Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MỘT SỐ MÔ HÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.93 KB, 17 trang )

Chương 1:

CƠ SỞ CỦA VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA
1.1 Khái niệm công nghiệp hóa

Đến nay có rất nhiều quan điểm về công nghiệp hóa
- Quan niệm đơn giản cho rằng CNH là quá trình phát triển công nghiệp.
- Lại có quan điểm nhấn mạnh tính chất chính trị - xã hội của CNH.
- UNIDO (United Nations Industrial Developmet Organisation) nêu quan niệm về
CNH có tính chất dung hòa các quan điểm khác nhau, CNH gắn liền với nhiều mục tiêu cùng
một lúc.
Các quan điểm trên hoặc phiến diện một mặt nào đó của CNH, hoặc hiểu CNH quá rộng
dường như bao gồm tất cả những gì do nó sinh ra. Ở nước ta, cũng có những cách hiểu tương tự.
Chẳng hạn, trong các thống kê, cũng như trong một số văn kiên gần đây, CNH như bao gồm cả
các ngành khai thác tài nguyên như: dầu khí, than đá và các ngành xây dựng. Chúng được thống
kê gộp chung với các ngành chế biến và chế tạo. Nếu CNH được hiểu theo nghĩa như vậy và việc
dịch chuyển cơ cấu kinh tế của một nước theo hướng mà nội dung chỉ là tăng tỉ trọng của các
ngành khai thác tài nguyên, thì nước này vẫn trong tình trạng sản xuất và xuất khẩu nguyên liệu.
Hơn nữa, thống kê như vậy sẽ gây khó khăn cho việc so sánh tình độ CNH ở nước ta với các
nước khác.
Trước tình hình đó, đề tài nêu hai phương pháp tiếp cận:
1/ Về logic, CNH là một phạm trù kinh tế phản ánh giai đoạn phát triển của sản xuất xã
hội, gắn với giai đoạn lịch sử mà nó tiến hành. Vì thế, không nên hiểu nó như một định nghĩa của
khoa học tự nhiên có tính bất di bất dịch.
2/ Về lịch sử, đến nay đã có những nước trên thế giới tiến hành CNH, một số nước đã
thành công và đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế hiện đại. Song, vẫn còn nhiều nước đi
sau đang trong giai đoạn chưa CNH như Việt Nam. Vì thế, không nên tiếp cận CNH theo cách
hiểu truyền thống, mà phải có một quan điểm mới. Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 7
khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: CNH là
quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với



kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp và khai thác
tài nguyên là chủ yếu sang công nghiệp đóng vai trò là chủ đạo, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao.
1.2 TÍNH TẤT YẾU VÀ TÁC DỤNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA.

CNH là một giai đoạn phát triển tất yếu để một quốc gia vươn tới một nền kinh tế hiện đại và
được bắt nguồn từ:
- Một là, yêu cầu của sự phát triển nền sản xuất lớn hiện đại.
Nền sản xuất lớn hiện đại không chỉ yêu cầu các yếu tố của lực lượng sản xuất (tức là cơ sở
vật chất – kỹ thuật của sản xuất) phải đạt trình độ công nghiệp và công nghệ tiên tiến, mà còn
phải có lực lượng lao động trình độ cao. Dựa vào đó, quan hệ sản xuất tiến bộ đựơc xác lập và
phát triển. Các nền sản xuât trước chủ nghĩa tư bản (CNTB) tồn tại trên cơ sở kỹ thuật thủ công
lạc hậu, năng suất thấp. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) không thể dựa vào đó mà phát
triển. Nó phải tạo ra nền sản xuất bằng máy móc để có năng suất cao hơn phương thức sản xuất
(PTSX) phong kiến, làm điều kiện chiến thắng PTSX phong kiến. CNH được diễn ra.
Đối với các nước mà nền kinh tế lạc hậu, chưa qua giai đoạn phát triển của CNTB, chưa có
cơ sở vật chất - kỹ thuật do CNTB tạo ra, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), không có con
đường nào khác là phải tiến hành CNH. Đây là yêu cầu có tính bắt buộc để xác lập CNXH hiện
thực.
- Hai là, đòi hỏi bức thiết của phát triển kinh tế thị trường.
Đành rằng một nước không phát triển kinh tế thị trường thì CNH vẫn diễn ra (như Liên xô và
các nước XHCN trước đây), nhưng rõ ràng CNH chưa trở thành đòi hỏi cấp thiết đối với các
doanh nghiệp và cũng trở thành yêu cầu trực tiếp để một nước tham gia có hiệu quả vào các quan
hệ kinh tế quốc tế. Khi nền kinh tế chuyển sang phát triển theo hướng thị trường, thì để có sức
cạnh tranh, doanh nghiệp phải có những bước nhảy vọt về kỹ thuật, công nghệ và quản lý tức là
phải tiến hành CNH. Tương tự như vậy, một nước kém phát triển, muốn chen chân và đứng vững
trên thị trường quốc tế, tất yếu phải tìm đến các phương pháp sản xuất tiến bộ tức là phải CNH
nền kinh tế quốc dân, coi đó là đòi hỏi bức thiết để phát triển kinh tế thị trường.



- Ba là, đòi hỏi của sự phát triển chính trị, xã hôi.
Từ tác dụng của CNH đối với yêu cầu giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống
và chất lượng cuộc sống, cải thiện điều kiện phát triển văn hóa xã hội, sinh hoạt tinh thần và phát
triển trí tuệ con người, tạo điều kiện vật chất kinh tế để tăng cường nền chính trị quốc gia, đề tài
khẳng định CNH là một đòi hỏi bức thiết.
Mặc dù còn những tranh cãi cho rằng CNH nền kinh tế quốc dân không còn cần thiết nữa,
nhưng vẫn không thể phủ định con đương tất yếu và tác dụng của CNH đối với một nước lạc hậu
muốn vươn đến nền kinh tế phát triển.

Chương II

MỘT SỐ MÔ HÌNH CNH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
2.1 MỘT SỐ MÔ HÌNH CNH
2.1.1 CNH Ở CÁC NƯỚC NIES VÀ ASEAN
ĐẶC ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HÓA Ở CÁC NƯỚC NIEs VÀ ASEAN
(NIE: Newly Industrialied Country)
(ASEAN: Association of South East Aisan Nations)
a. Sự lan truyền của công nghiệp hóa và mô hình “đàn sếu bay”

Các nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs) bao gồm Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng
Công. Các nền kinh tế này bắt đầu công nghiệp hóa vào cuối những năm 50 thế kỷ XX. Các nền
kinh tế ASEAN bao gồm Thái Lan, Malaixia, Indonexia, Philippin. Còn ASEAN bắt đầu công
nghiệp hóa từ những năm 1960. Mô hình “đàn sếu bay” bắt đầu là Nhật Bản. Sau đó, lan truyền
ra các NIEs vào những năm 1960. Các nước ASEAN đã tham gia tích cực vào mô hình này bằng
các chiến lược “đuổi bắt sản phẩm” mà các nước đi trước đang có lợi thế so sánh. Kết quả là các
nước đi trước phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế lên trình độ cao hơn, tìm cách phát triển các ngành
có lợi thế so sánh mới, làm cho khu vực Đông Á trở nên năng động. Sự phát triển năng động này
của các nước NIEs và ASEAN đã tạo được những tiền đề quan trọng cho những chiến lược kinh



tế sau này. Saburo Okita, nhà kinh tế người Nhật đã gọi quá trình phát triển như vậy là mô hình
“đàn sếu bay”.
b. Từ chiến lược thay thế nhập khẩu chuyển sang chiến lược hướng vào xuất khẩu và sự
kết hợp hai chiến lược nói trên.
Mốc thời gian thực hiện chiến lược CNH ở các nước NIEs và ASEAN:
Tên nước
Đài Loan
Hồng Công
Hàn Quốc
Singapore
Thái Lan
Malaixia
Indonexia
Philippin

Năm thực hiện chiến lược CNH
Thay thế nhập khẩu
Hướng vào xuất khẩu
1953
1964
1950
1960
1962
1967
1961
1965
1962
1972
1958

1968
1967
1982
1946
1970

Từ cuối những năm 1980, các điều kiện quốc tế thay đổi, các khối liên kết kinh tế ra đời,
chính sách bảo hộ mậu dịch trở nên gay gắt, các ưu đãi về thị trường, vốn và công nghệ từ các
nước phuơng tây cho NIEs và ASEAN giảm dần, các nước NIEs và ASEAN đã đều chỉnh chiến
lược sang CNH hỗn hợp giữa hướng vào xuất khẩu và thay thế nhập khẩu.
c. Lấy nông nghiệp làm điểm xuất phát để công nghiệp hóa.

Ngoại trừ Hồng Công và Singapore là những nước có những diều kiện thuận lợi đặc biệt.
Còn lại các nước NIEs và ASEAN khác đều bước vào CNH bắt đầu từ nông nghiệp vì đây là lợi
thế ban đầu của họ. Các biện pháp tăng năng xuất nông sản, khoa học kỹ thuật được ưu tiên áp
dụng đã cho phép rút ngắn đáng kể giai đoạn phát triển nông nghiệp tạo tiền đề quan trọng cho
phát triển công nghiệp. Họ đã có nhiều thành công hơn các nước đang phát triển khác.
d. Rút ngắn đáng kể thời gian công nghiêp hóa do sử dụng tổng hợp các nguồn lực

bên trong và bên ngoài.
Bài học từ các nước đi đầu CNH như Nhật bản, đã giúp cho các nước NIEs và ASEAN
có được những bài học quý báu. Với chính sách mềm dẻo và năng động họ đã phát huy lợi thế
“người đi sau” để áp dụng rộng rãi thu hút các nguồn vốn nước ngoài làm tăng mức đầu tư trong


nước, trang bị kỹ thuật, công nghệ mới. Nhờ đó, mà CNH được triển khai nhanh hơn và đạt được
những thành tựu to lớn, trở thành trung tâm công nghiệp và dịch vụ phát triển, có vị trí ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế thế giới.
2.2 CÁC BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA
2.2.1 CÁC BÀI HỌC THÀNH CÔNG

2.2.1.1 Nắm chắc thời cơ và thách thức, kịp thời xác lập và điều chỉnh mô hình,
mềm dẻo và năng động trong triển khai chiến lược CNH, thực hiện việc xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong quá trình CNH, NIEs và ASEAN đã áp dụng nhiều mô hình khác nhau: CNH thay
thế nhậ khẩu, CNH hướng ra xuất khẩu, CNH hướng tới công nghệ cao. Mỗi mô hình này đều có
những ưu điểm, có thể phát huy tối đa trong từng giai đoạn với điều kiện nhất định, đồng thời
cũng hạn chế của nó. Điểm nổi bật là các nước NIEs và ASEAN đã khéo léo kết hợp và linh hoạt
chuyển đổi các mô hình này vào các mục tiêu, nhiệm vụ và đặc điểm của từng giai đoạn CNH
với sự kế thừa và các bước quá độ hợp lý. Khi bắt đầu chiến lược CNH thay thế nhập khẩu, NIEs
và ASEAN vẫn tiến hành nhập khẩu các mặt hàng cần thiết, khi chuyển sang CNH hướng ra xuất
khẩu NIEs và ASEAN cũng không hoàn toàn loại bỏ các ngành công nghiệp hướng nội. Thậm
chí một số ngành thay thế nhập khẩu đã có sự phát triển liên tục từ giai đoạn kỹ thuật thấp đến
giai đoạn công nghệ cao sau này. Sự uyển chuyển này đã giúp NIEs và ASEAN tận dụng được
mọi lợi thế và cơ hội, đưa CNH tiến lên. Cùng với CNH, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế
cũng được nâng cấp dần. Cơ cấu kinh tế cũng thay đổi dần theo hướng tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ, còn trong công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp nặng và kỹ thuật cao cũng không ngừng
tăng lên.
2.2.1.2 Cần có sự điều tiết kinh tế của nhà nước.
CNH là một quá trình phức tạp đòi hỏi có môi trường trong và ngoài nước thuận lợi.
NIEs và ASEAN có thể coi là những trường hợp thành công trong việc tạo lập môi trường như
vậy.
- Tạo môi trường pháp lý và chính trị - xã hội thuận lợi cho CNH.


Ngay từ đầu NIEs và ASEAN đã rất chú ý đến việc tạo hành lang pháp lý cho CNH, đồng
thời cũng coi trọng việc duy trì và ổn định chính trị - xã hội để giúp cho theo đuổi và triển khai
các chính sách dài hạn, giúp các nhà đầu tư yên tâm hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh
việc tuyên truyền rộng rãi tư tưởng CNH, khai thác các yếu tố văn hóa truyền thống, NIEs và
ASEAN còn quan tâm nhất định tới các vấn đề xã hội khiến cho dân chúng tin rằng CNH là
quyền lợi của chính họ, từ đó tạo ra niềm hứng khởi lao động, cống hiến cho đất nước.

- Tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi cho CNH cũng là một nhiệm vụ mà các chính phủ
NIEs và ASEAN đặt ra cho mình.
Thực hiện nhiệm vụ đó, các nhà lãnh đạo của các nước và lãnh thổ này luôn tận dụng mọi
cơ hội để củng cố quan hệ với Mỹ, Nhật, Tây âu, khai thác triệt để thị trương các nước này, đồng
thời không ngừng tìm kiếm, khai phá, thâm nhập các thị trường mới, mở rộng quan hệ với các tổ
chức kinh tế, tài chính khu vực và quốc tế để thu hút vốn, công nghệ và đa dạng hóa đối tác
thương mại,phục vụ cho CNH.
2.2.1.3 Phát huy tối đa nội lực và khai thác có hiệu quả nguồn vốn và công nghệ từ
bên ngoài.
Trong quá trình CNG, NIEs và ASEANn đã kết hợp khéo léo và có hiệu quả các yếu tố
bên trong và bên ngoài, nội lực và ngoại lực. Sự kết hợp này được thể hiện rõ trên các mặt:
* Khơi dậy tiềm năng vốn trong nước và tích cức thu hút nguồn vốn bên ngoài.
NIEs và ASEAN bước vào CNH trong tình trạng nền kinh tế nghèo nàn, tích lũy từ nội
bộ không đáng kể. Do vậy, NIEs và ASEAN đã khơi thông các nguồn vốn trong nước thông qua
phát triển nông nghiệp, khuyến khích tiết kiệm, hạn chế chi tiêu của chính phủ. Đặc biệt coi
trọng nguồn vốn FDI. Luôn tỉnh táo và không được buông lỏng quản lý các luồng vốn đầu tư
nước ngoài vào lãnh thổ của mình, nhất là trong điều kiện tự do hóa, toàn cầu hóa các hoạt động
tài chính nhanh chóng như các năm gần đây.
* Khai thác thị trường trong nước đi đôi với chiếm lĩnh thị trường ngoài nước.
Bước vào CNH, NIEs và ASEAN rất coi trọng đến thị trường nội địa và thị trường này đã
đóng vai trò như một động lực thúc đẩy sự ra đời của nhiều ngành công nghiệp. Thế nhưng NIEs
và ASEAN nhanh chóng nhận ra, nếu chỉ dựa vào thị trường nội địa với sức mua có hạn thì


không thể cải thiện nhanh chóng được tình hình kinh tế nói chung và giải quyết đầu ra cho công
nghiệp nói riêng. Do vậy,NIEs và ASEAN triển khai hàng loạt biện pháp để khai thác thị trường
bên ngoài. Đó là:
+ Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu thông qua chính sách tỷ giá mềm mỏng,
việc cung cấp tín dụn, thông tin thị trường…
+ Thành lập một số tập đoàn kinh tế có quy mô lớn về vốn, lao động, có công nghệ cao

đủ sức cạnh tranh để giành giật thị trường thế giới.
+ Tận dụng triệt để mọi cơ hội chính trị ngoại giao để đa dạng hóa thị trường phục vụ cho
CNH.
* Thu hút công nghệ nước ngoài đi đôi với xây dựng năng lực công nghệ quốc gia.
Thu hút công nghệ từ bên ngoài được NIEs và ASEAN coi là nhân tố quan trọng góp
phần làm nên thành công CNH. Do vậy NIEs và ASEAN có nhiều biện pháp để du nhập công
nghệ, đồng thời quản lý rất chặt chẽ công nghệ du nhập, hướng vào ưu tiên, các mục tiêu cụ thể
từng giai đoạn CNH, NIEs và ASEAN rất chú trọng nâng cao năng lực công nghệ quốc gia thông
qua tăng đầu tư nghiên cứu, triển khai phối hợp nhà nước và tư nhân trong hoạt động nghiên cứu
khoa học, có chính sách thu hút chất xám trong nước và ngoài nước.
2.2.1.4 Coi con người là nhân tố trung tâm của CNH.
Xuất phát từ một nền kinh tế kém phát trển và trong điều kiện không được thiên nhiên ưu
đãi, NIEs và ASEAN không có con đường nào khác là phải khai thác tối đa nguồn lực con người
dồi dào của mình. Trên thực tế NIEs và ASEAN đã rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ quan
chức, đội ngũ quản lý thực sự có chất lượng, chú trọng khai thác yếu tố văn hóa truyền thống
trong quản lý và sử dụng nhân lực, chú trọng đầu tư cho giáo dục hườn nghiệp và dạy nghề, đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ cho CNH.
2.2.2 BÀI HỌC KHÔNG THÀNH CÔNG
2.2.2.1 Không có chính sách đầu tư thỏa đáng cho nông nghiệp trong quá trình
CNH.


Trước khi tiến hành CNH (trừ Hồng Công và Singapore) nền kinh tế Đài Loan, Hàn
Quốc, Thái Lan, Malaixia, Indonexia và Philippin chủ yếu dực vào nông nghiệp và chính phủ
các nước này đã có chủ trương phát triển nông nghiệp để tạo cơ sở tích lũy ban đầu cho CNH.
Tuy nhiên từ giữa thâp kỷ 60 trở đi, một số nước do tập trung mọi nguồn lực cho phát triển công
nghiệp, đặc biệt là cho những ngành hướng ra xuất khẩu, sản xuất nông nghiệp ngày càng phải
chịu nhiều thiệt thòi như: tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp không tương xứng với nhu cầu
phát triển của nó, thực hiện hạ tầng thấp giá nông sản như một biện pháp tăng cường sức cạnh
tranh cho hàng hóa công nghiệp xuất khẩu, chậm điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp khiến cho hàng

hóa nông sản không đáp ứng nhu được nhu cầu ngày một cao, tương xứng với mức sống không
ngừng được nâng lên trong quá trình CNH.
Chính sách coi nhẹ nông nghiệp dẫn tới việc công nghiệp mất đi nguồn cung cấp nguyên
liệu, lao động, tư bản và thị truờng tiêu thụ sản phẩm công nghiệp bị thu hẹp, tiềm ẩn các nguy
cơ bùng nổ xã hội, gây tổn hại cho phát triển kinh tế nói chungvà CNH nói riêng.
2.2.2.2 Hai xu hướng phát triển doanh nghiệp và hạn chế.
Trong quá trình CNH, xuất phát từ điều kiện cụ thể của mình, một số nước NIEs và
ASEAN đã lựa chọn các doanh nghiệp với quy mô khác nhau. Hồng Công, Đài Loan…nghiêng
về lựa chọn các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, còn một số nước khác mà điển hình là Hàn
Quốc và Singapore lại chú trọng đến lập các tập đoàn kinh tế lớn. Mỗi loại mô hình doanh
nghiệp có những thế mạnh riêng và cũng cõ những hạn chế. Vấn đề là phải có sự kết hợp có hiệu
quả các quy mô doanh nghiệp khác nhau. Việc duy trì quá lâu hoặc chỉ tập trung phát triển một
loại doanh nghiệp có thể dẫn tới những hậu quả tiêu cực. Sự thoái quá về doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Đài Loan đã khiến hòn đảo này khó có thế mạnh về ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Còn
phát triển tập đoàn bằng mọi giá ở Hàn Quốc, đi kèm với những ưu tiên thái quá, chế độ quản lý
lỏng lẻo đã dẫn đến tệ độc quyền, đầu cơ, tham nhũng và cuối cùng là sự đổ vỡ, gây những tác
hại to lớn cho nền kinh tế.
2.2.2.3 Một số hạn chế của chính sách xã hội thời kỳ CNH.
Trong quá trình triển khai CNH, NIEs và ASEAN đã có những quan tâm nhất định đến
vấn đês xã hội, nhờ đó, họ tạo lập được môi trường kinh tế xã hội phục vụ CNH. Tuy nhiên,
cùng với những thành tựu không thể phủ nhận được đó, chính sách xã hội của NIEs và ASEAN


thời kỳ CNH cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: duy trì quá lâu chế đọ lao động hà khắc, đặc biệt là
việc duy trì chế độ lương thấp quá lâu. Bên cạnh đó là việc kéo dài thời gian lao động và chính
sách bảo hộ lao động yếu kém. Nhiều vấn đề xã hội luôn căng thẳng, nhất là việc nhà ở. CNH
không đi đôi với dân chủ hóa. Chính sách thắt lưng buộc bụng duy trì quá lâu đã tiềm ẩn nguy cơ
bùng nổ xung đột xã hội. Làn sóng bãi công, biểu tình cuối cuối những năm 80, đầu những năm
90 đã khiến giới chủ phải điều chỉnh chính sách lao động trong thế bị động, tăng lương quá
nhanh trong một thời gian ngắn. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho kinh tế mà còn tác động

tiêu cực đến không khí xã hội nói chung.
2.2.2.4 Sự phụ thuộc vào nước ngoài.
Thực tiễn CNH ở NIEs và ASEAN cho thấy sự thành công của sự nghiệp này có sự đóng
góp rất lớn của nguồn lực từ bên ngoài. Tuy nhiên trong việc khai thác các nguồn lực đó NIEs và
ASEAN cũng mắc phải một số hạn chế, dẫn đến sự phụ thuộc càng lớn vào bên ngoài. Đó là sự
phụ thuộc về thị trường Mỹ, Nhật và Tây Âu. Tất nhiên các nước này là các thị trường lớn mà
bất cứ nước nào muốn CNH cũng không thể bỏ qua. Tuy nhiênn việc quá tập trung vào một vài
thị trường rất dễ dẫn đến tình trạng lệ thuộc. Một thí dụ thực tế là 1/1989 chỉ riêng việc Mỹ bỏ
những ưu đãi thương mại cho các NIEs cũng đã ảnh hưởng đến 10% hàng hóa xuất khẩu của các
nước và lãnh thổ này. Đó còn là sự lệ thuộc về vốn và công nghệ nước ngoài thể hiện rõ nhất ở
các ngành ô tô, điện tử…
2.2.2.5 Công nghiệp hóa và sự ô nhiễm trầm trọng.
Trừ Singapore là nước giải quyết khá tốt vấn đề môi trường, các nước còn lại đều vấp
phải khiếm quyết trong hoạch định chính sách phát triển khiến diện tích rừng bị thu hẹp, đất đai
và nguồn nước bị ô nhiễm nặng vào hàng cao nhất thế giới, môi truờng đô thị suy thoái đã và
đang dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho con người và cho chính các hoạt động của đời
sống kinh tế - xã hội.
2.2.2.6 Thiếu một chính sách hậu công nghiệp.
CNH là bước đi tất yếu song không phải là mục tiêu cuối cùng của mỗi quốc gia. Vì vậy
trong quá trình CNH phải có chính sách mang tầm nhìn chiến lược hướng tới giai đoạn phát triển
tiếp theo. NIEs và ASEAN chưa có một chính sách như vậy. Do vậy bước chuyển của một số
nước từ giai đoạn CNH sang giai đoạn hậu CNH đã vấp phải khó khăn to lớn như: những bất cập


liên quan đến nguồn nhân lực và trình độ khoa học, công nghệ, sự hẫng hụt về thị trường, sự
hẫng hụt về cơ sở hạ tầng khiến cho chi phí hậu cần phục vụ sản xuất của NIEs và ASEAN rất
cao, dẫn đến giảm sức mạnh cạnh tranh của NIEs và ASEAN.
Chương 3

VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA CÁC

NƯỚC NIEs VÀ ASEAN VÀO CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP
HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
Từ những năm 1996, Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Đại hội VIII của
Đảng xác định đây là thời kỳ mới. Mục tiêu cấc đạt được là đến năm 2020 phấn đấu trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3.1 ĐẶC ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA TRONG
THỜI KỲ MỚI. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC MỚI
3.1.1 Đặc điểm CNH – HĐH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
CNH ở nước ta bắt đầu từ rất sớm, từ những năm 1960 và được xác định là nhiệm vụ
trọng tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam song như Đại hội Đảng lần thứ VI đã chỉ rõ,
do chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua các bước cần thiết…chúng ta đã chủ trương CNH khi chưa
có tiền đề cần thiết. Do vậy, những kết quả đạt được trong 25 năm đầu (1960 -1985) rất khiêm
tốn. Những chử trương, chính sách và biện pháp nhằm khắc phục những thiếu sót đó được Đại
hội VI đưa ra và tiếp tục khẳng định ở các kỳ Đại hội tiếp theo đã đem lại những biến chuyể
bước đầu quan trọng, tạo ra những tiền đề cần thiết để thực hiện đẩy tới bước CNH – HĐH với
mục tiêu đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất –kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Như vậy, CNH trước đây và hiện nay đều thống nhất và định hướng XHCN. Tuy nhiên,
so với trước đây, CNH - HĐH theo đường lối đổi mới rất khác nhau về phương thức và biện
pháp thực hiện.


Thứ nhất, CNH trước đây tiến hành theo cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp thì
ngày nay được tiến hành với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Thứ hai, CNH trước đây tiến hành theo xu hướng khép kín, tự cung, tự cấp hoặc nếu có
sự giao lưu thì chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp của khối SEV. Ngày nay CNH được tiến hành với
hệ thống kinh tế mở, hướng mạnh mẽ thị trường khu vực và thế giới.
Thứ ba, trước đổi mới, CNH chủ yếu dựa vào kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, còn bây
giờ được coi là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia cảu tất cả các thành phần kinh tế.

Thứ tư, CNH trước đây chủ yếu dựa vào tích lũy từ nội bộ nền kinh tế với một phần sự
giúp đỡ của các nước XHCN. Ngày nay, bên cạnh nguồn vốn trong nước còn thu hút rộng rãi
nguồn vốn bên ngoài (cả FDI, ODA và vốn vay thương mại) phục vụ cho CNH.
Thứ năm, quá trình CNH trước đây chưa phải chịu sức ép của khoa học – kỹ thuật ghê
gớm như ngày nay, còn bây giờ đất nước luôn đặt trong nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về khoa học –
công nghệ, do vậy khoa học – công nghệ và cùng với nó là nhân tố con người phải được coi là
động lực, là vấn đề hàng đầu của CNH – HĐH.
Thứ sáu, trước thách thức của vấn đề môi trường và nhằm đảm bảo sự phát triển bền
vững của đất nước, CNH - HĐH ngày nay phải đảm bảo gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng
xã hội và bảo vệ môi trường.
3.1.2 Những thuận lợi, khó khăn, thách thức mới.
* Thuận lợi:
+ Trong nước: đã có những điều kiện khởi đầu rất quan trọng. Ngoài điều kiện thuận lợi
do tự nhiên ban tặng như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, nước ta còn có nguồn lao động khá
đông đảo, đã có những cơ sở vật chất – kỹ thuật và nền tảng kinh tế ban đầu rất quan trọng và
điều kiện chính trị, xã hội về cơ bản đã hội đủ các tiền đề cần thiết để chuyể sang thời kỳ đẩy
mạnh CNH – HĐH.
+ Quốc tế: có 4 nhân tố mang tính xu hướng đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng và chi phối
phát triển tất cả các nước là:


- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển ở trình độ mới, đưa loài
người vào kỷ nguyên trí tuệ.
- Toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra với tốc độ càng nhanh. Liên kết kinh tế và tự do
hóa thương mại ngày càng phổ biến.
- Trật tự thế giới mới với nhiều trung tâm.
- Hòa bình hợp tác và cùng phát triển.
Đặc biệt, việc Việt Nam nằm trong khu vực kinh tế năng động của thế giới, đã tham gia
tích cực vào các quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại. Do đó, có thể di chuyển nhanh chóng,
thuận lợi hơn, có nhiều cơ hội trở thành trung tâm thu hút FDI ở khu vực Đông Nam Á, quá trình

toàn cầu hóa và chuyển giao công nghệ diễn ra mạnh mẽ hơn.
* Khó khăn và thách thức:
Một là, nguy cơ tụt hậu do tiềm lực và hiệu quả kinh tế còn thấp. Đây là thách thức lớn
nhất.
Hai là, tài chính, tiền tệ chưa ổn định vững chắc, lạm phát còn diễn ra phức tạp, cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực còn gây ảnh hưởng nặng nề, nhiều tác động tiêu cực.
Ba là, đầu tư nước ngoài tuy có những thành tựu, song vẫn còn nhiều hạn chế, một số
mục tiêu trước mắt và lâu dài đặt ra khi thu hút FDI chưa thực hiện, còn những trở ngại.
Bốn là, nợ nước ngoài lớn hơn nhiều tổng xuất khẩu.
Năm là, mức gia tăng dân số còn cao gây áp lực cho nền kinh tế và xã hội trong việc nâng
cao mức sống và tạo công ăn việc làm.
Sáu là, chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng có xu hướng tăng lên.
Bảy là, ô nhiễm môi trường, môi sinh đáng lo ngại.
3.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ CHO SỰ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA CÁC
NƯỚC NIEs và ASEAN VÀO VIỆT NAM


Từ thực tế CNH của các nước NIEs và ASEAN có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm
sâu sắc, song để vận dụng kinh nghiệm này vào Việt Nam cần phải làm rõ những điểm giống
nhau và khác nhau giữa nước ta hiện nay và các nước NIEs - ASEAN giai đoạn bước vào CNH.
3.2.1 Những điểm tương đồng.
- Tương đồng về trình độ phát triển kinh tế (thể hiện ở cơ cấu kinh tế cũng như trình độ
kỹ thuật, công nghệ).
- Tương đồng về cơ chế kinh tế (thể hiện ở việc duy trì và phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường với vai trò to lớn của nhà nước trong điều tiết,
quản lý kinh tế).
- Tương đồng về môi trường kinh tế quốc tế (thể hiên ở các xu hướng cơ bản của nền
kinh tế thế giới như: quốc tế sản xuất và nguồn vốn, tự do hóa thương mại, bước đi mạnh mẽ của
cách mạng khoa học kỹ thuật, được hình thành từ khi các nước NIEs và ASEAN bắt đầu CNH
vẫn tồn tại và phát triển cho tới nay).

3.2.2 Những điểm khác biệt. Bên cạnh tương đồng, CNH - HĐH ở Việt Nam hiện
nay có nhiều khác biệt so với các nước NIEs và ASEAN trước đây.
- Sự khác nhau về chế độ chính trị - xã hội.
Đây là điểm khac nhau quan trọng vì nó dẫn đến những khác biệt trong mục tiêu xã hội
của CNH và trong chính sách, biện pháp tiến hành CNH. Các nước NIEs và ASEAN lựa chon
mục tiêu tăng trưởng, chấp nhận phân hóa giàu nghèo, sự chênh lệch giữa các vùng…Còn Việt
Nam hướng tới xây dựng xã hội công bằng, văn minh, mọi người, mọi vùng được hưởng thành
quả của sự phát triển. sự khác biệt này đã làm cho Việt Nam khó khăn hơn, đồng thời cần thận
trọng hơn trong việc thu hút các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho CNH.
- Sự khác nhau về bối cảnh quốc tế hiện nay so với cách đây 3-4 thập kỷ là cục diện thế
giới 2 cực đã chấm dứt. Với việc đặt phát triển kinh tế ưu tiên thành hàng đầu, mọi nước, mọi
quốc gia đều có nhu cầu tìm hiểu bạn hàng, mở rộng thị trường, liên kết kinh tế với các nước
khác. Đây là thời cơ thuận lợi to lớn đối với Việt Nam trong việc mở rộng, hợp tác, lựa chọn đối
tá, thị trường thu hút vốn và công nghệ bên ngoài.


Bên cạnh đó, so với trước đây, xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới,
tự do hóa thương mại cũng như cách mạng khoa học – kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ hơn, tạo ra thời
cơ và thách thức mới cho CNH - HĐH ở Việt Nam.
+ Trong thu hút đầu tư nước ngoài: Việt Nam có thuận lợi là nguồn vốn bây giờ phong
phú hơn, di chuyển nhanh chóng, thuận lợi hơn. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, Việt Nam phải
cạnh tranh nhiều hơn để thu hút vốn vì danh sách các nước cần vốn tăng lên.
+ Trong tiếp thu và phát triển công nghệ: Thuận lợi là toàn cầu hóa và quá trình
chuyển giao công nghệ diễn ra mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, do công nghệ thay đổi nhanh nên
chúng ta phải chịu sức ép lớn hơn so với NIEs và ASEAN trước đây.
+ Thách thức về xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa: Với sự phát triển mạnh mẽ của xu
thế toàn cầu hóa, Việt Nam có thể lựa chọn đối tác, thị trường công nghệ thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, ngày nay cạnh tranh trong thương mại quốc tế trở nên gay gắt, chính sách bảo
hộ công nghiệp trong nước sẽ khó áp dụng. Trong khi đó chúng ta không có được những ưu đãi
thương mại mà Mỹ, Nhật, Tây Âu dành cho NIEs và ASEAN trong suốt thời kỳ CNH trước đây.

3.3 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CÔNG NGHIỆP HÓA Ở VIỆT NAM
TRÊN CƠ SỞ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA CÁC NƯỚC
NIEs và ASEAN
Trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm CNH của các nước NIEs và ASEAN, căn cứ vào điều
kiện và bối cảnh hiện nay, để đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp,
chúng ta cần triển khai tích cực các giải pháp:
3.2.1 Nâng cao năng lực triển khai chiến lược CNH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển khoa học công nghệ.
- Về triển khai chiến lược CNH:
Chúng ta lựa chọn việc triển khai chiến lược theo hướng “Hướng mạnh vào xuất khẩu,
đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước có hiệu quả” là hoàn toàn đúng đắn.
Tuy nhiên cần phải nâng cao năng lực triển khai, linh hoạt trong điều tiết vĩ mô và phải có tính
thích ứng cao khi tình hình trong nước và quốc tế biến đổi.


- Về bước đi trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Đây là một nội dung chủ yếu của CNH - HĐH đất nước. Phải lựa chọn và bố trí cơ cấu
kinh tế và theo đó là cơ cấu đầu tư trên cơ sở khoa học. Qua kinh nghiệm các nước và thực tiễn
Việt Nam, căn cứ quan trọng nhất để bố trí cơ cấu kinh tế là lợi thế so sánh. Cần có hai tầm nhìn:
1. Tầm nhìn ngắn hạn: dựa trên cơ sở lợi thế so sánh ban đầu cơ cấu - kinh tế được lựa
chọn trên cơ sở này chính là bước đi hiện nay cuả CNH.
2. Tầm nhìn dài hạn: dựa trên xu hướng và khả năng tạo ra lợi thế so sánh mới – đây là
hướng lựa chon cơ cấu kinh tế ở các bước đi tiếp theo. Trong khi phát huy lợi thế ban đầu, phải
đồng thời tính đến tạo ra lợi thế so sánh cho bước phát triển tiếp theo. Căn cứ tiếp theo là phải
đảm bảo phát triển trong công bằng, phải quan tâm phát triển cơ cấu vùng. Do nguồn vốn có hạn,
đất nước còn nghèo, nên trước hết đầu tư trọng điểm vào một vài nơi có tiền lực nhất, từ đó sẽ
lan tỏa ra các vùng xung quanh. Ta chỉ chọn 3 vùng trọng điểm ở 3 miền (Bắc, Trung, Nam) là
hợp lý để hướng đến trải đều lợi ích của CNH cho mọi người dân.
- Trong những năm trước mắt, cần đặc biệt coi trọng CNH - HĐH nông nghiệp và nông
thôn.

- Việc lựa chọn và bố trí cơ cấu kinh tế phải gắn liền với phát triển khoa học - công nghệ.
Phải có chương trình phát triển khoa học – công nghệ trong đó xác định các bước đi và trật tự ưu
tiên. Phát triển khoa học – công nghệ phải được coi là nội dung cổt lõi là thực chất của CNH HĐH.
3.2.2 Phát huy các nguồn lực cho CNH.
a. Phát huy cao độ nội lực.
Cần xác định nôi lực là nhân tố quyết định. Thực tế ở các nước NIEs và ASEAN gần đây
đã làm rõ thêm vai trò của nguồn lực này đối với sự nghiệp CNH đất nước. Các giải pháp:
- Triệt để tiết kiệm, kiên quyết dành vốn cho các lĩnh vực kinh tế có hiệu quả nhất. Nâng
cao chất lượng quy hoạch dự án đầu tư. Hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động vốn xã hội loại
trừ tình trạng lãng phí và tham nhũng.


- Nâng cao chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực, kết hợp chặt chẽ với giải quyết việc làm
và tăng thu nhập cho người lao động. Đây là nhân tố cơ bản, hàng đầu có ý nghĩa quyết định sự
thành công của CNH - HĐH.
- Nâng cao trình độ năng lực công nghệ hồi sinh. Tạo điều kiện cho phát triển khoa học –
công nghệ.
- Triển khai có hiệu quả việc điều tra cơ bản nắm vững và đưa vào khai thác các nguồn
tài nguyên của đất nước, chống lãng phí buông lỏng.
b. Hết sức coi trọng thu hút các nguồn ngoại lực.
- Đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng các vốn nước ngoài. Đặc biệt là coi
trọng vốn FDI. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách tạo sức hấp dẫn cho các đối tác và nhà đầu
tư nước ngoài.
- Triệt để khai thác các khả năng chuyển giao công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam, nhất
là công nghệ từ các nước phát triển.
- Thúc đẩy tăng trưởng xuất nhập khẩu vì mục tiêu CNH - HĐH.
- Tăng việc du nhập phổ biến tri thức khoa học, công nghệ.
3.2.3 Tăng cường vai trò của nhà nước trong CNH.
Đây là điều kiện tiên đề quan trọng nhất, quyết định tốc độ và thành quả của CNH - HĐH
đất nước. Các giải pháp:

Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thông văn bản pháp luật, cải cách tổ chức hoạt
động tư pháp, đề cao tính nghiêm minh, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, tăng cường công tác chiến lược và kế hoạch hóa.
Ba là, xây dựng cơ chế và chính sách hữu hiệu nhằm bảo vệ môi trường sinh thái ngay từ
giai đoạn đầu của CNH.
Bốn là, coi trọng công tác xã hội trong CNH: bình đẳng cơ hội việc làm, về góp vốn, kết
hợp nguyên tắc phân phối theo lao động và nguyên tắc phân phối của thị trường với chính sách
xã hội về thu nhập.


Năm là, tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua các công cụ tài chính,
tiền tệ và hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Sáu là, nâng cao năng lực quản lý CNH của các cấp các ngành từ trung ương đến cơ sở.
Trước mắt, cần tăng cường vai trò của nhà nước để giải quyết các vấn đề bức xúc nhất
nhằm khai thác và phát huy nội lực của nền kinh tế như: phát triển nông nghiệp, nông thôn, mở
rộng thị trường tiêu thụ hàng nội địa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư,
lành mạnh hóa nền tài chính tiền tệ, hoàn thiện chính sách đối với các thành phần kinh tế. Đồng
thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính từ trung ương đến cơ sở.
3.2.4 Quan tâm, bồi dưỡng, đào tạo nguồn lực con người phục vụ cho CNH.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo những năm qua cũng có tiến bộ lớn. Song so với yêu cầu của
CNH – HĐH, đội ngũ lao động còn nhiều bất cập. Đó là do: đào tạo đại học tràn lan, quy mô quá
lớn so với nhu cầu trong khi đào tạo nghề lại quá ít dẫn đến tình trạng nhiều thầy, ít thợ…Do
vậy, cần phải thực hiện các biện pháp sau:
Một là, nên quay về chế độ học miễn phí đối với bậc tiểu học. Đây là mặt bằng dân trí
cần thiết cho bất kỳ quốc gia nào đi vào CNH.
Hai là, tăng nhanh quy mô dạy nghề, gắn chặt lợi ích của cơ sở sử dụng nhân lực với các
trung tâm đào tạo, trong đó cơ sở sử dụng nhân lực đưa ra các yêu cầu về cơ cấu đào tạo và hỗ
trợ kinh phí, còn cơ sở đào tạo có trách nhiệm cung cấp đội ngũ lao động có tay nghề và chất
lượng.
Ba là, tăng cường xu hướng mở trong đào tạo nhân lực, chú ý cả vấn đề hợp tác quốc tế

trong đào tạo lẫn việc trang bị ngoại ngữ cần thiết cho người học.



×