MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 3
2. Lịch sử nghiên cứu ......................................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 4
4. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 5
6. Bố cục đề tài .................................................................................................. 5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN DI TÍCH VÀ TỔNG QUAN
VỀ ĐỀN THÁC BỜ, TỈNH HÒA BÌNH ......................................................... 6
1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................ 6
1.1.1. Di sản văn hóa .................................................................................... 6
1.1.2. Di tích lịch sử văn hóa ........................................................................ 7
1.1.3. Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa ............................................................ 7
1.2. Khái quát về địa điểm tồn tại đền Thác Bờ........................................... 8
1.3. Tổng quan về đền Thác Bờ .................................................................. 10
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỊCH SỬ
VĂN HÓA ĐỀN THÁC BỜ HIỆN NAY ...................................................... 12
2.1. Các giá trị của khu di tích đền Thác Bờ .............................................. 12
2.2. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử văn hóa đền Thác Bờ ... 14
2.2.1. Hoạt động quản lý, nghiên cứu – bảo tồn.......................................... 14
2.2.2. Ứng dụng, phát huy giá trị di tích ..................................................... 15
2.3. Đánh giá thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị lịch - sử văn hóa của
đền Thác Bờ ................................................................................................. 16
2.3.1. Ưu điểm ........................................................................................... 16
2.3.2. Hạn chế ............................................................................................ 18
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ ĐỀN THÁC BỜ ............................... 21
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị
lịch sử văn hóa di tích đền Thác Bờ ........................................................... 21
3.1.1. Của các cấp chính quyền địa phương ............................................... 21
1
3.1.2. Của ban quản lý di tích ..................................................................... 22
3.2. Một số giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di tích .......... 23
3.2.1. Cơ sở pháp lý ................................................................................... 23
3.2.2. Các giải pháp chung ....................................................................... 25
3.2.3. Giải pháp về đường lối chính sách .................................................... 26
3.2.4. Giải pháp về giáo dục tuyên truyền .................................................. 26
3.2.5. Giải pháp về kinh tế tài chính ........................................................... 26
3.2.6. Giải pháp nâng cao trình độ quản lý ................................................. 27
3.2.7. Giải pháp đẩy mạnh công tác quản lý và khai thác di tích phục vụ cho
du lịch văn hóa ........................................................................................... 27
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 30
PHỤ LỤC........................................................................................................ 31
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy trong quá
trình hoạt động thực tiễn, xong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình.
Hòa Bình là tỉnh miền núi phía Bắc, là cửa ngõ của khu Tây Bắc. Vị trí này
khiến Hòa Bình trở thành đầu mối giao thông quan trọng nối liền các tỉnh thuộc
vùng Tây Bắc với vùng đồng bằng châu thổ. Do những thuận lợi về vị trí địa lý
và điều kiện tự nhiên, cách đây hàng vạn năm đất Hòa Bình đã được con người
chọn làm nơi sinh sống.
Hiện nay, tuy là tỉnh có trình độ phát triển kinh tế còn tương đối thấp
nhưng lại được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho nhiều thắng cảnh đẹp, những đặc
sản nức tiếng gần xa như thắng cảnh vùng hồ thủy điện Hòa Bình nổi tiếng
không chỉ trong nước mà còn mang tầm quốc tế. Bên cạnh đó, Hòa Bình còn lưu
giữ được một hệ thống di tích lịch sử - văn hóa khá phong phú trong đó phải kể
tới đền Thác Bở. Tuy nhiên quá trình khai thác và sử dụng di sản văn hóa trong
đó có di tích đền Thác Bờ trong những năm qua đã đặt ra nhiều vấn đề về mặt lý
luận và thực tiễn trong việc bảo tồn và khai thác các giá trị của di sản văn hóa để
phục vụ cho phát triển du lịch. Bảo tồn cái gì, bảo tồn như thế nào, ai là chủ
nhân của tiến trình bảo tồn đó, từ tiềm năng di sản để tạo ra các sản phẩm du
lịch, các vấn đề về quản lý các di sản đặc biệt là đền Thác Bờ cần phải được tiến
hành như thế nào là hàng loạt những câu hỏi được đặt ra cần có sự giải đáp một
cách hợp lý để hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của di tích được thực hiện
một cách hợp lý và đúng đắn.
Xuất phát từ những lý do trên nên em quyết định chọn đề tài “Bảo tồn và
phát huy các giá trị lịch sử - văn hóa đền Thác Bờ, tỉnh Hòa Bình” làm đề tài
tiểu luận của mình với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu về di tích để từ đó có
thể đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích trong
giai đoạn hiện nay.
3
2. Lịch sử nghiên cứu
Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập tới đền thờ
Thác Bờ tỉnh Hòa Bình như: Bài viết “Đền Thác Bờ và lễ hội đềnThác Bờ”
trong cuốn sách “Địa danh lịch sử văn hóa Du lịch và thương mại” (2007), bài
viết về Đền Thác Bờ trong cuốn sách “Địa chí Hòa Bình” (2005) của nhà xuất
bản chính trị quốc gia, 2005)… đã nêu một cách khái quát về kiến trúc, lịch sử
và một số hoạt động tại đền Thác Bờ.
Những công trình nghiên cứu, bài viết từ nhiều góc độ nhìn nhận khác nhau
, cách tiếp cận khác nhau như dân tộc học, lịch sử, văn hóa…tất cả những công
trình này từng bước giúp ta nhận diện các di tích văn hóa cũ và mới trong quần
thể các di sản văn hóa đặc biệt là đền Thác Bờ một cách dễ dàng hơn. Tuy
nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về đền Thác Bờ nhằm
phát huy giá trị di tích gắn với việc phục vụ phát triển du lịch địa phương.
Trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu phục vụ cho bài tiểu luận thì
em nhận thấy rằng một số tài liệu công trình nghiên cứu phù hợp với yêu cầu đề
ra sẽ tiếp tục kế thừa để từng bước làm sáng tỏ các giá trị lịch sử - văn hóa của
di tích đền Thác Bờ, những tiềm năng du lịch mà di sản văn hóa đền Thác Bờ
tỉnh Hòa Bình hiện đang lưu giữ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các giá trị văn hóa và lịch sử của
di tích đền Thác Bờ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-
Không gian: Đền Thác Bờ huyện Đà Bắc và Cao Phong, tỉnh Hòa Bình
-
Thời gian: Từ năm 2000 đến nay
4. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị đền Thác Bờ trên cơ
sở điều tra, khảo sát các di tích lịch sử, văn hóa của ngôi đền.
4
- Đánh giá hiện trạng khai thác sử dụng các giá trị của đền Thác Bờ cho
phát triển du lịch.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và
phát huy giá trị di tích đền Thác Bờ hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát, thu thập thông tin
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp điền dã
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung đề tài
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo tồn di tích và tổng quan về đền Thác Bờ,
tỉnh Hòa Bình
Chương 2: Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử - văn hóa đền
Thác Bờ hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát
huy các giá trị đền Thác Bờ
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN DI TÍCH VÀ TỔNG QUAN
VỀ ĐỀN THÁC BỜ, TỈNH HÒA BÌNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Di sản văn hóa
Theo tác giả Quang Thông trong cuốn sách “Từ điển Tiếng Việt” (2006),
Nhà xuất bản Văn hóa – Thông Tin đã định nghĩa: “Di sản là cái của thời trước
để lại” [7, tr75], nó có vai trò vô cùng quan trọng trong diễn trình văn hóa của
một dân tộc nói riêng, và hiểu theo nghĩa rộng là của cả nhân loại nói chung.
Để tìm hiểu khái niệm di sản văn hóa trước hết cần phải hiểu thế nào là văn
hóa. Trên cơ sở phân tích các định nghĩa văn hóa, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm
đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên
và xã hội của mình” [8, tr33-34]. Thống nhất với quan điểm ấy, có thể hiểu di
sản văn hóa cũng chính là những sản phẩm sáng tạo đó. Tuy nhiên phải những gì
có giá trị mới được công nhận là di sản, theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa một
trong những khái niệm của di sản là “Giá trị tinh thần và vật chất của văn hóa
thế giới hay một quốc gia một dân tộc để lại: di sản văn hóa”.
Luật Di sản Văn hóa của Việt Nam tại Điều 1 đã nêu rõ di sản văn hóa
“bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh
thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đây có thể xem
là khái niệm về di sản văn hóa được sử dụng chung nhất ở nước ta hiện nay,
hoàn toàn tương tự khái niệm về di sản văn hóa được sử dụng trên thế giới. Điều
đó cũng có nghĩa di sản văn hóa cũng là của cải, là tài sản quốc gia và mọi công
dân phải có nghĩa vụ bảo vệ, giữ gìn.
Như vậy, trong di sản văn hoá của một dân tộc, thường được chia ra thành
hai loại:
6
- Di sản văn hoá vật thể: là những sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử- văn
hoá – khoa học, bao gồm di sản lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật cổ
vật, bảo vật quốc gia.
- Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị văn hoá- khoa
học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác bao gồm tiếng
nói, chữ viết, tác phẩm văn học - nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng,
diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền
thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, trang phục truyền
thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.
1.1.2. Di tích lịch sử văn hóa
Theo Hán Việt tự điển: Di là còn xót lại; Tích là tàn tích, dấu vết. Như vậy
di tích là tàn tích, dấu vết còn xót lại của quá khứ.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì di tích lịch sử văn hóa là tổng thể những công
trình, địa điểm, đồ vật hoặc tác phẩm, tài liệu có giá trị văn hóa được lưu lại.
Luật Di sản văn hóa của nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội khóa X
thông qua tại kì họp thứ 9 ngày 29 tháng 9 năm 2001 thì di tích lịch sử văn hóa
là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,bảo vật quốc gia thuộc
công trình địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa địa có sự kết hợp
giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mĩ,
khoa học.
1.1.3. Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử - văn hoá được xếp vào di sản văn hoá vật thể, mặc dù giá trị
cuả chúng nhiều khi lại ở giá trị tinh thần.
Quản lý di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật quốc
gia là hoạt động nhằm phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hư hỏng mà
không làm thay đổi những yếu tố nguyên gốc vốn có của di sản lịch sử- văn hoá
7
đồng thời nghiên cứu, phát huy các giá trị quý báu của các di sản đó. Hoạt động
này bao gồm:
- Tu bổ di sản lịch sử văn hoá là hoạt động nhằm tu bổ, sửa chữa, gia cố tôn
tạo di sản lịch sử.
- Phục hồi di sản lịch sử - văn hoá đã bị huỷ hoại trên cơ sở các cứ liệu
khoa học về di sản lịch sử - văn hoá.
- Tổ chức các hoạt động nhằm phát huy các giá trị của di sản.
Di sản lịch sử văn hoá là những công trình được xây dựng, những địa điểm,
đổ vật, tư liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như
có giá trị văn hoá khác, hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát
triển văn hoá xã hội.
Di sản lịch sử văn hoá tồn tại bằng những không gian, hình tượng muôn
hình muôn vẻ như một xóm làng, cánh đồng, khu rừng, khu phố. Một tầng nhà,
hang động, khúc sông, một hầm hào, một con đường hay một bức chạm khắc,
một công trình kiến trúc lẻ loi, một quần thể kiến trúc, một tác phầm nghệ thuật
riêng rẽ...
Đình, chùa là trung tâm văn hoá tín ngưỡng, là không gian sinh hoạt cộng
đồng, nơi chuyển tải yếu tố tâm linh mà thiên nhiên xung quanh đóng góp phần
quan trọng. Xây dựng theo luật “Phong thủy”, kiến trúc đình chùa còn thể hiện
trí tuệ, phẩm chất của người trụ trì hay hưng công tạo lập, luôn biểu đạt tối đa
giá trị tinh thần bằng phương tiện vật chất tối thiểu.
1.2. Khái quát về địa điểm tồn tại đền Thác Bờ
Hòa Bình là tỉnh miền núi thuộc phía nam Bắc Bộ, giới hạn ở tọa độ 20°19'
- 21°08' vĩ độ Bắc, 104°48' - 105°40' kinh độ Đông, tỉnh lỵ là thành phố Hòa
Bình nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội 73 km. Cũng giống như Ninh
Bình và Thanh Hóa, tỉnh Hòa Bình nằm giáp ranh giữa 3 khu vực: Tây Bắc,
Đông Bắc và Bắc Trung Bộ. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 4.662.5 km², chiếm
1,41% tổng diện tích tự nhiên của cả nước. Thu nhập bình quân đầu người:
1500 USD (tương đương 34.090.909 đồng) (1/2016). Hòa Bình là tỉnh miền núi,
8
tiếp giáp với phía tây đồng bằng sông Hồng, có địa hình núi trung bình, chia cắt
phức tạp, độ dốc lớn và theo hướng tây bắc - Đông Nam, phân chia thành 2
vùng: vùng núi cao nằm về phía tây bắc có độ cao trung bình từ 600 – 700 m,
địa hình hiểm trở, diện tích 212.740 ha, chiếm 44,8% diện tích toàn vùng; vùng
núi thấp nằm ở phía đông nam, diện tích 262.202 ha, chiếm 55,2% diện tích toàn
tỉnh, địa hình gồm các dải núi thấp, ít bị chia cắt, độ dốc trung bình từ 20 – 250,
độ cao trung bình từ 100 – 200 m.
Bên cạnh đó, hệ thống sông ngòi trên địa bàn tỉnh phân bố tương đối đồng
đều với các sông lớn như sông Đà, sông Bưởi, sông Lạng, sông Bùi...
Hòa Bình có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, mùa đông phi nhiệt đới khô lạnh, ít
mưa; mùa hè nóng, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng năm trên 23 °C. Tháng
7 có nhiệt độ cao nhất trong năm, trung bình 27 - 29 °C, ngược lại tháng 1 có
nhiệt độ thấp nhất, trung bình 15,5 - 16,5 °C.
Địa hình đồi núi trùng điệp với các động Thác Bờ, Hang Rết, động Hoa
Tiên. Sức người và thiên nhiên đã tạo cho Hòa Bình một vùng hồ sông Ðà rộng
lớn cho phép phát triển du lịch vùng lòng hồ và ven hồ với đầy đủ vịnh, đảo và
bán đảo và hệ động thực vật quý hiếm được bảo tồn.
Trước đền Thác Bờ thuộc xã Hào Tráng, sau nhiều lần thay đổi về địa giới
hành chính, hiện đền tọa lạc tại xã Thung Nai, huyện Cao Phong và xã Vầy Nưa,
huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.
Đền Thác Bờ phía tả ngạn thuộc huyện Đà Bắc nằm trên đỉnh đồi Hang
Thần ở xóm Phố Bờ. Từ dưới bến thuyền du khách phải leo hơn 100 bậc, sau đó
theo một triền dốc thoải mới mới đến nơi. Đền gồm 3 gian, mái đền bằng bê
tông cốt thép, được thiết kế theo kiểu vòm cuốn và kiến trúc mặt bằng hình chữ
đinh gồm: nhà Đại bái và nhà Hậu cung, phía trước đền gồm 5 cửa (ngũ quan).
Hiện nay tại di tích này còn lưu giữ được một quả chuông đồng được đúc vào
tháng 2, năm Thành Thái thứ 6.
Đền Thác Bờ phía hữu ngạn huyện Cao Phong tọa lạc trên sườn đồi Sầm
Lông, thuộc xóm Đền. Trước đây đền Thác Bờ chủ yếu được dựng lên từ tranh,
9
tre, nứa, lá ngay dưới chân Thác Bờ. Sau này, nước dâng cao do Nhà máy thủy
điện Hòa Bình trên Sông Đà khởi công xây dựng nên ngôi đền phải di rời lên
sườn núi ngay cạnh bờ sông. Vào mùa khô muốn thăm đền, du khách phải leo
bộ hết 108 bậc. Nhưng vào mùa mưa nước dâng lên sát nền móng đền, khách có
thể lên thẳng khi thuyền bè cập bến.
1.3.Tổng quan về đền Thác Bờ
Thác Bờ xưa còn gọi là thác Vạn Bờ, được tạo bởi hàng trăm mỏm đá lớn
nhỏ nhấp nhô như đàn voi khổng lồ giữa dòng sông Đà. Theo truyền thuyết, đền
thờ bà chúa Thác Bờ là Đinh Thị Vân – người Mường và một bà người Dao ở
Vầy Nưa, có công giúp vua Lê Lợi về quân lương, thuyền mảng vượt thác Bờ
tiến quân lên Mường Lễ, Sơn La dẹp loạn đảng Đèo Cát Hãn. Sau khi mất, hai
bà thường hiển linh giúp dân vượt thác an toàn, phù hộ cho trăm dân trong vùng
mưa thuận, gió hòa. Bởi vậy, nhân dân trong vùng phong cả hai là Bà chúa Thác
Bờ và lập đền thờ phụng.
Đền Thác Bờ nằm trong khu vực Thác Bờ giữa dòng sông Đà gồm có đền
Trình (đền Chúa) và đền Chầu (đền ông Chẩu). Trên đền thờ hội đồng các quan,
thờ Đức Đại Vương Trần Triều, thờ Chúa Thác Bờ và thờ Sơn Trang, nhưng chủ
yếu vẫn là thờ hai bà Chúa Thác người Mường và người Dao.
Theo truyền thuyết dân gian, vào khoảng năm 1430-1432, vua Lê Lợi niên
hiệu Thuận Thiên đem quân đi dẹp loạn giặc Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Sơn La.
Khi vua Lê Lợi kéo quân đến khu vực Thác Bờ thì thấy giữa dòng nước xoáy
phía trước là một thác nước hiểm trở xô bọt trắng trời, với muôn vàn mỏm đá
lởm chởm nên đoàn quân không thể tiến lên được. Khi đoàn quân của vua Lê
đến thác Bờ đã được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân trong vùng. Trong đó
có bà Đinh Thị Vân, người dân tộc Mường ở xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc và một
bà người Dao. Các bà kêu gọi nhân dân đứng lên vận động trai tráng trong bản
lên rừng xẻ ván, đóng thuyền độc mộc, kêu gọi nhân dân chặt nứa kết thành bè
mảng, góp lương thực, thực phẩm để nuôi quân và đã chèo thuyền đưa, dẫn quân
đi đánh giặc.
10
Khi đánh thắng giặc, các bà còn tổ chức lễ hội cho nhân dân mừng chiến
thắng để tiễn quân của nhà vua về kinh đô. Sự tích Đền Bờ hay còn gọi là sự tích
bà Chúa Thác gắn liền với với cuộc chinh phạt giặc do vua Lê chỉ huy và được
nhân dân địa phương ủng hộ bằng cách đóng bè, mảng đưa quân cùng với
thuyền rồng của nhà vua vượt thác Bờ trở về.
Khi nói về Thác Bờ, sách Đại Nam nhất thống chí đã chép như sau: “Ở địa
phận Đà Bắc, gần châu lị, đằng trước trông ra sông Đà, có núi Long Môn, tên
nữa là núi Thác Bờ, đá núi chắn ngang nửa dòng sông, thế nước xoáy mạnh ầm
ầm, trông rất dữ dội. Đầu đời Lý, quân đi đánh Ma Sa đóng ở mỏm Long thuỷ,
hồi đầu đời Lê đi đánh Đèo Cát Hãn, đường qua đê Long thuỷ, tức là chỗ này.
Ngay giữa ghềnh đá có một chỗ rộng chừng 5,6 trượng, người ta gọi là “ao vua”,
tức là bến sông Vạn Bờ xưa thuộc xã Hào Tráng, châu Đà Bắc”…lại có tên núi
nữa là núi Ngải. Sách Đại Thanh nhất thống chí chép: “núi ở huyện Gia Hưng;
trông ra sông cái…tương truyền trên núi có cây ngải tiên, mùa xuân nở hoa, sau
khi mưa, hoa rụng xuống nước, con cá nào nuốt phải hoa ấy thì vượt được Long
- môn mà hoá thành rồng. Nay núi Long môn châu Đà Bắc, trước mặt trông ra
sông Đà, gần đê Long thuỷ, có lẽ là đấy”. Phần chép về sông Đà, có đoạn như
sau: “có 83 thác nổi tiếng mà Vạn Bờ là thác nguy hiểm nhất; bờ bên hữu sông
là động Thượng và động Hạ thuộc Châu Mai, bờ bên tả là các động Tân An, Hào
Tráng, Hiền Lương và Dĩ Lí thuộc Châu Mộc”.
Ngày nay, thác Bờ và Đền Bờ đã trở thành điểm du lịch văn hóa tâm linh
nổi tiếng. Lễ hội đền Thác Bờ được mở từ ngày mùng 2 Tết đến hết tháng 4 âm
lịch. Mỗi ngày đền Thác Bờ đón hàng ngàn khách thập phương nô nức đến lễ
cầu may.
Trước đây đền Thác Bờ thuộc xã Hào Tráng tuy nhiên đền thờ cũ chìm
dưới hàng chục mét nước của thủy điện Hòa Bình. Sau nhiều lần thay đổi về địa
giới hành chính, hiện đền tọa lạc tại xã Thung Nai, huyện Cao Phong và xã Vầy
Nưa, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.
11
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
LỊCH SỬ - VĂN HÓA ĐỀN THÁC BỜ HIỆN NAY
2.1. Các giá trị của khu di tích đền Thác Bờ
Đền Thác Bờ có giá trị cảnh quan không gian lớn. Đền được xây dựng trên
vùng đất có quy mô lớn, rộng rãi, thoáng mát, xung quanh đền có hồ nước rộng
lớn, cây cối quanh năm xanh mát. Hơn thế mữa đền tọa lạc ở khu vực yên tĩnh,
trong lành nên càng tôn thêm giá trị đặc sắc.
Chính quyền và người dân cũng đã đầu tư để tôn tạo và xây dựng, mở
rộng thêm không gian đền, trồng thêm nhiều cây xanh, cây ăn quả, mở rộng khu
vực xung quanh đền và cải tạo cho sạch đẹp hơn. Điều này càng làm tăng thêm
giá trị về cảnh quan, không gian cho đền Thác Bờ, làm cho không gian đền càng
thêm thoáng mát, trong lành, tạo nên sức hấp dẫn đối với du khách khắp nơi
trong cả nước. Cảnh quan không gian tốt cũng góp phần tạo nên sự hứng thú cho
du khách và sẽ càng ngày càng thu hút được nhiều khách đến thăm đền hơn.
Di tích đền Thác Bờ đã để lại một giá trị lịch sử, cũng như giá trị văn hoá
hết sức to lớn đối với thế hệ chúng ta. Công trình kiến trúc và trang trí đã để lại
cho chúng ta những kinh nghiệm quý giá, những giá trị hết sức to lớn về trang trí
hoạ tiết hoa văn, về những giá trị nguyên bản của nó. Để chúng ta ngày nay tìm
hiểu và nghiên cứu về nét văn hóa xưa được thuận lợi hơn.
Các hệ thống di tích phản ánh các giá trị lịch sử, văn hoá của cư dân địa
phương đã được đúc rút qua nhiều thế hệ, nâng niu trong tâm thức, tình cảm của
người dân các địa phương. Các làng bản khu vực Thác Bờ và hồ thủy điện Hòa
Bình còn lưu giữ rất nhiều các mảnh vụn văn hoá truyền thống về các sự tích về
các điều linh ứng thể hiện ý thiêng “ứng thiên, thuận nhân” như các bà hiển linh
giúp dân, giúp nước…
Đền Thác Bờ có giá trị tâm linh, tinh thần to lớn đối với người dân Hòa
Bình nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.
12
Ngôi đền thờ những người có công với dân với nước trải qua hàng trăm
năm lịch sử nên rất linh thiêng. Vẻ cổ kính vốn có của đền cũng làm tăng thêm
tính thiêng đó.
Chính vì tính thiêng vốn có mà đền Thác Bờ luôn có rất đông đảo du
khách đến thăm viếng, trở thành một phần không thể thiếu trong tâm linh của
mỗi người dân.
Đền Thác Bờ là nơi nhân dân địa phương và du khách đến để cầu mong
những điều tốt đẹp nhất cho gia đình, cho bạn bè, là nơi để tận hưởng những
giây phút tĩnh tâm thoải mái nhất sau những ngày làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
Đền Thác Bờ đã trở thành một biểu tượng tâm linh tinh thần của tỉnh Hòa
Bình, là nơi mà mỗi một người dân nào dù đi bất cứ đâu cũng luôn tìm về.
Những hoạt động tín ngưỡng tại đền Thác Bờ với những nét linh thiêng,
trang nghiêm của nó, cũng đã ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tâm linh người dân
địa phương. Nó có giá trị văn hoá độc đáo trong đời sống tâm linh của cư dân.,
nhân dân địa phương cũng như nhân dân cả nước, hàng năm vào dịp lễ hội đã
đến đây thắp hương để tưởng nhớ tới công lao to lớn của những bậc tiền nhân và
thoã mãn như cầu tâm linh trong đời sống tinh thần của mình.
Đền Thác Bờ là một bộ phận đặc biệt của khu văn hoá quanh hồ thủy điện
Hòa Binh, nó mang trong lòng những yếu tố đặc trưng của một nền văn hoá lâu
đời trong một không gian văn hoá được xác lập, tạo dựng với rất nhiều yếu tố
chi phối khác nhưng đều làm tôn nên một không gian thiêng ngay giữa chốn non
nước, núi rừng.
Di tích đền Thác Bờ là một sản phẩm văn hoá có tính lịch sử và tính tổng
hợp các giá trị văn hoá độc đáo của một thời đại. Công trình kiến trúc đền chỉ
thật sự phát huy giá trị khi được đặt vào đúng không gian văn hoá của chính thời
đại của nó. Điều này là rất cần thiết cả về mặt thực tiễn và lý luận. Rõ ràng các
hoạt động văn hoá truyền thống, các hoạt động văn hoá dân gian được tái dựng
phải tôn tạo các yếu tố chân thực, khách quan. Các yêu cầu hiện thực về nội
13
dung, trình thức nghệ thuật cũng như thời điểm, thời gian, không gian sẽ tạo ra
tính “thiêng”, tính hấp dẫn, và những đồng cảm giữa hiện thực và quá khứ.
2.2. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử văn hóa đền Thác Bờ
2.2.1. Hoạt động quản lý, nghiên cứu – bảo tồn
Công tác quản lý đối với hoạt động của di tích đền Thác Bờ là rất cần thiết.
Để bảo tồn, phát huy giá trị của di tích, lễ hội đền Thác Bờ gắn với phát triển du
lịch thì trong công tác quản lý cần được chú trọng đặc biệt. Thực tế hiện nay,
công tác quản lý ở đền Thác Bờ còn nhiều vấn đề bất cập.
Đền Thác Bờ có Ban quản lý di tích chuyên trách như nhiều nơi khác
nhưng đội ngũ cán bộ chuyên môn có trách nhiệm theo dõi và quản lý di tích
còn tương đối mỏng và yếu. Tại di tích chỉ có các thủ nhang chuyên làm nhiệm
vụ trông coi đền. Đền cũng không có đội ngũ hướng dẫn viên giới thiệu, thuyết
minh về di tích cho khách tham quan. Ở đây cũng không có dịch vụ thu phí tham
quan đền. Hoạt động du lịch của đền do phòng Văn hóa vàThông tin quản lý và
theo dõi (căn cứ vào chức năng và nhiệm vụ của phòng Văn hóa Thông tin,
phòng quản lý các di tích của địa bàn) nhưng do đền nằm trên hai địa điểm khác
nhau đã gây ra sự chồng chéo và khó khăn trong công tác quản lý di tích và lễ
hội đền Thác Bờ.
Việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích đền Thác Bờ chưa được các cấp
quản lý quan tâm đúng mức. Công tác tu bổ và tôn tạo di tích phụ thuộc vào
nguồn kinh phí của tỉnh và nguồn tài trợ của các doanh nghiệp và nhân dân địa
phương mà thiếu sự chủ động của các cấp quản lý. Hiện nay chưa có quy định
cụ thể về thời gian cũng như kế hoạch tu bổ, tôn tạo di tích.
Các di tích trải qua quá trình tồn tại lâu dài đều không tránh khỏi sự tác
động của các yếu tố thuộc về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Những
yếu tố tự nhiên tác động thường xuyên tới di tích như khí hậu, thiên tai, độ
ẩm...đây đều là những yếu tố tác động tiêu cực đến công tác bảo quản các cấu
kiện kiến trúc của di tích. Bên cạnh những yếu tố của tự nhiên thì con người
cũng là một tác nhân đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tới di tích. Chính
14
vì vậy mà công tác bảo tồn các di tích là công việc không hề đơn giản đòi hỏi
những người làm công tác bảo tồn di tích phải thường xuyên nghiên cứu các vấn
đề liên quan đến di tích trên mọi phương diện như lịch sử, kiến trúc, mĩ
thuật...để có thể bảo tồn di tích một cách tốt nhất.
Thông thường, người ta sử dụng các hình thức tu bổ di tích như: Tu bổ với
quy mô lớn (sửa chữa lớn, tu sửa lớn) và tu bổ mang tính chất sửa chữa nhỏ (tu sửa
nhỏ). Căn cứ vào thực trạng di tích đền Thác Bờ hiện nay, trước mắt những người
làm công tác Quản lý văn hóa mà trực tiếp là Ban quản lý di tích đã chọn giải pháp
thứ hai tức là tu bổ mang tính chất sửa chữa nhỏ. Giải pháp này có nhiệm vụ bảo vệ
và tăng cường về mặt kĩ thuật để cho di tích, luôn giữ được trạng thái bảo quản ổn
định mà không làm thay đổi hình dáng vốn có của nó. Giải pháp này được tiến hành
bằng những hình thức như: Bảo dưỡng thường xuyên và định kỳ cho di tích; kiểm tra
về mặt kĩ thuật; phát hiện, ngăn chặn hoặc loại trừ kịp thời những nguyên nhân gây
hại cho di tích. Với giải pháp này chúng ta có thể tiến hành trên một số bộ phận của
di tích đền Thác Bờ đang bị mối mọt, mục nát như: Một số hoành, đầu bẩy, các
mảng chạm...bằng những kĩ thuật cụ thể như: bảo dưỡng, gia cố, tái định vị...
Với giải pháp gia cố thì ở các cấu kiện là các xà ăn mộng vào thân cột ta dùng
giải pháp tạm thời là dùng một miếng sắt có độ dày vừa phải sau đó bắt bu lông vào
thân cột và xà để cho tua mộng của cấu kiện được chắc chắn, tránh những hư hỏng
nặng tiếp theo. Nếu tiến hành gia cố kịp thời thì có thể sẽ tránh được tình trạng
xuống cấp nhanh của công trình.
2.2.2. Ứng dụng, phát huy giá trị di tích
Để bảo tồn và phát huy giá trị di tí ch đền Thác Bờ, chúng ta phải áp dụng
nhiều biện pháp đồng loạt . Trước hết, các nhà quản lý di tích đã và đang tiếp tục
đẩy mạnh và nâng cao chất lượng , hiệu quả hoạt động bảo tồn , phát huy giá trị
di tí ch gắn với phát triển du lị ch Hòa Bình. Phát huy các thế mạnh tiềm năng của
di tí ch với phát triển du lị ch văn hóa . Mặt khác, bên cạnh việc khai thác di tí ch
phục vụ tham quan du lịch , phải chú trọng giữ gìn , bảo vệ tốt di tích . Phải tăng
cường huy độn g các nguồn lực tài chí nh để đầu tư tu bổ
15
, tôn tạo di tí ch . Thực
hiện tốt phương châm khai thác , phát huy giá trị di tích phục vụ phát triển du
lịch đi đôi với bảo vệ , tôn vinh di tí ch . Đảm bảo gắn kết chặt chẽ giữa phát triển
văn hóa với phát triển kinh tế , giữa bảo tồn, phát huy giá trị di tích với phát triển
du lị ch.
Trong quá trì nh tu bổ , tôn tạo di tí ch cần tôn trọng tí nh nguyên gốc của di
tích. Các hoạt động tu bổ , tôn tạo di tí ch p hải có dự án, kế hoạch cụ thể được cơ
quan chức năng có thẩm quyền phê duyệt . Tuyệt đối tránh hiện tượng làm mới
di tí ch, biến dạng di tí ch . Đặc biệt cần ngăn chặn sự xâm hại di tích do các hoạt
động kinh doanh , xây dựng xung quanh khu vực di tí ch .
Di tí ch chỉ được bảo tổn và phát huy khi nó sống được trong lòng nhân dân ,
được nhân dân trân trọng và gì n giữ . Chính vì vậy công tác tuyên truyền giáo
dục về lịch sử, giá trị của di tích đối v ới nhân dân và đặc biệt là thế hệ trẻ rất cần
thiết. Ban quản lý di tí ch phối hợp với ngành giáo dục đưa chương trì nh giảng
dậy về di tí ch đền
Thác Bờ vào trong nhà trường . Thông qua các hoạt động
ngoại khóa , đưa học sinh , sinh viên tham quan di tí ch . Các hoạt động này nhằm
nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ những di sản văn hóa của dân
tộc mà cụ thể ở đây là di tí ch đền Thác Bờ. Đồng thời tuyên truyền , giới thiệu di
tích thông q ua các phương tiện thông tin đại chúng .
Công tác quản lý là khâu then chốt trong việc bảo vệ , phát huy giá trị của di
tích đền Thác Bờ trong thời điểm hiện nay .
2.3. Đánh giá thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị lịch - sử văn hóa
của đền Thác Bờ
2.3.1. Ưu điểm
Ngày nay, nền kinh tế nước ta có bước chuyển mình tích cực. Việt Nam đã
khẳng định vị thế của mình với thế giới về kinh tế, chính trị, xã hội. Cùng với
sự phát triển kinh tế xã hội, cuộc sống của người dân được đảm bảo, và như một
nhu cầu tất yếu, họ ước muốn trở về nguồn, về với những giá trị chân, thiện, mỹ.
Những giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc có cơ hội được gìn giữ và phát huy.
16
Chưa bao giờ xu hướng đề cao tâm linh, tín ngưỡng lại được nhân dân các địa
phương coi trọng như hiện nay. Di tích, lễ hội cổ truyền được tổ chức phục
dựng, hàng loạt các di tích văn hóa, lịch sử được đầu tư, khôi phục. Cũng như
các di sản văn hóa khác, di tích và lễ hội đền Thác Bờ được quan tâm tu bổ, tôn
tạo và phát huy giá trị. Đây là cơ hội cho các nhà quản lý, các doanh nghiệp khai
thác tối đa các giá trị di tích gắn với phát triển du lịch.
Những năm gần đay, nhận thức về vai trò của văn hóa ở nước ta được nâng
lên đúng với giá trị đích thực của nó. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân
tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người,
với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là động lực thúc đẩy vừa là mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội của chúng ta. Hiện nay trong quá trình hội nhập của đất
nước, văn hóa có vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân. Và khi nói
đến văn hóa thì không thể không nói đến Hòa Bình, nơi được ví là mảnh đất “địa
linh nhân kiệt”. Du lịch văn hóa lễ hội tại Hòa Bình mà đặc biệt là tại khu di tích
lịch sử văn hóa đền Thác Bờ đã có những đóng góp không nhỏ trong sự phát
triển du lịch văn hóa lễ hội của cả nước. Những hoạt động tích cực mà hoạt động
văn hóa mang lại đó là:
Trong lễ hội, mọi người cùng nhâu ôn lại truyền thống hào hùng của dân
tộc, cùng tự hào về các anh hùng có công dựng nước và giữ nước bảo vệ dân
tộc. Các lễ hội thường giúp cho con người ta hướng về cái thiện lòng nhân ái của
con người với con người.
Trong những năm qua , công tác tổ chức , quản lý lễ hội đền Thác Bờ khá
tốt. Các kỳ lễ hội diễn ra chu đáo , an toàn, tiết kiệm và là nh mạnh .Nét ưu điểm
nổi bật là lễ hội tổ chức theo đúng nghi lễ cổ truyền
, không pha tạp . Nhiều trò
chơi, trò diễn dân gian được phục hồi ví dụ như trò đẩy gậy , thi vừa hành quân
vừa thổi cơm…yếu tố đị a phương cũng được đưa vào các trò chơi, cuộc thi ví dụ
17
như cuộc thi tổ tôm điếm . Đôi khi lời minh họa quân cờ được địa phương hóa
thành những lời ca rất gần gũi và thân thuộc, nhắc đến địa danh của quê hương
mình. Lễ hội cũng đã thu hút một lực lượng lớn
quần chúng nhân dân đị a
phương tham gia vào lễ hội , họ là những người tạo nên tinh thần và lưu giữ lễ
hội đền Thác Bờ cho thế hệ sau . Qua các kỳ lễ hội , công tác tổ chức lễ hội đền
Thác Bờ đã đi vào nề nếp, ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh và nâng cao chất
lượng. Đặc biệt là công tác phục vụ khách du lịch . Đảm bảo du khách đến với lễ
hội có cảm giác an toàn , tính trật tự trong lễ hội . Hiện tượng mê tí n dị đoan , bán
hàng rong , chèo kéo khách du lị ch , bán hàng không đảm bảo chất lượng mà báo
chí đã nêu trong những kỳ lễ hội trước nay đã được khắc phục
. Đến với lễ hội
đền Thác Bờ những năm gần đây du khách đều có ấn tượng tốt về công tác tổ
chức an toàn, quy củ và trật tự trong suốt thời gian diễn ra lễ hội .
2.3.2. Hạn chế
Ngoài những tích vực mà hoạt động du lịch văn hóa lễ hội mang lại thì
cũng có rất nhiều những tiêu cực khi tổ chức lễ hội.
Khi nói đến lễ hội là phải có đong đảo người tham gia, đầy đủ các tầng lớp
trong xã hội, nếu chỉ có ít người thì không thể gọi đó là lễ hội được. Chính vì
vậy mà có rất nhiều những khó khắn cho công tác quản lý. Trước hết là do ý
thức của người dân và khách du lịch đến trẩu hội đã làm ảnh hưởng đến mội
trường xung quanh nơi diễn ra hoạt động lễ hội, làm ô nhiễm môi trường vì rác
thải bừa bãi, khói xe và các phương tiện giao thông gây nên.
Có rất nhiều khách từ khắp mọi nơi khác nhau dến tham quan nên phương
tiện đi lại đông, điều này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tắc nghẽn giao
thông rất nghiêm trọng có khi kéo dài hồ.
Trong lễ hội có rất nhiều các hoạt động không lành mạnh như lợi dụng lễ
hội và lòng tin của du khách đã hành nghê mê tín dị đoan, làm ảnh hưởng đến
nét đẹp của không gian văn hóa của lễ hội, làm mất đi bản chất của lễ hội.
18
Cũng trong dịp lễ hội các hoạt động ăn xin, trộm cắp, móc túi xảy ra khá
phổ biến. Chính vì thế đã làm ảnh hưởng đến nét đẹp của văn hóa bản địa.
Thêm vào đó là hiện tượng bán hàng, chèo kéo, đeo bám khách mua hàng,
gây mất trật tự làm ảnh hưởng đến lễ hội.
Các mặt hàng tăng giá, bắt chẹt khách, ngoài ra còn thêm vào đó là bắt
khách gửi xe với giá cao, làm mất đi vẻ trang trọng uy nghiêm của lễ hội.
Mô hình quản lý không thống nhất, hiệu quả quản lý thấp như việc tổ chức
bảo tồn và khai thác các Di tích do cấp huyện, xã quản lý có vi phạm nhưng Sở
VHTT & DL không nắm được, nguồn thu di tihcs không được quản lý chặt chẽ
để tái đầu tư cho di tích,việc bảo tồn di tích do thiếu cán bộ chuyên môn nghiệp
vụ am hiểu về Khoa học bảo tồn bảo tàng nên trong quá trình tổ chức các hoạt
động bảo tồn và khai thác di tích đã làm cho khu di tích phần nào mất đi cảnh
quan vốn có của nó.
Như vậy, việc xác lập cơ chế quản lý rất quan trọng, nó tạo nên cơ sở rõ
ràng cho việc tập trung nguồn lực cho công tác nghiên cứu,bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa ở đền Thác Bờ.Cơ chế quản lý rõ ràng sẽ làm rõ trách nhiệm
của các bên liên quan cũng như phương thúc tạo nguồn đầu tư cho khu di tích.
- Với nhiều lý do khác nhau, nhiều di tích bị xâm hại, lấn chiếm nhưng
chưa có nguồn kinh phí từ ngân sách để giải phóng, đến bù, giải tỏa;
- Quy định về kinh phí cho trùng tu, tôn tạo di tích nhiều nơi còn đánh giá,
thực hiện theo định mức của các công trình xây dựng khác;
- Kỹ thuật, nguyên tắc trùng tu, tôn tạo chưa được đảm bảo, thống nhất;
- Vật tư, nguyên liệu và công tác nghiên cứu khoa học giúp cho việc trùng
tu, tôn tạo còn hạn chế;
- Số lượng, chất lượng cán bộ quản lý di tích (Ban quản lý di tích), đời sống
cán bộ, chế độ ưu đãi... còn nhiều hạn chế;
19
- Việc tổ chức hoạt động, phối kết hợp khai thác giá trị di tích còn những
bất cập, hoạt động lễ hội tại di tích gắn với tâm linh còn bị lợi dụng...
- Vấn đề xã hội hóa trong trùng tu tôn tạo di tích và việc bảo đảm giá trị
gốc của di tích; mối quan hệ giữa gìn giữ, phát huy giá trị di tích và việc khai
thác, tổ chức hoạt động lễ hội tại di tích cũng còn hạn chế;
- Mối quan hệ giữa gìn giữ, phát huy giá trị di tích và việc khai thác di tích
để xây dựng sản phẩm du lịch phát triển kinh tế - xã hội; chiến lược quảng bá,
xúc tiến du lịch và việc tuyên truyền về giá trị của các di tích ít được quan tâm;
- Chủ trương bàn giao di tích cho các trường của ngành Giáo dục – Đào tạo
bảo vệ, quản lý, khai thác giáo dục truyền thống là đúng đắn nhưng triển khai và
thực hiện còn nhiều hạn chế.
20
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ ĐỀN THÁC BỜ
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị
lịch sử văn hóa di tích đền Thác Bờ
3.1.1. Của các cấp chính quyền địa phương
Bảo tồn, phát huy giá trị di tích đền Thác Bờ gắn với sự phát triển du lịch là
cách thức khai thác hiệu quả các giá trị truyền thống, văn hóa, lịch sử phục vụ
phát triển kinh tế,văn hóa xã hội của địa phương.
Trên cơ sở các Quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
các cấp quản lý địa phương xác định phương hướng quản lý, khai thác và phát
huy giá trị di tích đền Thác Bờ như sau:
- Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bảo tồn,
phát huy giá trị của di tích, lễ hội đền Thác Bờ ở thời điểm hiện tại và trong
tương lai. Trong quá trình tu bổ, tôn tạo phải đảm bảo và tôn trọng tính nguyên
gốc của di tích.
- Khai thác hiệu quả các thế mạnh giá trị vật thể và phi vật thể của di tích
gắn với phát triển du lịch. Bổ xung các yếu tố, giá trị văn hóa mới làm phong
phú nội dung lễ hội nhằm tạo nên tính hấp dẫn của điểm du lịch này.
- Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với di tích và lễ hội đền Thác
Bờ, đảm bảo hoạt động lễ hội và bảo tồn di tích đền Thác Bờ theo đúng pháp
luật và các văn bản pháp quy .
- Tăng cường đầu tư, khai thác giá trị di tích, lễ hội đền Thác Bờ gắn với
phát triển du lịch. Mục tiêu biến di tích và lễ hội đền Thác Bờ trở thành một sản
phẩm du lịch văn hóa đặc sắc, hấp dẫn, ngày càng thu hút được nhiều du khách
trong và ngoài nước tới tham quan.
- Mở rộng không gian du lịch của di tích và lễ hội đền Thác Bờ. Xây dựng
các tuyến du lịch lễ hội; du lịch văn hóa kết hợp với du lịch sinh thái và nghỉ
dưỡng liên tỉnh.
21
3.1.2. Của ban quản lý di tích
Để bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích và danh thắng đền Thác Bờ
sao cho hiệu quả trong thời gian tới còn đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm. Trước
hết, sự phân cấp quản lý còn nhiều bất cập, mang tính địa phương. Ban quản lý
chỉ dừng lại ở một phạm vi nhất định, mang tính nhỏ lẻ nên còn hạn chế, chưa
thể bao quát hết toàn bộ các mặt của di tích. Bên cạnh đó, các cơ quan chuyên
môn chưa quan tâm đúng mức đến việc quản lý hoạt động của di tích cũng như
chưa nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho những người trực tiếp làm
công tác trong Ban quản lý di tích đền Thác Bờ nên còn xuất hiện nhiều yếu
kém trong quản lý. Chính sự quản lý chưa đồng bộ đã không tạo được tiếng nói
chung, gây khó khăn cho việc tu bổ tôn tạo và tổ chức các hoạt động lễ hội gắn
với phát triển du lịch tại di tích. Một số sắp xếp, bố cục nơi thờ tự theo cách
"nghĩ đến đâu, làm đến đấy", không có sự hướng dẫn của chuyên gia nên tạo cho
di tích bị biến dạng không phù hợp. Có nơi các dịch vụ du lịch, hàng quán bày
bán la liệt trong khu vực di tích đã làm mất đi nét đẹp văn hoá, tính trang
nghiêm nơi thờ tự, gây phản cảm đối với khách du lịch. Chính vì vậy, những
người làm công tác quản lý mà trực tiếp là những người trong ban quản ly di
tích xác định một số nội dung hoạt động cụ thể:
- Trong thời gian tới , cần tập trung kiểm kê , đánh giá , phân loại các giá trị
của di tí ch để trên cơ sở đó có thể xây dựng và triển khai những dự án đầu tư
nâng cấp di sản văn hóa này bằng nhiều nguồn lực khác nhau .
- Khẩn trương hoàn tất hồ sơ khoa học , tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động
bảo vệ và phát huy giá trị , kịp thời ngăn ngừa những sự sửa chữa , xây dựng tùy
tiện đã và đang làm mất dần di sản kiến trúc vốn có của khu vực này .
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục kết hợp với việc tăng cường xử lý
các hành vi vi phạm để từng bướ c tạo lập và duy trì kỷ cương quản lý
mọi cấp, mọi ngành và mọi người dân địa phương.
22
di tích ở
- Tạo lập sự hợp tác liên ngành giữa các cơ quan của Trung ương và địa
phương trong lĩnh vực bảo tồn di tích.
- Đẩy mạnh quá trình xã hội hóa nhằm huy động sự tham gia của các tổ
chức kinh tế , xã hội trong nước và nước ngoài cùng đông đảo các rầng lớp nhân
dân vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy
giá trị di tích lịch sử văn hóa đền Thác
Bờ, góp phần tạo ra những động lực của sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội tại
địa phương.
3.2. Một số giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di tích
3.2.1. Cơ sở pháp lý
Di tích lịch sử văn hóa là dấu ấn còn lại của quá khứ, nó biểu hiện cụ thể
nhất về đặc trưng văn hóa truyền thống của dân tộc.Những vấn đề bảo vệ các di
tích trở nên rất cần thiết.Hiện nay, nhiều di tích đã được xếp hạng nhưng vẫn
chưa thực sự được bảo vệ thích đáng để nhiều điều đáng tiếc xảy ra.Và hàng loạt
các văn bản pháp lý đã ra đời là để giải quyết vấn đề này.
Sau đây là một số văn bản pháp lý cho việc bảo tồn di tích:
UNESCO đã đưa ra “Công ước quốc tế về di sản văn hóa” trong đó nó nêu
“Di tích lịch sử văn hóa được xác định như một bộ phận quan trọng cấu thành
môi trường sống của con người.Môi trường văn hóa ấy tác động trực tiếp tới
hành vi của từng cá nhân như những tế bào đầu tiên của hoạt động xã hội”. Tại
Pari ngày 11 thánh 12 năm 1962 đại hội đồng UNESCO khóa XII phê chuẩn
một lới khuyến cáo về việc bảo vệ vẻ đẹp và tính chất của cảnh quan thiên
nhiên. Ngày 19 tháng 11 năm 1968 khóa họp thứ XV của đại hội đồng lại phê
chuẩn khuyến cáo về bảo vệ tài sản văn hóa do hoạt động xã hội hoặc tư nhân
gây ra, ngoài những tai họa tự phát, chiến tranh và những biểu hiện của chủ
nghĩa phá hoại di sản văn hóa, chính hoạt động của con người đôi khi cũng làm
hại tới di sản văn hóa.
23
Theo quyết định của hội đồng thì “ Những nước thành viên của UNESCO
cần áp dụng các biện pháp có thể để bảo vệ tất cả các loại di sản văn hóa ở dạng
nguyên gốc. trong trường hợp nếu vì nguyên nhân kinh tế hay xã hội cấp thiết
mà phái di chuyển từ bỏ hay phá đi những đối tượng là tài sản văn hóa thì cần áp
dụng mọi biện pháp để nó bằng cách nghiên cứu tỉ mỉ và đo đạc chi tiết”. Năm
1972, UNESCO đưa ra công ước về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa thế giới. Qua
đây, UNESCO đã đem lại tình đoàn kết giữa các dân tộc các quốc gia góp phần
làm cho nhân loại có ý thức kế thừa toàn bộ những công trình văn hóa.
Ngày 26 tháng 10 năm 1976 tại Nairobi đại hội đồng UNESCO khóa họp
thứ 19 đã thông qua kiến nghị “Về trao đổi quốc tế các tài sản văn hóa”. Ngoài
ra, còn có công ước quốc tế được ký kết giữa các nước về bảo vệ di sản văn hóa
như công ước Lahay (14/5/1959) đại diện 43 nước đăng ký công ước và một số
văn bản kèm theo về bảo vệ di sản văn hóa trong trường hợp có xung đột xảy ra.
Ngày 23 tháng 11 năm 1945 Bác Hồ đã ban hành sắc lệnh số 65 SL/CTP
trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác bảo tồn cổ tích ở nước ta. Sắc
lệnh ghi rõ “Cấm phá hủy đền, chùa, đình, miếu và những nơi thờ tự khác như:
Cung điện, thành quách, lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy những bia ký
đồ vật, chiếu sắc, văn bằng giấy má sách vở có tính chất tôn giáo nhưng có lợi
cho lịch sử mà chưa được bảo tồn…” Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng
BCH Trưng Ương Đảng Lao Động Việt Nam ra thông tư số 38 TT/TW ngày 28
tháng 6 năm 1956. Thủ tướng chính phủ ra thông tư 954 TTg ngày 3 tháng 7
năm 1956 quy định rõ những điều khoản về việc bảo vệ những di tích lịch sử
văn hóa và danh lam thắng cảnh. Do đó, nghị định 519TTg ngày 19 tháng 10
năm 1957 về bảo tồn di tích ra đời.
Sau khi đất nước thống nhất, Nhà Nước ta lại càng quan tâm tới việc phục
hồi, tu bổ, bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa. Và để tang cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa về việc ban hành pháp lệnh số 14 LCT/HĐNN thông qua ngày 31
tháng 3 năm 1984 công bố ngày 14 tháng 4 năm 1984 do đồng chí Trường
24
Chinh ký về việc bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh làm thắng
cảnh. Tất cả các văn bản pháp lý trên đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà
Nước đến vấn đề bảo vệ các di sản văn hóa đối với công cuộc xây dựng đổi mới
đất nước.
3.2.2. Các giải pháp chung
Việc quy hoạch xây dựng các công trình trên địa bàn đòi hỏi các cấp chính
quyền, các sở ban ngành có sự bàn bạc, cân nhắc, thống nhất tránh làm ảnh
hưởng đến di tích đền Thác Bờ.
Do địa hình và khí hậu nóng ẩm mưa nhiều và các hạng mục di tích trải qua
thời gian dài chưa có sự bảo dưỡng, nên các hiện tượng nấm mốc, mối
mọt...đang diễn ra khá phổ biến trong di kiến trúc di tích. Vì vầy cần thường
xuyên phun thuốc phòng ngừa, nếu có điều kiện thì nên dùng máy hút ẩm tuy
kiến nghị này chưa phải là giải pháp hữu hiệu nhưng đối với chùa Bầu hiện nay
lại rất phù hợp bởi vì nó đảm bảo được yếu tố nguyên gốc mà còn tiết kiệm mặt
tài chính và mỹ thuật, nếu không có kế hoạch xử lý kiểm tra định kỳ thì tuổi thọ
của công trình sẽ giảm, khi đó chi phí cho sửa chữa là rất lớn mà lại không mang
hiệu quả cao.
Đối với các di vật đồ tế khí, cần lập các danh sách và phối hợp theo dõi các
quá trình xuống cấp, hư hại để có thời gian xử lý kịp thời.
Tăng cường đẩy mạnh công tác quản lý và có kiến nghị nên các cấp chính
quyền về tình trạng buôn bán hàng hóa, đồ lễ, trước của chùa đồng thời còn làm
ô nhiễm nguồn rác thải từ những người buôn bán và dân cư xung quanh.
Gia tăng việc trồng thêm cây xanh ở phần sân hai bên trước cửa đền, để tạo
nên một cảnh quan không gian thanh vắng, cổ kính, đồng thời việc trồng nhiều
cây xanh còn làm cảnh quan không gian bên trong tĩnh mịch, huyền bí, linh
thiêng tạo cảm giác cho người dân đi lễ đền được gạn hết bụi trần ồn ào đời
thường để về nơi cảnh thanh tịnh.
Việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc không phải chỉ là cất giữ cho
khỏi mất đi, hoặc để tự ngợi ca tự hào quá mức, mà cần phải phát huy tác dụng
25