rõ đúng, sai khi giải quyết công việc.
Phải được trang bị trình độ lý luận chính trị: từ sơ cấp trở lên, được bồi
dưỡng cơ bản có hệ thống về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; nắm
vững Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng
thời kỳ; các quan điểm, nguyên tắc về xây dựng Đảng, nhiệm vụ xây dựng và chỉnh
đốn Đảng. Đối với cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra còn phải nắm vững
nhiệm vụ, quyền hạn, phương châm, phương pháp, đối tượng, trình tự công tác
kiểm tra, giám sát trong Đảng.
1.2.3. Công tác tuyển dụng cán bộ, công chức làm công tác đảng
Tuyển dụng cán bộ, công chức là khâu đầu tiên trong xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác đảng, có ý nghĩa quyết định chất lượng cán bộ, công
chức. Để đảm bảo cán bộ, công chức có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
của cơ quan, tổ chức thì cần phải xác lập các tiêu chuẩn, điều kiện tuyển dụng. Tiêu
chuẩn tuyển dụng cán bộ, công chức làm công tác đảng phải đảm bảo các yêu cầu
về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, trình độ năng lực, tác phong làm việc và
khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
Tuyển dụng cán bộ, công chức làm công tác đảng, ngoài việc tuân thủ các
quy định về tuyển dụng cán bộ, công chức nói chung còn phải tuân thủ các quy định
của Đảng.
1.2.4. Công tác đánh giá cán bộ, công chức làm công tác đảng
Đánh giá cán bộ, công chức là việc hệ trọng, một trong khâu quyết định của
công tác cán bộ; là cơ sở để thực hiện các khâu khác trong công tác cán bộ. Đánh giá

đúng cán bộ, công chức làm công tác đảng sẽ phát huy tiềm năng của từng cán bộ,

21


×