Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Giảng dạy lôgíc học với việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm ở n ước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.99 KB, 26 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năng lực tư duy lôgíc (NLTDLG) biểu hiện sức mạnh trí tuệ của con
người, là công cụ sắc bén để nhận thức và cải tạo hiện thực. Trong thời
đại ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và sự phát triển của kinh tế tri thức, vai trò của NLTDLG lại
càng tăng lên.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, rèn luyện, sinh viên sư phạm
(SVSP) cần được trang bị về mọi mặt, đặc biệt là NLTDLG - điều kiện
thiết yếu đảm bảo cho sinh viên chiếm lĩnh tri thức khoa học, rèn luyện
chuyên môn nghiệp vụ sư phạm để rồi sau này truyền thụ kiến thức cho học
sinh, giáo dục họ trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Trong
nhà trường phổ thông, đội ngũ giáo viên giữ một vị trí, vai trò rất quan
trọng. Họ không chỉ là người truyền thụ tri thức khoa học, giáo dục tư
tưởng, đạo đức, lối sống mà còn là người giáo dục phương pháp suy nghĩ,
phương pháp suy luận, rèn luyện trí thông minh cho học sinh. Tuy nhiên,
chất lượng của đội ngũ này chưa cao, còn yếu kém về chuyên môn nghiệp
vụ sư phạm cũng như NLTDLG. Do đó, bên cạnh nhiệm vụ đào tạo con
người có phẩm chất chính trị, đạo đức, tâm huyết với nghề, có kiến thức và
nghiệp vụ sư phạm, các cơ sở đào tạo cần chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện
cho sinh viên NLTDLG.
Sự hình thành và phát triển NLTDLG của sinh viên phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau như yếu tố di truyền, yếu tố truyền thống, quá
trình học tập và rèn luyện, môi trường xã hội. .., trong đó, giảng dạy lôgíc
học có vị trí, vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, giảng dạy học lôgíc học
trong các trường đại học, cao đẳng sư phạm hiện nay còn có những hạn
chế nhất định, chưa phát huy được vai trò của mình vào việc bồi dưỡng,
rèn luyện NLTDLG cho sinh viên.
Vì vậy, cần nghiên cứu một cách sâu sắc vai trò của giảng dạy lôgíc
học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho SVSP, làm rõ những
vấn đề đặt ra và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của giảng


dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho những sinh
viên này. Đây là vấn đề quan trọng, hết sức cần thiết đang đặt ra trong quá


2
trình đổi mới giáo dục và đào tạo nói chung, đổi mới giảng dạy lôgíc học
nói riêng ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Để góp phần nhận thức
và giải quyết vấn đề này, tác giả chọn vấn đề: “Giảng dạy lôgíc học với
việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm
ở nước ta hiện nay” làm đề tài đề tài tiến sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề tư duy lôgíc, năng lực tư duy lôgíc luôn là đối tượng thu hút
sự quan tâm của các nhà khoa học, được các tác giả trong và ngoài nước
đề cập đến dưới nhiều góc độ khác nhau.
Chúng ta từng biết đến các tác giả nổi tiếng của Liên xô trước đây với
những công trình nghiên cứu tầm cỡ, có giá trị khoa học. Chẳng hạn,
M.M.Rôdentan: “Nguyên lý lôgíc biện chứng", Trường Đảng cao cấp
Nguyễn Ái Quốc, 1979; I.D.Anđriep: “Lôgíc biện chứng", Mátxcơva,
1985; A.P.Séptulin: “Phương pháp nhận thức biện chứng”, Nxb Sách giáo
khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1987; E.V.ILencôv: “Lôgíc học biện chứng",
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2003, v.v.. Các công trình nghiên cứu
này đề cập đến những vấn đề cốt lõi của lôgíc học duy vật lôgíc, như vấn đề
phép lôgíc, vấn đề nhận thức luận, vấn đề lôgíc học, v.v.. Đây là cơ sở lý
luận và phương pháp luận cơ bản để nghiên cứu vấn đề NLTDLG.
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới đất nước, chúng ta tìm thấy nhiều
bài viết, nhiều công trình nghiên cứu của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà
nước, các nhà khoa học đã bàn đến vấn đề bản chất tư duy, năng lực tư duy
cũng như tính tất yếu và định hướng chủ yếu trong đổi mới tư duy ở nước
ta, tiêu biểu như cuốn “Đổi mới tư duy và phong cách tư duy” của Nguyễn
Văn Linh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987; "Năng lực tư duy lý luận trong quá

trình đổi mới tư duy" của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, số
10/1987; "Quán triệt tư duy biện chứng duy vật và nội dung quan trọng
của đổi mới tư duy" của Dương Phú Hiệp, Tạp chí Triết học, số 2/1987;
"Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận" của Học viện Nguyễn Ái
Quốc, 1988, v.v..
Khắc phục các căn bệnh thường thấy ở đội ngũ cán bộ nước ta như
bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong
quá trình đổi mới tư duy, nâng cao năng lực, trình độ tư duy. Hướng


3
nghiên cứu này chúng ta tìm thấy ở các đề tài tiến sĩ Lôgíc học, các bài
viết trên các tạp chí, tiêu biểu như đề tài “Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở
đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội” của
Trần Văn Phòng, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
1994; Lê Hữu Nghĩa: “Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của
cán bộ ta”, Tạp chí Triết học, số 2/1988, v.v.. Các tác giả đã chỉ ra thực
chất của các căn bệnh kinh nghiệm, giáo điều, phân tích nguồn gốc và
biểu hiện của các căn bệnh này ở nước ta, từ đó đưa ra các giải pháp khắc
phục.
Liên quan đến vấn đề nâng cao năng lực, trình độ tư duy cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý, cán bộ giảng dạy lý luận chính trị... có nhiều công
trình nghiên cứu. Chẳng hạn, Hồ Bá Thâm:“Nâng cao năng lực tư duy
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay”, Đề tài tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994;
Nguyễn Đình Trãi: “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng
viên lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh”, Đề tài tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001; Nguyễn
Thị Bích Thủy: “Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo
kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay”, Đề tài tiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001; Trần
Thành: “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ
đạo thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Các công trình
nghiên cứu đã phân tích vai trò của tư duy đối với cán bộ lãnh đạo, quản
lý, cán bộ giảng dạy, đánh giá thực trạng và lý giải nguyên nhân của tình
trạng yếu kém về tư duy của đội ngũ cán bộ, từ đó đề xuất những giải
pháp nâng cao năng lực, trình độ tư duy cho đội ngũ này.
Vấn đề rèn luyện, phát triển tư duy cho học sinh, sinh viên được một
số tác giả đề cập đến trong các bài báo, các luận văn thạc sĩ. Ví dụ, Vũ
Văn Viên: “Rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy khoa học cho sinh viên,
học sinh”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 2/1992;
Nguyễn Thanh Hưng: “Góp phần rèn luyện và phát triển tư duy biện
chứng cho học sinh thông qua dạy học hình học ở trường trung học phổ
thông”, Luận văn thạc sĩ Khoa học Giáo dục, Trường Đại học Vinh,
2003; Hoàng Thúc Lân: “Giảng dạy Triết học Mác - Lênin với việc nâng


4
cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường đại học”, Luận
văn thạc sĩ Triết học, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2004, v.v.. Trong các công trình này, một số tác giả phân tích sự cần thiết,
yêu cầu rèn luyện tư duy cho học sinh và sinh viên, một số khác lại tập
trung làm rõ vai trò của lôgíc học và các khoa học cụ thể trong việc rèn
luyện tư duy cho người học.
Vấn đề nghiên cứu và giảng dạy lôgíc học nói riêng và lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung được nhiều tác giả đề cập đến.
Chẳng hạn, Phạm Ngọc Quang: “Triết học mácxít với việc phát huy vai
trò của trí tuệ nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 1/1996; Lê Xuân Nam, Lê Thanh
Sinh, Nguyễn Thanh, Lương Minh Cừ, Hoàng Trung (Đồng chủ biên):
“Một số ý kiến trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học

Mác - Lênin ở đại học và cao đẳng”, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 2002; Lương
Gia Ban: Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung
chương trình các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Dương Phú Hiệp: “Tiếp tục đổi mới
nghiên cứu và giảng dạy triết học ở nước ta”, Tạp chí Triết học, số
2/2007, v.v.. Vấn đề giảng dạy lôgíc học cũng được đề cập đến trong các
báo cáo, các bài viết tham gia các hội thảo khoa học. Các báo cáo và các
bài viết này đều khẳng định sự cần thiết, đồng thời đề xuất những giải
pháp đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và lôgíc học nói riêng trong các
trường đại học, cao đẳng.
Tuy nhiên, vấn đề bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho SVSP thông
qua giảng dạy lôgíc học chỉ mới được đề cập từng mặt, cho đến nay chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống. Các công
trình nghiên cứu trên với nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau đã tạo
điều thuận lợi cho nhóm tác giả đề tài tham khảo, trên cơ sở đó tìm ra một
hướng đi phù hợp, nhằm giải quyết những vấn đề mà đề tài đề ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích: Đề tài làm rõ vai trò của giảng dạy lôgíc học trong bồi
dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho SVSP, thực trạng và những vấn đề đặt ra
trong giảng dạy lôgíc học ở các trường đại học, cao đẳng sư phạm hiện


5
nay, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò
giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho SVSP.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là:
- Làm rõ bản chất của NLTDLG, sự cần thiết bồi dưỡng, rèn luyện
NLTDLG cho SVSP.
- Phân tích vai trò của giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn
luyện NLTDLG cho SVSP.

- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai
trò giảng dạy lôgíc học nhằm bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho SVSP.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò giảng dạy
lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho SVSP.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài nghiên cứu sự ảnh hưởng, tác động của giảng dạy lôgíc học
đối với sự phát triển năng lực tư duy lôgíc của sinh viên sư phạm.
- Đề tài không đi sâu vào lôgíc học nói chung mà tập trung vào Lôgíc
học và lịch sử lôgíc học - những kiến thức chủ yếu mà SVSP được học ở
các trường đại học, cao đẳng.
- Đề tài tập trung khảo sát thực tế ở một số trường đại học, cao đẳng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Triết học Mác - Lênin, đặc biệt là những nguyên lý của nhận thức luận và
lôgíc lôgíc. Đề tài dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
những công trình khoa học đã công bố.
- Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch
sử, điều tra xã hội học và thống kê, v.v..
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Góp phần chỉ ra vai trò của NLTDLG đối với SVSP trong học tập,
rèn luyện để trở thành người giáo viên.


6
- Làm rõ vai trò của giảng dạy lôgíc học đối với việc bồi dưỡng, rèn
luyện NLTDLG cho SVSP.
- Chỉ rõ thực chất tình hình giảng dạy lôgíc học với việc bồi dưỡng,
rèn luyện NLTDLG cho SVSP ở các trường đại học và cao đẳng hiện nay.
- Góp phần đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò
của giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho

SVSP.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Những luận điểm và kết luận trong đề tài có ý nghĩa thiết thực đối
với việc nghiên cứu vấn đề tư duy lôgíc và năng lực tư duy lôgíc, góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy lôgíc học ở các trường đại học và cao
đẳng cũng như phát huy vai trò của giảng dạy lôgíc học trong việc bồi
dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên. Đề tài có thể làm tài liệu tham
khảo cho cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lôgíc học.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, đề tài gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
NĂNG LỰC TƯ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA GIẢNG
DẠY LÔGIC HỌC TRONG VIỆC BỒI DƯỠNG, RÈN LUYỆN
NĂNG LỰC TƯ DUY BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
1.1. Năng lực tư duy lôgíc và sự cần thiết bồi dưỡng, rèn luyện
năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm
1.1.1. Tư duy lôgíc và năng lực tư duy lôgíc
1.1.1.1. Tư duy lôgíc
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư duy là giai
đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức thế giới của con người, là
sự phản ánh gián tiếp, khái quát, tích cực và sáng tạo thế giới bằng các
khái niệm, phán đoán, suy luận..., và nhờ đó có thể phản ánh được những


7
mặt, những mối liên hệ chung, bản chất, có tính quy luật của khách thể
nhận thức.
Từ thời cổ đại, khi con người bắt đầu tìm hiểu các sự vật, hiện tượng
của thế giới xung quanh mình và suy xét về chúng đã xuất hiện hai phương

pháp tư duy đối lập nhau: phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình. Lịch sử lôgíc học là lịch sử phát triển của nhận thức, của tư duy qua
các giai đoạn phát triển của xã hội.
Tư duy lôgíc là sự đúc kết những tư tưởng lôgíc trong lịch sử, sản
phẩm của sự kết tinh tư duy nhân loại, đồng thời được bổ sung, phát triển
trên cơ sở khoa học và thực tiễn mới, do đó là đỉnh cao của tư duy lôgíc.
Tư duy lôgíc được thể hiện trong lôgíc học là tư duy lôgíc tuân thủ các
nguyên tắc, quy luật, phương pháp luận lôgíc. Nó yêu cầu xem xét các sự
vật, hiện tượng trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng,
trong sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng; đi sâu phân
tích bản chất, vạch ra nguồn gốc, cách thức cũng như xu hướng vận động
và phát triển của sự vật; xem xét các sự vật trong tính thống nhất giữa lịch
sử và lôgíc, v.v..
1.1.1.2. Năng lực tư duy lôgíc
Sau khi tham khảo các công trình nghiên cứu về năng lực tư duy,
chúng tôi cho rằng năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất tâm,
sinh lý, trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức và cải tạo thế giới, đảm bảo cho
hoạt động của con người phù hợp với quy luật, đạt hiệu quả. Nó biểu hiện
ở khả năng nắm bắt và vận dụng một cách chủ động, nhuần nhuyễn, sáng
tạo những tri thức, phương pháp, khả năng tiếp nhận và xử lý những
thông tin, hình thành tri thức mới về sự vật, từ đó lựa chọn phương án, ra
quyết định đúng cho hành động.
Từ phạm trù năng lực tư duy, đề tài trình bày phạm trù NLTDLG.
Cũng như mọi hoạt động khác, hoạt động tư duy bị chi phối bởi phương
pháp luận chung nhất định với chức năng định hướng, gợi mở cho quá
trình hoạt động. Khi nói tư duy lôgíc hay phương pháp tư duy lôgíc, tư
duy siêu hình hay phương pháp tư duy siêu hình là nói đến các loại hình
tư duy được định hướng bởi phương pháp luận logic học hay phương
pháp luận siêu hình. Tư duy lôgíc được định hướng bởi phương pháp luận



8
lôgíc - phương pháp luận khoa học của nhận thức và thực tiễn. Nhưng nếu
phương pháp luận lôgíc có tính định hướng, gợi mở thì các thao tác,
phương pháp của tư duy lôgíc lại có chức năng là “công cụ” nhận thức.
Do đó, muốn nhận thức sự vật một cách đúng đắn, chủ thể không những
phải vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo phương pháp luận lôgíc mà còn
phải vận dụng thành thục các thao tác của tư duy lôgíc, tuân thủ nghiêm
ngặt các quy luật, quy tắc lôgíc.
Như vậy, năng lực tư duy lôgíc là tổng hợp những phẩm chất tâm,
sinh lý, trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở khả năng nắm vững và vận dụng
một cách chủ động, nhuần nhuyễn, sáng tạo các ngyên tắc, quy luật, thao
tác của tư duy nhằm phát hiện, sáng tạo và giải quyết một cách hiệu quả
những vấn đề nhận thức và thực tiễn đang đặt ra.
1.1.2. Sự cần thiết bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho
sinh viên sư phạm
1.1.2.1. Tính đặc thù của lao động sư phạm
Để thấy được sự cần thiết bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho SVSP,
cần tìm hiểu công việc mà SVSP sẽ làm sau khi tốt nghiệp, tìm hiểu tính
đặc thù của lao động sư phạm. So với các ngành nghề khác, lao động của
người giáo viên mang tính đặc thù, do chính mục đích, đối tượng, kết
quả… của lao động sư phạm quy định. Nhiệm vụ của người giáo viên
không chỉ là nắm bắt tri thức khoa học và truyền đạt tri thức đó cho học
sinh mà còn phải giáo dục cho học sinh phương pháp suy nghĩ, phương
pháp suy luận, phương pháp nghiên cứu. Ở nhà trường, điều chủ yếu là
rèn luyện trí thông minh cho học sinh. Dạy học phải gắn với việc rèn
luyện, phát triển những phẩm chất trí tuệ của học sinh như tính tích cực,
độc lập, khả năng tư duy sáng tạo, lôgíc.
1.1.2.2. Vai trò của năng lực tư duy lôgíc đối với sinh viên sư phạm
Đối với hoạt động học tập của sinh viên nói chung, vai trò của

NLTDLG thể hiện trên nhiều mặt như: nhận thức, nắm vững nội dung các
môn học; trau dồi nghề nghiệp; học tập để không ngừng nâng cao trình độ
văn hóa, khoa học; rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong
nghề nghiệp; tham gia nghiên cứu khoa học; tìm hiểu và tham gia giải
quyết các vấn đề thực tiễn xã hội, v.v.. Bên cạnh đó, do mục tiêu đào tạo


9
của các trường, các khoa sư phạm và tính đặc thù của lao động sư phạm
nên NLTDLG có một vai trò quan trọng nhưng lại hết sức cụ thể đối với
SVSP trong quá trình học tập, rèn luyện.
- NLTDLG đảm bảo cho SVSP học tập, nắm vững chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm: giúp SVSP nhận thức sâu sắc mục tiêu, nguyên lý
giáo dục; là cơ sở quan trọng để sinh viên nắm vững phương pháp luận
dạy học, tiếp nhận, rèn luyện phương pháp dạy học; rèn luyện khả năng
phát hiện, phân tích và giải quyết những tình huống, những mâu thuẫn
nảy sinh trong quá trình dạy học.
- NLTDLG là điều kiện thiết yếu của người giáo viên để thực hiện
nhiệm vụ rèn luyện, phát triển NLTDLG cho học sinh. Để thực hiện được
mục tiêu, yêu cầu rèn luyện NLTDLG cho học sinh, bản thân người giáo
viên cũng phải được trang bị NLTDLG. Nếu NLTDLG của người giáo
viên hạn chế sẽ khó hoàn thành được nhiệm vụ rèn luyện NLTDLG cho
học sinh. NLTDLG của người giáo viên càng cao, sẽ càng có khả năng
đạt được kết quả tốt trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Do đó,
bên cạnh những phẩm chất cơ bản về chính trị, đạo đức, lối sống, vốn
kiến thức chuyên môn, phương pháp dạy học, các kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp, người giáo viên cần phải được trang bị NLTDLG.
1.1.2.3. Sự yếu kém về năng lực tư duy lôgíc của sinh viên khi mới
vào trường đại học và của giáo viên phổ thông
Trong nhà trường phổ thông, các môn học chủ yếu trang bị những

kiến thức cơ bản, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Giáo viên
thường truyền đạt kiến thức và hướng dẫn các dạng bài tập mẫu cho học
sinh, còn học sinh chỉ học thuộc kiến thức và làm theo các mẫu bài tập
sẵn có. Việc rèn luyện năng lực tư duy cho học sinh chưa được quan tâm
đúng mức. Do đó, khi bước vào các trường đại học và cao đẳng, sinh viên
còn có sự yếu kém về năng lực tư duy, nhất là NLTDLG. Sinh viên chưa
biết liên kết kiến thức trong mỗi phần, cũng như toàn bộ môn học, chưa
biết di chuyển kiến thức từ phần nọ sang phần kia; chưa biết bám sát từng
bài tập, từng đề tài với những đặc điểm, yêu cầu cụ thể để giải thích,
chứng minh, luận giải; vận dụng các nguyên lý, công thức, phương pháp
một cách máy móc. Năng lực thực hành, năng lực vận dụng kiến thức đã


10
học để tìm hiểu và tham gia giải quyết các vấn đề thực tiễn còn hạn chế,
v.v..
Đội ngũ giáo viên phổ thông hiện nay phần lớn là những người tận
tụy với nghề, song chất lượng nhìn chung chưa cao, còn có sự yếu kém về
NLTDLG. Nhiều giáo viên thiếu tính linh hoạt, sáng tạo trong tư duy; suy
nghĩ còn rập khuôn máy móc, chưa biết tìm ra phương pháp dạy học cho
phù hợp với từng đối tượng, tình huống cụ thể; khả năng phát hiện vấn đề,
phân tích mâu thuẫn nảy sinh trong dạy học còn hạn chế; mắc bệnh cực
đoan phiến diện, lúc thì đề cao phương pháp thuyết trình, lúc lại đề cao
phương pháp nêu vấn đề, lúc thì tuyệt đối hóa hình thức tự luận, lúc lại
tuyệt đối hóa hình thức trắc nghiệm khách quan, v.v..
Quá trình đổi mới mạnh mẽ, cơ bản và toàn diện nền giáo dục nước
nhà đòi hỏi phải xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên, nâng cao chất
lượng đào tạo giáo viên, chú trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG
cho những người giáo viên tương lai.
1.2. Vai trò của giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn

luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm
1.2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển
năng lực tư duy lôgíc của sinh viên
Tiền đề sinh học, mà trước hết và chủ yếu là bộ não người, là yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tư duy, đến chiều hướng phát triển cũng
như kết quả rèn luyện năng lực tư duy. Dĩ nhiên, đặc tính bẩm sinh chỉ là
một khả năng bắt nguồn từ năng lực phản ánh của con người, nó cần được
phát triển, rèn luyện. Sự phát triển NLTDLG của sinh viên còn chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố khác như: quá trình học tập, rèn luyện; yếu tố
kinh tế - xã hội truyền thống; yếu tố thời đại; nhu cầu, lợi ích của sinh
viên trong học tập, rèn luyện và hoạt động xã hội…. Trong đó, quá trình
học tập, rèn luyện có ảnh hưởng trực tiếp nhất.
1.2.2. Tầm quan trọng của giảng dạy lôgíc học trong việc bồi
dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm
Tính đặc thù của giảng dạy lôgíc học trong các trường đại học và
cao đẳng thể hiện ở mục đích, yêu cầu, phương pháp giảng dạy, hình thức


11
và phương pháp tổ chức hoạt động dạy - học. Mục đích, yêu cầu chủ yếu
của giảng dạy lôgíc học trong các trường đại học, cao đẳng là trang bị cho
sinh viên một cách tương đối có hệ thống các nguyên tắc, phương pháp tư
duy khoa học; bước đầu biết vận dụng tri thức lôgíc học vào nghiên cứu
khoa học cụ thể, cũng như phân tích những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống
đặt ra. Thực chất của giảng dạy lôgíc học là hoạt động nhận thức có tính
chất nghiên cứu của sinh viên được tiến hành dưới sự tổ chức, hướng dẫn,
điều khiển của giảng viên. Phương pháp giảng dạy lôgíc học mang tính
chất chung của phương pháp sư phạm, đồng thời là phương pháp bộ môn,
mang tính chất đặc thù của bộ môn. Giảng dạy lôgíc học được tiến hành
bởi các hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động như: truyền thụ và

tiếp nhận kiến thức, tự học và tự nghiên cứu, thảo luận, hội thảo khoa học,
hoạt động chính trị - xã hội, v.v..
Trong các trường, các khoa sư phạm hiện nay, lôgíc học được giảng
dạy theo những chương trình khác nhau tùy theo từng đối tượng đào tạo.
SVSP ngành Giáo dục Chính trị học các môn như: Lôgíc học đại cương,
Lôgíc biện chứng, v.v.. Ở một số trường, SVSP ngành Văn, Sử, ngoài lôgíc
học còn học thêm môn Lịch sử lôgíc học. SVSP các ngành như Toán, Lý,
Hóa, Sinh, Giáo dục thể chất, Giáo dục tiểu học… chỉ học lôgíc học.
Nghiên cứu nắm vững lôgíc học có tầm quan trọng đối với việc bồi
dưỡng và rèn luyện tư duy lôgíc để phòng và chống chủ nghĩa chủ quan,
tránh phương pháp tư duy phi lôgíc. Theo nhận xét của Ph.Ăngghen,
nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của thế giới vật chất cũng giúp con
người phát triển khả năng tư duy lôgíc. Song quá trình này diễn ra một
cách chậm chạp, tự phát, thiếu sự chỉ đạo và không thể vạch ra được con
đường tổng quát của tư duy lôgíc. Nghiên cứu nắm vững lôgíc học giúp
con người chủ động, linh hoạt trong quá trình tìm tói, khám phá, phát hiện
tri thức mới.
Liên quan tới việc nâng cao NLTDLG cho SVSP, giảng dạy lôgíc
học, đặc biệt lôgíc học có tác động trực tiếp, mạnh mẽ, hiệu quả nhất. Bởi
lẽ:
- Giảng dạy lôgíc học trang bị cho sinh viên một cách có hệ thống
các nguyên tắc, quy luật, thao tác và phương pháp tư duy khoa học cần
thiết trong phát hiện tri thức mới. Thông qua giảng dạy, giảng viên giúp


12
sinh viên nắm được các quan điểm lý luận có tác dụng gợi mở, chỉ đạo,
định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, các nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản của lôgíc học (nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát
triển, nguyên tắc lịch sử - cụ thể), đồng thời rèn luyện cho sinh viên khả

năng vận dụng kiến thức lôgíc học vào học tập chuyên môn nghiệp vụ sư
phạm.
- Thực chất của tư duy lôgíc là quá trình vận dụng các hình thức tư
duy, các khái niệm, phạm trù một cách mềm dẻo, linh hoạt, lôgíc. Giảng
dạy lôgíc học giúp sinh viên nắm được bản chất của khái niệm, thao tác tư
duy khái niệm, cũng như các hình thức tư duy và của nhận thức nói
chung, qua đó nâng cao năng lực vận dụng các hình thức cơ bản của tư
duy lôgíc cho sinh viên.
- Việc giới thiệu, phân tích lịch sử lôgíc học theo quan điểm mácxít
sẽ làm giàu trí tuệ cho sinh viên bằng những tri thức rất phong phú và sâu
sắc mà loài người đã tạo ra và được kết tinh trong lôgíc học; giúp họ hiểu
bản chất của tư duy lôgíc một cách đầy đủ, sâu sắc hơn; thấy được mối
liên hệ khăng khít giữa sự phát triển của tư duy lôgíc học và sự phát triển
khoa học, từ đó nhận thức được sự cần thiết liên hệ, kết hợp giữa tri thức
lôgíc học với tri thức khoa học chuyên ngành.
Chương 2
GIẢNG DẠY LÔGÍC HỌC VỚI VIỆC BỒI DƯỠNG, RÈN LUYỆN
NĂNG LỰC TƯ DUY LÔGÍC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Thực trạng giảng dạy lôgíc học với việc bồi dưỡng, rèn luyện
năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm
2.1.1. Những kết quả đã đạt được trong giảng dạy lôgíc học đối
với việc bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư
phạm
Trong tiến trình đổi mới của đất nước, giảng dạy lôgíc học đã mang
tinh thần, hơi thở của không khí đổi mới. Nội dung giảng dạy ngày càng
hợp lý hơn, phương pháp giảng dạy thường xuyên được cải tiến, điều
kiện, phương tiện giảng dạy được tăng cường, v.v.. Đối với việc bồi


13

dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho SVSP, giảng dạy lôgíc học có những ưu
điểm nhất định như: góp phần vào việc bồi dưỡng các nguyên tắc, quy
luật và phương pháp luận khoa học, giúp họ giải quyết các vấn đề nảy
sinh trong quá trình học các môn chuyên ngành. Giảng dạy lôgíc học đã
giúp cho nhiều sinh viên nắm được nội dung, ý nghĩa phương pháp tư duy
khoa học; các nguyên tắc cơ bản của phương pháp lôgíc vận dụng trong
nhận thức khoa học, đồng thời, bước đầu thực hiện được yêu cầu giúp
sinh viên vận dụng phương pháp tư duy khoa học vào học tập, nghiên cứu
khoa học chuyên ngành và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Trong các kỳ
kiến tập và thực tập sư phạm, nhiều sinh viên chủ động vận dụng phương
pháp dạy học tùy theo từng nội dung bài học, từng đối tượng học sinh và
tùy theo từng điều kiện dạy và học cụ thể của từng trường, từng địa
phương; biết dẫn dắt người học đi qua các giai đoạn của sự phát triển
nhận thức trong lịch sử để hiểu và nắm vững khái niệm, phạm trù, quy
luật; vận dụng mối liên hệ nhân - quả khi dạy các tác phẩm văn học dân
gian, v.v..
2.1.2. Những hạn chế trong giảng dạy lôgíc học đối với việc bồi
dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm
Việc phát huy vai trò giảng dạy lôgíc học trong bồi dưỡng, rèn luyện
NLTDLG cho sinh viên, bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn có những
hạn chế nhất định. Giảng dạy lôgíc học nhìn chung chưa hiện tốt yêu cầu
giúp sinh viên nắm vững nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của các
nguyên tắc, quy luật, thao tác tư duy để vận dụng vào học tập, rèn luyện.
Từ chỗ chưa hiểu được một cách thấu đáo, thậm chí hiểu sai nội dung các
nguyên lý, phạm trù, quy luật nên nhiều sinh viên không thể nắm được ý
nghĩa phương pháp luận và do đó, không thể vận dụng vào học tập, rèn
luyện chuyên môn nghiệp vụ. Giảng dạy lôgíc học chưa hiện được yêu
cầu rèn luyện phương pháp tư duy lôgíc cho sinh viên. Giảng dạy theo
kiểu truyền đạt và tiếp nhận thông tin, mô tả kiến thức chứ chưa đi sâu
vào phân tích, luận giải nhằm làm cho người học nắm vững và vận dụng

được phương pháp lôgíc duy vật; nắm vững và vận dụng một cách linh
hoạt, nhuần nhuyện các nguyên tắc, quy luật; biến lý luận thành phương
pháp để phân tích, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập, rèn luyện,
cũng như trong cuộc sống.


14
Việc thực hiện yêu cầu rèn luyện cho SVSP khả năng vận dụng
phương pháp luận lôgíc duy vật để tiếp nhận, trau dồi phương pháp dạy
học còn hạn chế. Thực tế cho thấy, nhiều SVSP chưa biết xuất phát từ
cách tiếp cận của lôgíc học về phương pháp, chưa biết vận dụng phương
pháp tư duy khoa học với tính cách là hệ thống những quan điểm, những
nguyên tắc chung nhất làm căn cứ xuất phát cho việc xác định phương
pháp và phương pháp luận dạy học. Giảng dạy lôgíc học hiện nay chưa
gắn với chuyên ngành sư phạm, chưa có tác dụng thiết thực đối với SVSP
trong việc rèn luyện khả năng phát hiện, phân tích và giải quyết tình
huống, mâu thuẫn của quá trình dạy học.
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Hạn chế về NLTDLG của SVSP do nhiều nguyên nhân, nhưng trong
phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung phân tích những nguyên nhân
chủ yếu liên quan tới giảng dạy lôgíc học ở các trường đại học và cao
đẳng.
2.1.3.1. Về nội dung chương trình
Thực tế cho thấy, nội dung chương trình cũng như nội dung bài giảng
của giảng viên chưa chú trọng chức năng phương pháp luận, sự vận dụng
phương pháp luận lôgíc duy vật vào học tập, rèn luyện. Các vấn đề lý luận
và thực tiễn trình bày nhiều khi chưa có sự thống nhất; lý luận có chỗ
chưa liên hệ chặt chẽ, chưa phản ánh kịp sự biến đổi của thực tiễn cuộc
sống, thực tiễn giáo dục; việc luận giải các quan điểm chính trị của giảng
viên chưa thực sự thuyết phục sinh viên. Đặc biệt, nội dung chương trình

chưa gắn với mục đích, yêu cầu đào tạo của ngành sư phạm. Sinh viên tất
cả các trường đều dùng chung một giáo trình, thậm chí nhiều trường ghép
nhiều khoa, nhiều chuyên ngành lại thành một lớp lớn để cùng nghe
giảng. Sự kết hợp giữa môn lôgíc học và các môn chuyên ngành còn rất
hạn chế; lôgíc học được dạy như một môn khoa học riêng biệt, không liên
quan nhiều đến chuyên ngành đào tạo.
2.1.3.2. Về phương pháp giảng dạy của giảng viên


15
Thời gian qua, cùng với việc đổi mới nội dung chương trình, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, các trường đại học và cao đẳng chú trọng đổi mới phương
pháp giảng dạy lôgíc học. Tuy nhiên, phương pháp giảng dạy của giảng
viên các trường đại học, cao đẳng, từ khâu giảng bài đến khâu hướng dẫn
sinh viên thảo luận, tự học, đánh giá kết quả nhìn chung còn chậm cải
tiến, do đó, giảng dạy lôgíc học chưa phát huy được vai trò của mình vào
việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên.
2.1.3.3. Về ý thức và phương pháp học tập của sinh viên
Những hạn chế về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy cũng
như thái độ của một số cán bộ quản lý và giảng viên làm cho sinh viên nhận
thức chưa đúng vai trò của NLTDLG đối với SVSP trong học tập, rèn luyện
chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, cũng như vai trò của học tập, nghiên cứu
lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG. Hạn chế về phương pháp
học tập cũng là nguyên nhân làm cho kết quả học tập chưa cao (chủ yếu ở mức
trung bình và trung bình khá), khiến cho giảng dạy lôgíc học chưa phát huy
được vai trò của mình trong việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên.
2.2. Những vấn đề đặt ra trong giảng dạy lôgíc học với việc bồi
dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên sư phạm
2.2.1. Tính trừu tượng, khái quát cao của tri thức lôgíc học với sự
hạn chế về trình độ tư duy, trình độ học vấn, vốn sống thực tế của

những người vừa tốt nghiệp trung học phổ thông
Lôgíc học là khoa học nghiên cứu hình thức và quy luật, các nguyên
tắc tư duy nhằm sản xuất ra tri thức mới; thể hiện chiều sâu của tư tưởng
và đạt tới trình độ cao của trí tuệ con người. Lôgíc học là khái quát của sự
khái quát (khoa học cụ thể đã là một sự khái quát hóa mà lôgíc học lại
được khái quát từ khoa học), là kết tinh từ sự kết tinh, do đó, nó mang
tính trừu tượng, khái quát cao.
Để nắm vững và vận dụng tri thức lôgíc học vào nghiên cứu khoa học
chuyên ngành và thực tiễn xã hội, người học phải có trình độ tư duy nhất
định, vốn sống thực tế, trình độ học vấn với kiến thức rộng, cả về khoa
học tự nhiên lẫn khoa học xã hội và nhân văn. Nhưng với những người
vừa tốt nghiệp trung học phổ thông thì trình độ tư duy, trình độ học vấn
chưa cao, vốn sống thực tế còn hạn chế.


16
2.2.2. Yêu cầu phát huy vai trò của giảng viên trong việc bồi
dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy lôgíc cho sinh viên với tình trạng
thiếu hụt về số lượng và yếu kém về chất lượng của đội ngũ giảng
viên các trường đại học và cao đẳng
Thời gian qua, do các trường, các khoa sư phạm mở rộng quy mô đào
tạo và chú trọng công tác bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giảng viên, đồng
thời, do ý thức tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ của nhiều
giảng viên nên số lượng giảng viên lôgíc học ngày càng đông hơn, chất
lượng của đội ngũ này ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, sự lớn mạnh
của đội ngũ giảng viên lôgíc học vẫn chưa đáp ứng kịp so với yêu cầu của
sự phát triển giáo dục và đào tạo trong tình hình mới. Những hạn chế nhất
định về nhận thức cũng như về năng lực, trình độ chuyên môn khiến cho
đội ngũ giảng viên lôgíc học chưa phát huy được vai trò của mình trong
việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên.

Theo Công văn số 2488/BGDĐT-ĐH & SĐH, từ năm học 2008 2009 trở đi, sinh viên khối không chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh sẽ học tập, nghiên cứu lôgíc học qua môn “Những nguyên
lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin”. Dung lượng kiến thức lôgíc học
rất lớn nhưng thời gian dành cho lý thuyết, thảo luận, tự học lại rất ít (3
tín chỉ đối với cả môn học). Đối với giảng viên, bên cạnh giảng dạy lôgíc
học còn phải giảng dạy kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong các trường có khoa Giáo dục chính trị, giảng viên còn phải dạy các
môn khác như Lịch sử lôgíc học, Lôgíc học, Đạo đức học, Mỹ học, Lý
luận tôn giáo, v,v.. Có thể thấy, nhiệm vụ của giảng viên rất nặng nề, khối
lượng công việc mà giảng viên phải thực hiện rất lớn trong khi năng lực,
trình độ của đội ngũ giảng viên lại có những hạn chế nhất định. Vấn đề
đặt ra là làm sao để phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên trong việc bồi
dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên?
2.2.3. Việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên đòi hỏi
phải có sự kết hợp giữa giảng dạy lôgíc học với giảng dạy các môn
chuyên ngành trong khi khả năng kết hợp giữa các môn học còn hạn chế
Thiếu sự kết hợp giữa giảng dạy lôgíc học với giảng dạy các môn
chuyên ngành là một thực tế ở các trường đại học và cao đẳng hiện nay.
Chúng ta nói nhiều đến vị trí, vai trò của lôgíc học và bản thân giảng viên,


17
sinh viên cũng bỏ ra rất nhiều thời gian, công sức cho môn học này, song
với mục đích, yêu cầu giúp sinh viên nắm vững và vận dụng được phương
pháp luận lôgíc duy vật vào học tập, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ sư
phạm, thì kết quả thu được còn rất khiêm tốn. Sinh viên học nhiều mà vận
dụng chẳng được bao nhiêu; học xong, thi xong rồi hầu như cũng quên đi.
Không ít những SVSP có điểm thi môn lôgíc học vào loại khá, giỏi,
nhưng những tri thức lôgíc học đó lại không giúp ích nhiều cho họ trong
việc lĩnh hội tri thức khoa học cơ bản, tri thức khoa học giáo dục và rèn

luyện năng lực sư phạm. Trong khi đó, các môn chuyên ngành được giảng
dạy như một môn khoa học độc lập, không có sự vận dụng tri thức lôgíc
học để phân tích, luận giải các nội dung môn học; không gắn với việc bồi
dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên.
Sự kết hợp giữa giảng dạy lôgíc học và giảng dạy các môn chuyên
ngành gặp nhiều khó khăn, do quan điểm, nhận thức cũng như năng lực,
trình độ của đội ngũ giảng viên. Giảng viên lôgíc học không am hiểu
nhiều về khoa học chuyên ngành, còn giảng viên chuyên ngành lại hiểu
biết về lý luận lôgíc học một cách rất hạn chế.
2.2.4. Việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG đòi hỏi nhiều thời
gian, công sức trong khi quỹ thời gian dành cho nó lại rất hạn chế
Một trong những vấn đề đặt ra trong đổi mới giảng dạy lôgíc học
theo yêu cầu rèn luyện NLTDLG cho SVSP là dung lượng tri thức lôgíc
học rất lớn, trong khi đó thời gian dành cho lý thuyết, thảo luận, tự nghiên
cứu lại hạn chế. Trong quá trình học tập ở trường, SVSP phải thực hiện
những nhiệm vụ rất nặng nề, vừa phải lĩnh hội một khối lượng tri thức rất
lớn qua nhiều môn học, vừa phải rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện
phẩm chất nhà giáo, tham gia các hoạt động xã hội... trong khi đó, quỹ
thời gian dành cho học tập và rèn luyện lại có hạn.
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
GIẢNG DẠY LÔGÍC HỌC TRONG VIỆC BỒI DƯỠNG, RÈN LUYỆN
NĂNG LỰC TƯ DUY LÔGÍC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
3.1. Thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của lôgíc học trong hệ
thống các môn học


18
Nhằm phát huy vai trò giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn
luyện NLTDLG cho SVSP, trước hết cần thống nhất nhận thức của mọi

người trong toàn ngành và xã hội. Cần làm cho giảng viên và sinh viên,
cũng như các cán bộ lãnh đạo, quản lý đào tạo... nhận thức sâu sắc về vị
trí, vai trò của lôgíc học trong hệ thống các môn học cũng như tính tất yếu
phát huy vai trò giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn luyện
NLTDLG cho người học.
3.2. Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy lôgíc
học
3.2.1. Đổi mới nội dung chương trình lôgíc học
Nội dung chương trình cần chú trọng chức năng phương pháp luận,
sự vận dụng phương pháp tư duy khoa học vào nhận thức và thực tiễn.
Cần làm cho sinh viên nắm được tính khoa học và cách mạng hết sức sâu
sắc, triệt để sự thống nhất giữa phép lôgíc, lý luận nhận thức và lôgíc
lôgíc. Từ việc trình bày nội dung các nguyên lý, quy luật, cần tập trung
phân tích những yêu cầu, ý nghĩa và cách thức vận dụng các nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản. Từ việc nghiên cứu các phạm trù lịch sử và
lôgíc, cụ thể và trừu tượng, cần đi sâu tìm hiểu các phương pháp nhận
thức khoa học, như phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, phương
pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, v.v..
Các vấn đề lý luận và thực tiễn phải được trình bày một cách thống
nhất, làm sao để lý luận lôgíc học thường xuyên liên hệ chặt chẽ với thực
tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục, phản ánh kịp thời sự biến đổi của đời sống
xã hội; làm cho sinh viên nắm được cơ sở lý luận, khía cạnh phương pháp
luận của đường lối, chủ trương, chính sách đang thực thi trong đời sống,
từ đó có thể tự phân tích, nhận định, đánh giá những vấn đề thực tiễn mới
nảy sinh. Đối với SVSP, cần chú trọng liên hệ, đối chiếu tri thức của lôgíc
học với thực tiễn giáo dục, với quá trình đổi mới giáo dục ở nước ta. Cần
định hướng cho sinh viên vận dụng phương pháp tư duy khoa học để luận
giải mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục.
Nội dung chương trình cần gắn lôgíc học với đặc thù của chuyên
ngành sư phạm. Trong các trường, các khoa sư phạm, giảng dạy lôgíc học

phải gắn bó và phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ đào tạo giáo viên, góp


19
phần chủ yếu vào việc trau dồi lý luận và phương pháp luận, bồi dưỡng,
rèn luyện NLTDLG cho SVSP. Trên cơ sở Giáo trình Lôgíc học do Hội
đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn và Chương trình, Giáo trình Lôgíc
học dùng trong các trường đại học và cao đẳng, cần biên soạn giáo trình
riêng cho hệ sư phạm, cần xây dựng nội dung bài giảng, hệ thống câu hỏi
thi, kiểm tra, các đề tài tiểu luận... phù hợp với từng chuyên ngành cụ thể
(Toán, Lý, Hóa, Lịch sử...), hoặc từng khối ngành (Nhân văn, Tự nhiên,
Tiểu học...) và phù hợp với từng bậc đào tạo (đại học, cao đẳng). Nội
dung các nguyên lý cơ bản giống nhau, nhưng phần ý nghĩa phương pháp
luận, các ví dụ minh họa nên theo ngành học của sinh viên.
Giảng dạy lôgíc học phải gắn với việc trình bày lịch sử hình thành và
phát triển của bản thân nó, cũng như lịch sử tư tưởng lôgíc học nói chung,
qua đó giúp sinh viên hiểu bản chất của tư duy lôgíc một cách đầy đủ, sâu
sắc hơn, tiếp thu được những tư tưởng lôgíc có giá trị trong lịch sử, hiểu
được nguyên nhân và hạn chế của các quan điểm duy tâm, siêu hình, v.v..
Nội dung chương trình cần đổi mới theo hướng tinh gọn, dễ tiếp thu,
gắn với cuộc sống, thiết thực với người học, phù hợp với đối tượng đào
tạo. Đây là xu hướng chung trong đổi mới nội dung chương trình các môn
học ở các trường đại học và cao đẳng hiện nay.
3.2.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy lôgíc học
Phương pháp giảng dạy lôgíc học tất yếu phải tuân thủ những yêu
cầu chung của phương pháp sư phạm. Đồng thời, với tính cách là phương
pháp giảng dạy bộ môn, nó có những đặc trưng riêng phụ thuộc vào đối
tượng dạy học, mục đích, yêu cầu của môn học, v.v..
Nhằm bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên, cần đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng: gắn giảng dạy với việc rèn luyện cho

sinh viên khả năng vận dụng tri thức, biến tri thức thành phương pháp,
nguyên tắc chỉ đạo hành động; vận dụng tri thức liên môn; tuân thủ
nguyên tắc tính thực tiễn. Nguyên tắc tính vừa sức cần được chú trọng
trong giảng dạy lôgíc học, vì rằng, tri thức lôgíc học mang tính trừu
tượng, khái quát cao, trong khi trình độ tư duy, trình độ học vấn và vốn
sống thực tế của sinh viên lại có những hạn chế nhất định. Giảng viên cần
có nghệ thuật sư phạm để dẫn dắt người học tiếp cận dần với những kiến


20
thức lôgíc học, cần đi từ những vấn đề đơn giản đến những vấn đề phức
tạp hơn để người học có thể từng bước hiểu và vận dụng được các kiến
thức lôgíc học. Qua đó, giúp sinh viên nắm được nội dung môn học một
cách sâu sắc, hệ thống, và hiểu hơn về phương pháp lôgíc, đồng thời chỉ
dẫn cho họ cách thức vận dụng phương pháp này trong học tập cũng như
dạy học sau này. Cần đổi mới phương pháp giảng dạy một cách toàn diện,
đồng bộ ở tất cả các khâu: giảng bài, thảo luận và đánh giá kết quả học tập.
Đổi mới phương pháp giảng dạy phải gắn liền với đổi mới phương
pháp học tập của sinh viên. Giảng viên cần hướng dẫn sinh viên đổi mới
phương pháp học tập, phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh
viên, làm cho họ nhận thức sâu sắc tính tất yếu đổi mới phương pháp học
tập lôgíc học; hướng dẫn sinh viên hình thành cách học phù hợp với môn
học; rèn luyện cho sinh viên khả năng vận dụng phương pháp tư duy logic
vào nghiên cứu khoa học chuyên ngành và phân tích các vấn đề thực tiễn
xã hội, thực tiễn giáo dục; gắn học tập, nghiên cứu lôgíc học với việc tiếp
nhận, rèn luyện phương pháp dạy học. Cần hướng dẫn sinh viên đổi mới
phương pháp học tập một cách toàn diện, trên tất cả các khâu: nghe giảng,
tự học, thảo luận, làm bài tập, nghiên cứu khoa học, v.v..
3.3. Tăng cường xây dựng đội ngũ giảng viên lôgíc học
Cần phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên học. Giảng viên phải là

người đi đầu trong việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, đáp
ứng yêu cầu bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên. Bên cạnh
những phẩm chất cơ bản về chính trị và đạo đức, khả năng sư phạm,
giảng viên lôgíc học phải là người có tư duy lôgíc ở trình độ cao. Để xây
dựng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng và bảo đảm về chất lượng, cần
tập trung vào những nội dung chủ yếu như:
Một là, đẩy mạnh công tác đào tạo và tuyển dụng giảng viên. Các cơ
sở đào tạo cần có chính sách tuyển sinh phù hợp nhằm tuyển chọn đúng
đối tượng đào tạo. Ngoài việc trang bị tri thức khoa học và giáo dục phẩm
chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, cần chú trọng rèn luyện cho giảng viên
lôgíc học tương lai phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề,
năng lực vận dụng tri thức để giải quyết các vấn đề nhận thức và thực
tiễn; trang bị kỹ năng sư phạm, phương pháp giảng dạy lôgíc học. Cần đổi
mới chương trình đào tạo theo hướng khoa học, hiện đại nhằm trang bị


21
cho giảng viên những tri thức mang tính toàn diện, bao gồm cả tri thức về
khoa học xã hội và nhân văn, cả tri thức về khoa học tự nhiên và kỹ thuật.
Mở rộng quy mô đào tạo sau đại học đi đôi với nâng cao chất lượng đào
tạo. Khâu tuyển dụng giảng viên cần tiến hành một cách khách quan,
khoa học, theo một quy trình chặt chẽ và đặt trong kế hoạch phát triển của
mỗi khoa, mỗi trường và chiến lược chung của ngành giáo dục - đào tạo.
Hai là, thường xuyên chú trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên. Cần tăng cường bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng
viên thông qua các lớp tập huấn; tổ chức và phối hợp tổ chức các hội thảo
khoa học về đổi mới phương pháp giảng dạy lôgíc học; quan tâm và tạo
điều kiện cho giảng viên thâm nhập thực tế tại cơ sở, học tập kinh
nghiệm, tham quan, thực tế tại các trường, các địa phương trong và ngoài
nước; chú trọng bồi dưỡng giảng viên trẻ. Bên cạnh đó, cần quan tâm tới

chế độ, chính sách đối với giảng viên nhằm góp phần làm ổn định đời
sống vật chất, tạo động lực thúc đẩy giảng viên toàn tâm, toàn lực với
nghề, ra sức học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ.
3.4. Kết hợp giữa giảng dạy lôgíc học với giảng dạy các môn học
khác và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
NLTDLG góp phần tạo cơ sở cho SVSP nắm vững nội dung các môn
học, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ sư phạm. Mặt khác, các môn học
được giảng dạy trong trường đại học, cao đẳng đều tham gia vào quá trình
bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên theo những đặc thù về tri
thức lý luận và phương pháp luận riêng của mình. Do đó, thông qua giảng
dạy nội dung các môn học chuyên ngành, cần giúp sinh viên hiểu rõ về lý
luận và phơng pháp luận lôgíc học, rèn luyện cho họ năng lực vận dụng
tri thức lôgíc học vào nghiên cứu chuyên ngành.
Năng lực tư duy lôgíc đảm bảo cho hoạt động của chủ thể phù hợp
với quy luật, đạt hiệu quả. Vì vậy, việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG
cho sinh viên không những giúp họ vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo
phương pháp luận lôgíc duy vật mà còn phải chú trọng nâng cao năng lực
tư duy lôgíc, giúp sinh viên tư duy một cách chặt chẽ, nhất quán, tuân
theo những quy luật, quy tắc lôgíc. Cần trang bị cho sinh viên những kiến


22
thức cơ bản của lôgíc học, đặc biệt là lôgíc hình thức; đưa môn lôgíc hình
thức vào giảng dạy trong các trường, các khoa sư phạm.
Rèn luyện NLTDLG và đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là
hai mảng cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, hướng vào
việc hình thành ở người học trình độ chuyên môn - nghiệp vụ.

KẾT LUẬN

Từ những vấn đề đã được trình bày, phân tích trên đây, đề tài khép
lại với một số kết luận được rút ra như sau:
1. Với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và của
kinh tế tri thức, với xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạmh mẽ,
chưa bao giờ nhân tố con người lại được mọi quốc gia chú trọng như hiện
nay. Phát huy vai trò con người thực chất là bồi dưỡng, phát triển và khai
thác những tiềm năng vô tận, sáng tạo của con người. NLTDLG với
những đặc trưng của nó biểu hiện sức mạnh trí tuệ của con người, là công
cụ sắc bén để nhận thức và cải tạo hiện thực, do đó, nó có vai trò hết sức
quan trọng và vai trò ấy ngày càng tăng lên trong thời đại ngày nay.
2. Đối với hoạt động học tập, rèn luyện của người giáo viên tương
lai, NLTDLG có vai trò quan trọng, giúp họ lĩnh hội tri thức khoa học cơ
bản, khoa học giáo dục và rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ sư phạm.
NLTDLG là điều kiện thiết yếu của người giáo viên để thực hiện nhiệm
vụ rèn luyện, phát triển NLTDLG cho học sinh. Tuy nhiên, SVSP cũng
như giáo viên phổ thông hiện nay đang còn có sự hạn chế, yếu kém về
NLTDLG. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, cần nâng cao
chất lượng đào tạo giáo viên, chú trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện
NLTDLG cho SVSP.
3. Sự hình thành và phát triển NLTDLG của SVSP phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau, trong đó, giảng dạy lôgíc học có tác động trực
tiếp, mạnh mẽ và hiệu quả nhất; là con đường, phương thức cơ bản để đào
tạo ra những người giáo viên có NLTDLG.
4. Trong quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo, giảng dạy lôgíc học
đã có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào việc bồi


23
dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên. Bên cạnh những mặt tích cực,
giảng dạy lôgíc học hiện nay vẫn còn có những hạn chế nhất định khiến

cho môn học chưa phát huy được vai trò của mình trong việc thực hiện
mục đích, yêu cầu đề ra. Những hạn chế đó do nhiều nguyên nhân khác
nhau, cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan, cả nguyên
nhân từ phía giảng viên lẫn nguyên nhân từ phía sinh viên, cả nguyên
nhân về nội dung chương trình lẫn nguyên nhân về phương pháp giảng
dạy, v.v.
5. Để phát huy vai trò giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng, rèn
luyện NLTDLG cho SVSP, cần thực hiện các giải pháp chủ yếu như sau:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức của giảng viên, sinh viên, cán bộ lãnh
đạo, quản lý đào tạo..., làm cho mọi người xác định đúng vị trí, vai trò của
lôgíc học, cũng như tính tất yếu phát huy vai trò giảng dạy lôgíc học trong
việc bồi dưỡng, rèn luyện NLTDLG cho sinh viên.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới nội dung chương trình và phương pháp
giảng dạy lôgíc học. Đổi mới nội dung chương trình theo các hướng: chú
trọng chức năng phương pháp luận, sự vận dụng phương pháp luận lôgíc
duy vật vào nhận thức và thực tiễn; gắn lôgíc học với các khoa học cụ thể
và đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; gắn lôgíc học với đặc
thù của chuyên ngành sư phạm; gắn giảng dạy Lôgíc học với việc trình
bày lịch sử hình thành và phát triển của bản thân nó, cũng như lịch sử tư
tưởng lôgíc học nói chung; nội dung tinh gọn, dễ tiếp thu, bổ ích, thiết
thực đối với người học. Đổi mới phương pháp giảng dạy lôgíc học theo
hướng rèn luyện cho sinh viên khả năng vận dụng phương pháp luận lôgíc
duy vật vào học tập, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ sư phạm; rèn luyện
khả năng vận dụng tri thức, biến lý luận thành phương pháp, thành
nguyên tắc chỉ đạo hành động, giúp người học tư duy một cách mềm dẻo,
linh hoạt, sáng tạo. Cần chú trọng phương pháp vận dụng tri thức liên
môn, tuân thủ nguyên tắc tính thực tiễn và vận dụng phương pháp lôgíc
học trong giảng dạy lôgíc học. Đổi mới phương pháp giảng dạy phải gắn
với đổi mới phương pháp học tập và phải đổi mới một cách mạnh mẽ,
toàn diện, đồng bộ ở tất cả các khâu: lý thuyết, thảo luận, tự nghiên cứu,

ôn thi, v.v..


24
Thứ ba, đẩy mạnh công tác đào tạo và tuyển dụng giảng viên, thường
xuyên chú trọng việc bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, đồng thời, cần quan
tâm tới chế độ, chính sách đối với giảng viên. Để có được đội ngũ giảng
viên đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu phát triển của
giáo dục và đào tạo, các trường phải coi trọng và có chiến lược cụ thể
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ, đồng thời, mỗi
giảng viên cần phải nỗ lực phấn đấu, thường xuyên rèn luyện đạo đức,
phẩm chất, tác phong nhà giáo, ra sức học tập nâng cao năng lực, trình độ
chuyên môn, cũng như NLTDLG.
Thứ tư, cần kết hợp giữa giảng dạy lôgíc học với giảng dạy các môn
học khác và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Bồi dưỡng, rèn luyện
NLTDLG và đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là hai mảng cơ
bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, hướng vào mục tiêu hình
thành, phát triển ở người học năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Những giải pháp trên đây chưa phải là tất cả, song đó là những giải
pháp chủ yếu và cần được thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện. Có như
vậy mới phát huy được vai trò giảng dạy lôgíc học trong việc bồi dưỡng,
rèn luyện NLTDLG cho SVSP.


25


×