Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

QUẢN lí HOẠT ĐỘNG dạy học âm NHẠC ở TRƯỜNG CĐSP HƯNG yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.42 KB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐẶNG VĂN THUẤN

QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG CĐSP HƯNG YÊN
Chuyên ngành: QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số: 60140114

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN THỊ NGỌC THANH

HÀ NỘI, NĂM 2014


CHÚ THÍCH NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CĐSP

:

Cao đẳng sư phạm

CSVC – TBDH

: Cơ sở vật chất – Thiết bị dạy học

ĐVHT

:



GDÂN

: Giáo dục âm nhạc

GD&ĐT

:

Giáo dục đào tạo

GV

:

Giảng viên

HS-SV

:

Học sinh – sinh viên

NXB

:

Nhà xuất bản

NCKH


:

Nghiên cứu khoa học

PPDH

:

Phương pháp dạy học

PPGD

:

Phương pháp giảng dạy

QLGD

:

Quản lí giáo dục

TNCSHCM

:

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

TB


:

Trung bình

THCS

:

Trung học sơ sở

TS

:

Tiến sĩ

UBND

: Ủy ban nhân dân

Đơn vị học trình


MỤC LỤC
HÀ NỘI, NĂM 2014........................................................................................1
Phát huy được tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của người học, tăng khả năng
làm việc theo nhóm, tự học, tự nghiên cứu, tạo được hứng thú trong việc học của sinh
viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo....................................................................82
Tạo động lực cho đội ngũ giáo viên tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn,

nghiệp vụ sư phạm, có khả năng đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học..........82


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, giáo dục luôn đóng một vai trò
hết sức quan trọng và là nhân tố quyết định đến sự phát triển của đất nước đó.
Nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục trong sự nghiệp phát triển đất
nước, Đảng ta đã xác định phát triển Giáo dục và Đào tạo là "Quốc sách hàng
đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển".
Trong giai đoạn hiện nay các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
phát triển với những bước tiến nhảy vọt, đưa thế giới từ kỉ nguyên công
nghiệp sang kỉ nguyên công nghệ thông tin và kinh tế trí thức. Khoa học công
nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế- xã hội, mà nền tảng
của sự phát triển đó chính là nhờ giáo dục - đào tạo.
Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 4 năm 2001) đã
chỉ rõ: ‘‘Phát triển giáo dục – đào tạo là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững".
Đại hội lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 4 năm 2006)
khẳng định " Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu,
chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế
quản lí để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước
nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách
đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Xây dựng
nền giáo dục của dân, do dân và vì dân; bảo đảm công bằng về cơ hội học tập
cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời".
Đại hội lần thứ XI của Đảng (tháng 4 năm 2011) tiếp tục nhấn mạnh:
“Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục,


1


đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương
pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách
mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, tác phong
công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số
lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã
hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát
triển và nâng cấp cơ sở vật chất - kĩ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Đầu tư hợp lí, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình
độ quốc tế ”.
Nghị quyết Hội nghị TƯ 8 khóa XI ngày 4/11/2013 đã nêu bật quan
điểm: " Đổi mới căn bản công tác quản lí giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ,
thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục,
đào tạo; coi trọng quản lí chất lượng".
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, các trường đại học, cao đẳng đóng
vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội, chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực lại phụ thuộc nhiều vào chất lượng đội ngũ giảng
viên. Nếu không có đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu với trình độ chuyên môn cao, năng lực sư phạm giỏi thì
không thể nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng đào tạo.
Đổi mới phương pháp dạy và học trong các nhà trường theo hướng hiện
đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng
của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
Quản lí nhà trường thì trọng tâm vẫn là quản lí hoạt động dạy và học, giữ vị
trí quan trọng chi phối các hoạt động khác. Đối với giảng viên, chất lượng dạy
học là thước đo năng lực của người thày nói chung và năng lực nhà quản lí

nói riêng.

2


Trong nhà trường phổ thông, giáo dục Âm nhạc là con đường cơ bản để
giáo dục thẩm mĩ cho học sinh, góp phần đào tạo con người mới phát triển
toàn diện, có đạo đức trong sáng, tâm hồn phong phú, lành mạnh. Giáo dục
Âm nhạc trong nhà trường đã, đang và ngày càng được coi trọng đúng mức.
Âm nhạc với vẻ đẹp của nó sẽ giúp chúng ta vươn tới những giá trị cao đẹp
của cuộc sống. Đặc biệt với học sinh Mầm non, Tiểu học và Trung học cơ sở,
Âm nhạc càng có vai trò to lớn trong việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, thẩm
mĩ, góp phần hình thành và phát triển nhân cách các em.
Xác định tầm quan trọng của Âm nhạc trong việc phát triển thẩm mĩ và
hoàn thiện nhân cách con người, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa môn Âm
nhạc vào giảng dạy trong các nhà trường phổ thông. Môn Âm nhạc đã trở
thành môn học độc lập trong các nhà trường Mầm non, Tiểu học và Trung
học cơ sở.
Trường CĐSP Hưng Yên là nơi đào tạo giáo viên Mầm non, Tiểu học
và Trung học cơ sở cho tỉnh Hưng Yên. Trong những năm qua nhà trường đã
đào tạo nhiều lớp giáo viên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục và đào
tạo của Tỉnh. Trong các môn học được đưa vào giảng dạy tại nhà trường, Âm
nhạc là môn học của các chuyên ngành đào tạo giáo viên Mầm non, Tiểu học
và Trung học cơ sở. Thực tế trong những năm qua công tác quản lí đào tạo
môn học này đã có kết quả đáng kể, song do là môn học nghệ thuật với nhiều
nét đặc thù, chính vì thế công tác quản lí hoạt động dạy học Âm nhạc còn bộc
lộ những hạn chế: Nhận thức của cán bộ quản lí còn có phần xem nhẹ về môn
học này; Quản lí việc thực hiện chương trình còn lúng túng; Đổi mới phương
pháp còn chậm và chưa thật hiệu quả; Công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ
của giảng viên còn hạn chế chưa theo kịp yêu cầu; Quản lí cơ sở vật chất phục

vụ dạy học môn học này còn nhiều bất cập nên hiệu quả sử dụng chưa cao;
Quản lí hoạt động thực hành, biểu diễn âm nhạc chưa được quan tâm coi

3


trọng nên khi sinh viên ra trường, năng lực tổ chức các hoạt động thực hành,
ngoại khóa Âm nhạc ở trường phổ thông còn gặp nhiều khó khăn.
Xuất phát từ thực tế công tác quản lí hoạt động dạy học môn Âm nhạc
ở Trường CĐSP Hưng Yên còn có những khó khăn, chưa đáp ứng được yêu
cầu quản lí đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay, là người trực tiếp giảng
dạy và quản lí hoạt động chuyên môn của đơn vị khoa, tác giả chọn đề tài
"Quản lí hoạt động dạy học Âm nhạc ở Trường Cao đẳng Sư phạm Hưng
Yên" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất một số biện pháp quản lí hoạt động dạy học Âm nhạc ở Trường
Cao đẳng sư phạm Hưng Yên nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt động
dạy học Âm nhạc ở nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Quản lí hoạt động dạy học Âm nhạc ở Trường
CĐSP Hưng Yên.
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lí hoạt động dạy học Âm
nhạc ở Trường CĐSP Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xây dựng cở sở lí luận về quản lí hoạt động dạy học Âm nhạc ở
Trường CĐSP.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lí hoạt động dạy học
Âm nhạc ở Trường CĐSP Hưng Yên.
- Đề xuất biện pháp quản lí hoạt động dạy học Âm nhạc ở Trường
CĐSP Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay.

5. Phạm vi nghiên cứu:
Quản lí hoạt động dạy học bao gồm quản lí hoạt động dạy của giảng viên
và hoạt động học của sinh viên, đề tài giới hạn chỉ tập trung nghiên cứu về

4


công tác quản lí hoạt động dạy học Âm nhạc của giảng viên ở Trường CĐSP
Hưng Yên.
6. Giả thuyết khoa học:
Công tác quản lí hoạt động dạy học Âm nhạc ở Trường CĐSP Hưng
Yên trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên trong
quản lí còn có những bất cập do các biện pháp thực hiện chưa thật phù hợp
nên chất lượng còn có hạn chế.
Nếu nghiên cứu đúng đắn lí luận và thực tiễn hoạt động dạy học Âm
nhạc thì sẽ đề xuất được các biện pháp quản lí dạy học Âm nhạc thực sự cần
thiết và có tính khả thi.
7. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu, phân tích, các tài liệu có liên
quan đến nội dung của đề tài:
+ Văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam về Giáo dục và Đào tạo;
+ Văn bản chỉ đạo về hoạt động dạy và học của Bộ Giáo dục và Đào
tạo;
+ Tài liệu, công trình khoa học trong và ngoài nước thuộc Tâm lí học,
Giáo dục học, Khoa học quản lí và Quản lí giáo dục, về giáo dục âm nhạc
trong nhà trường;
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra: Xây dựng các phiếu điều tra cán bộ quản lý, giảng
viên để thu thập thông tin phục vụ vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp đánh giá tổng kết kinh nghiệm của các trường CĐSP trong

quản lý hoạt động dạy học.
- Phương pháp phỏng vấn nhằm thu thập thêm thông tin về những kết quả
quản lý hoạt động dạy học mà nhà trường đã và đang tiến hành.

5


- Phương pháp quan sát sư phạm: Thu thập thông tin qua việc quan sát hoạt
động quản lí dạy học của khoa, tổ bộ môn, hoạt động dạy của giảng viên âm
nhạc.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Phỏng vấn, tham khảo ý kiên chuyên
viên, cán bộ quản lí phòng Đào tạo, Thanh tra, Khảo thí và kiểm định chất
lượng của nhà trường.
- Phương pháp thống kê toán học: Xử lí các tài liệu, số liệu đã thu thập được
để bảo đảm độ tin cậy, chính xác.

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG CĐSP
1.1 Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Âm nhạc là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
Âm nhạc có thể chia sẻ với chúng ta rất nhiều điều: Giải quyết những khó
khăn trong cuộc sống, vơi đi những hờn giận vu vơ, đưa con người về dĩ
vãng, tìm lại tuổi thơ yêu dấu, nghe lòng bồi hồi, xao xuyến với tình yêu quê
hương, sống dậy lòng tự hào dân tộc, khát vọng tìm về chân lý… Ngay từ thời
thượng cổ, âm nhạc đã được ra đời cùng với đời sống sinh hoạt và lao động

sản xuất của các cộng đồng người nguyên thuỷ. Kể từ đấy, âm nhạc đã không
ngừng được phát triển và hoàn thiện cùng năm tháng.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Hạnh thì giáo dục Âm nhạc là một phần không
thể thiếu trong hệ thống các môn học ở các nước. Tuy số lượng môn học và
cách thức tổ chức thực hiện ở từng nước là khác nhau.
Ở Pháp, Âm nhạc là môn học bắt buộc ở Tiểu học và Trung học cơ sở, là
môn học tự chọn ở Trung học phổ thông. Nhà trường thường tổ chức dạy học
Âm nhạc sau 16h, đó là thời điểm để HS học các môn năng khiếu như Thể
thao, Âm nhạc, Khiêu vũ, Sân khấu, Mĩ thuật…
Ở Đan Mạch, giáo dục Âm nhạc ở Tiểu học và THCS lựa chọn 4 mục tiêu
là giúp HS biết ca hát, chơi nhạc cụ, hiểu biết về lí thuyết âm nhạc và vận
động âm nhạc.
Ở Phần Lan, giáo dục Âm nhạc ở Tiểu học được chia thành các loại trình
độ khác nhau, ví dụ trình độ từ 1 đến 4 có các mục tiêu: HS sử dụng giọng hát
tự nhiên và năng lực của mình để ca hát, chơi nhạc cụ và vận động theo nhạc

7


trong nhóm hoặc một mình; nghe để nhận xét về âm nhạc; sáng tạo âm nhạc
dựa trên những gợi ý; hiểu biết về sự đa dạng của thế giới âm nhạc…
Ở Anh, chương trình Âm nhạc quốc gia được chia theo 4 giai đoạn: HS từ
5 đến 7 tuổi (chủ yếu phát triển kĩ năng nghe nhạc); từ 7 đến 11 tuổi (kĩ năng
hát và chơi nhạc cụ); từ 11 đến 14 tuổi (nhạc lí và đọc nhạc); từ 14 đến 16
tuổi (trình diễn và sáng tạo). Mỗi giai đoạn có mục tiêu riêng, kèm theo đó là
nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp.
Tại Nhật Bản, âm nhạc là một phần không thể tách rời của bất cứ chương
trình giáo dục nào. Mục tiêu là để nuôi dưỡng và củng cố niềm ham thích và
sự tham gia của HS vào những hoạt động âm nhạc.Việc này giúp cho các em
đạt được kết quả học tập tốt hơn và có những lối cư xử, thái độ và phẩm chất

tốt hơn trong cuộc sống nói chung.
Ở Việt nam môn âm nhạc đã được đưa vào giảng dạy ở các bậc học: Mầm
non, Tiểu học và Trung học cơ sở và trở thành một môn học bắt buộc trong
chương trình giảng dạy ở các nhà trường. Theo Nhạc sĩ Phan Trần Bảng tác
giả của nhiều ca khúc cho thiếu nhi, người gắn bó với sự nghiệp giáo dục âm
nhạc trong nhà trường phổ thông và đã từng biên soạn chương trình, biên soạn
sách giáo khoa, cải tiến phương pháp giảng dạy đã chỉ ra rằng: Đổi mới
phương pháp giảng dạy Chương trình giáo dục nghệ thuật trong nhà trường
phổ thông đòi hỏi nhà trường phải cung cấp các tri thức cơ bản của các loại
hình nghệ thuật này để học sinh có đủ kiến thức và năng lực thẩm mỹ đúng
đắn tiếp thụ tác dụng giáo dục của các loại hình nghệ thuật đó.
Dạy âm nhạc là dạy LÀM NGƯỜI. Muốn vậy người giáo viên phải hiểu
cặn kẽ từng đối tượng dạy học. Căn cứ vào đối tượng mà có những giáo án
khác nhau. Có thể mỗi lớp, mỗi học sinh là một giáo án. Người thầy giáo phải
có bản lĩnh sư phạm và tay nghề cao để thích ứng được với từng đối tượng
giáo dục.

8


Không chỉ chú trọng vào việc thay đổi chương trình và sách giáo khoa mà
phải chú ý đến cải cách phương pháp dạy học bộ môn. Đây là một yêu cầu
cấp thiết. Cần đưa yêu cầu này thành một mục tiêu quan trọng trong cuộc cải
cách cơ bản và toàn diện của ngành Giáo dục.
Giáo sư Trần Văn Khê người tác giả của rất nhiều công trình nghiên cứu
về âm nhạc dân tộc truyền thống Việt Nam thì cho rằng: Việt Nam cần có
định hướng để bảo tồn và tôn vinh âm nhạc dân tộc bằng cách thuyết phục,
nói chuyện, giảng dạy về âm nhạc dân tộc tại các trường học hay qua các
phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên liên hệ với
các Nhà xuất bản nổi tiếng trên thế giới để đưa các khái niệm về âm nhạc

truyền thống Việt Nam vào trong bách khoa từ điển hay liên hệ với nhiều
hãng in băng, đĩa để giới thiệu các bộ môn âm nhạc dân tộc.
Tác giả Hoàng Văn Tiến với nghiên cứu “Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả giáo dục âm nhạc cho trẻ bậc học mầm non ở các vùng ngoại thành, nông
thôn” đã đề cập đến những thực trạng, nguyên nhân và những những bất cập
trong giảng dạy và giáo dục âm nhạc trong các nhà trường bậc học Mầm non
và đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy âm nhạc cho trẻ ở
nhà trường.
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên âm nhạc các trường
THCS ở miền Bắc Việt Nam nhằm xây dựng đội ngũ giáo viên âm nhạc có
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm vững chắc đáp ứng nhiệm vụ giáo
dục âm nhạc trong các nhà trường được tác giả Phạm Lê Hòa, Bộ GD và Đào
tạo đặc biệt chú trọng.
Tác giả Trần Thị Thu Quý lại đánh giá cao sự cần thiết của việc ứng dụng
CNTT trong giảng dạy môn Âm nhạc hiện nay trong các nhà trường, theo tác
giả CNTT là phương tiện quan trọng trong dạy học và trong dạy học âm nhạc
thì CNTT cần phải được ứng dụng vào các giờ dạy học âm nhạc.

9


Tác giả Nguyễn Thị Hải Phượng, Trịnh Hoài Thu đã nhấn mạnh vai trò
của việc xây dựng các tài liệu về phương pháp dạy học âm nhạc trong các nhà
trường. Tài liệu phương pháp dạy học âm nhạc sẽ là những tài liệu quan trọng
giúp giảng viên và sinh viên học tốt môn học này.
Tác giả Lê Anh Tuấn, Trần Đức và Vũ trọng Vĩnh cho rằng: Để nâng cao
chất lượng đào tạo giáo viên âm nhạc trước hết cần phải nâng cao năng lực
cho đội ngũ giảng viên đào tạo giáo viên âm nhạc trong các nhà trường sư
phạm.
Tác giả Trần Thị Tài lại nhấn mạnh sự cần thiết sự cần thiết đổi mới nội

dung, phương pháp trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên âm nhạc trong các
trường sư phạm.
Những năm gần đây nhiều cán bộ quản lý ở các nhà trường CĐSP đã
tham gia nghiên cứu về các biện pháp quản lý hoạt động dạy học nói chung
trong đó có dạy học âm nhạc nói riêng như những luận văn thạc sĩ chuyên
ngành quản lí giáo dục của các tác giả Nguyễn Thị Hoài Thu với đề tài “ Biện
pháp quản lý hoạt động học tập của sinh viên khoa Nhạc - Họa - Thể dục
trường Cao đẳng Sơn La” (2009). Nguyễn Thị Thanh Xuân với đề tài “ Quản
lí hoạt động dạy học âm nhạc ở khoa sư phạm nghệ thuật trường cao đẳng
Sơn La” (2009).
Luận văn của các tác giả trên đã nêu nên những biện pháp quản lý trong
hoạt động dạy học ở các nhà trường Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp. Đó
là những công trình có giá trị về lý luận và thực tiễn và phù hợp với chức
trách của mình, đồng thời cũng giúp cho các cán bộ quản lý ở các phòng,
khoa, tổ chuyên môn nói chung và các cán bộ quản lý của các trường khác
tham khảo và vận dụng vào công tác quản lý của mình. Tuy nhiên nghiên cứu
về biện pháp quản lý hoạt động dạy học Âm nhạc trong trường CĐSP Hưng
Yên thì chưa có tác giả nào đề cập tới. Mặt khác trong quản lí hoạt động dạy

10


học Âm nhạc, ngoài những nét chung còn có những hoạt động dạy học đặc
thù, bởi âm nhạc là một loại hình nghệ thuật mà ở đó chứa đựng những nét
riêng của nghệ thuật Âm nhạc, vì thế khi tiến hành hoạt động dạy học môn
học này nó còn có những nét đặc thù và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện
thực tiễn của từng nhà trường( đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất...). Chính vì
vậy các đề tài đã nghiên cứu về lĩnh vực này rất khó để áp dụng vào thực tiễn
quản lí hoạt động dạy học âm nhạc ở trường CĐSP Hưng Yên. Do vậy tác giả
chọn vấn đề “Quản lí hoạt động dạy học Âm nhạc ở trường CĐSP Hưng Yên”

làm vấn đề nghiên cứu của mình, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy
học môn học, đáp ứng yêu đào tạo giáo viên Mầm non, Tiểu học và THCS
cho tỉnh Hưng Yên.
1.2. Một số khái niệm cơ bản.
1.2.1. Khái niệm quản lí:
1.2.1.1. Khái niệm:
Quản lí là một hoạt động được hình thành từ khi xã hội loài người xuất
hiện, con người có sự hợp tác với nhau hoặc cùng nhau hoạt động với những
mục đích chung nào đó. Ở đâu con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần
đến quản lí.
Ngày nay, quản lí là một hoạt động đặc trưng bao trùm lên mọi mặt đời
sống xã hội. Đó là một công việc vô cùng quan trọng, nhưng rất khó khăn và
phức tạp, liên quan đến nhân cách của nhiều cá nhân trong tập thể xã hội, liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm và cuộc sống nói chung của mỗi
người, phải đáp ứng được yêu cầu luôn thay đổi và phát triển của xã hội.
Theo Hà Thế Ngữ: “Quản lí là một quá trình định hướng, quá trình có mục
tiêu, quản lí là một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được
mục tiêu nhất định”.

11


Theo Mary Parker Follett(1868-1933): Quản lí là một quá trình động, liên
tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại.
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lí là những tác động của chủ thể quản lí
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức ( chủ yếu là nội
lực) một cách tối ưu nhằm đạt được mục đích của tổ chức với hiệu quả cao
nhất.[20,15]
Theo Phan Văn Kha “ Quản lí là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh

đạo, kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc
sử dụng các hệ thống nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã định”.
Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mĩ Lộc: “Hoạt động quản lí là
tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lí (người quản lí) đến
khách thể (người bị quản lí) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức”.
Từ những quan điểm trên, có thể khái quát khái niệm quản lí như sau:
Quản lí là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí lên đối
tượng quản lí nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ
chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong mọi điều kiện biến động của môi
trường.
1.2.1.2. Chức năng của quản lí:
Quản lí có 4 chức năng cơ bản sau:
1. Chức năng kế hoạch hoá :
Đây là chức năng hoạch định, là chức năng quan trọng nhất của người
quản lí, bao gồm việc xây dựng mục tiêu, chương trình hành động, phương
pháp, biện pháp rõ ràng, xác định bước đi cụ thể.
Kế hoạc là nền tảng của quản lí, nội dung chủ yếu của chức năng kế
hoạch hoá là ổn định và xác lập các mục tiêu; xác định rõ và đảm bảo các

12


nguồn lực để đạt được mục tiêu đã đề ra, quyết định xem những hoạt động
nào, những biện pháp như thế nào để đạt được các mục tiêu đó.
2. Chức năng tổ chức :
Chức năng tổ chức được tiến hành sau khi đã thực hiện xong chức năng
kế hoạch hoá nhằm thực hiện kế hoạch đã đề ra. Tổ chức là sự hình thành cấu
trúc các quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức. Nếu tổ chức tốt thì người
quản lí có thể phối hợp, điều hành tốt các nguồn lực, tạo ra sự vận hành đồng

bộ trong bộ máy của tổ chức, tạo ra sức mạnh hợp đồng của các bộ phận để
phát triển tổ chức và đạt được mục tiêu đã đề ra. Thành tựu của một tổ chức
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lí sử dụng các nguồn lực này
sao cho có kết quả và hiệu quả.
Nội dung chủ yếu của chức năng tổ chức gồm: Xây dựng cơ cấu tổ
chức; Xác định nhiệm vụ quyền hạn của từng thành viên, từng bộ phận của tổ
chức; Quản lý nhân sự (bao gồm đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp, phân
công, phân nhiệm, đề bạt, sa thải...); Tổ chức các hoạt động.
3. Chức năng chỉ đạo :
Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã hình thành, nhân sự đã
được tuyển dụng sắp xếp thì phải có người lãnh đạo (nhà quản lí) dẫn dắt và
điều khiển. Đó là quá trình tập hợp, liên kết các thành viên trong tổ chức,
giám sát các hoạt động của các thành viên, các bộ phận trong tổ chức, điều
khiển, hướng dẫn, điều chỉnh công việc hợp lí, nhịp nhàng không chồng chéo;
xử lí uốn nắn các hành vi vi phạm, động viên khuyến khích người lao động
nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
4. Chức năng kiểm tra :
Kiểm tra là những hoạt động của chủ thể quản lí tác động đến khách thể
quản lí nhằm đánh giá kết quả vận hành của tổ chức. Thông qua kiểm tra, ng-

13


ười quản lí nắm được những vấn đề tồn tại, hạn chế, những thiếu sót, khuyết
điểm, những trì trệ để có biện pháp điều chỉnh, uốn nắn, khắc phục, đồng thời
nắm được những ưu điểm để phát huy động viên, khuyến khích, hoàn thiện kế
hoạch tổ chức chỉ đạo.
Nội dung kiểm tra là kiểm soát tình hình, phát hiện, động viên phê
bình, đánh giá, thu thập thông tin. Theo thuyết hệ thống thì kiểm tra là quá
trình thiết lập mối quan hệ ngược trong quản lí.

Bốn chức năng của quản lí: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra
có quan hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau, phối hợp và bổ sung cho nhau tạo
thành một chu trình quản lí, trong chu trình đó, yếu tố thông tin luôn có mặt
trong các khâu với vai trò vừa là điều kiện, vừa là phương tiện không thể
thiếu được khi thực hiện các chức năng quản lí và ra quyết định.
1.2.2. Quản lí giáo dục:
1.2.2.1. Khái niệm:
Quản lí giáo dục là một bộ phận của quản lí xã hội. Khái niệm quản lí
giáo dục được hiểu khá rộng trong nhiều phạm vi từ vĩ mô đến vi mô. Quản lí
giáo dục có nhiều cách định nghĩa:
Quản lí giáo dục là quá trình nắm vững thông tin về đối tượng và môi
trường, từ đó lựa chọn, sắp xếp, tổ chức thực hiện các tác động quản lí một
cách tối ưu lên các đối tượng quản lí, nhằm làm cho đối tượng quản lí vận
động hướng tới mục đích đã định.
Quản lí giáo dục là tập hợp những biện pháp kế hoạch hoá nhằm đảm
bảo sự vận hành bình thường của cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục
phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng và chất lượng.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lí giáo dục là quản lí trường học,
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình
tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu

14


giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng
học sinh”[12]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lí giáo dục là hệ thống những
tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lí nhằm làm
cho hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên lí giáo dục của Đảng và thực
hiện các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà tiêu điểm

là quá trình dạy học đưa giáo dục tới mục tiêu, tiến lên trạng thái mới về
chất”.[25,35].
Theo Đặng Quốc Bảo thì : “Quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”.[2]
Từ những quan điểm trên, có thể khái quát khái niệm quản lí giáo dục
như sau: Quản lí giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, có ý thức của chủ thể quản lí lên đối tượng bị quản lí, nhằm thực hiện
các chức năng quản lí trong công tác giáo dục.
1.2.2.2. Nội dung của quản lí giáo dục:
Nội dung quản lí giáo dục là quản lí các yếu tố cấu thành của hệ thống
giáo dục bao gồm:
- Quản lí mục tiêu giáo dục
- Quản lí nội dung giáo dục.
- Quản lí phương pháp giáo dục.
- Quản lí tổ chức giáo dục.
- Quản lí người dạy
- Quản lí người học
- Quản lí trường sở và trang thiết bị dạy học.
- Quản lí môi trường giáo dục, các lực lượng giáo dục.
- Quản lí kết quả giáo dục.

15


1.2.3. Quản lí nhà trường:
1.2.31. Quản lí nhà trường:
Theo tác giả Trần Kiểm: “ Quản lí nhà trường về bản chất là quản lí
con người. Điều đó tạo cho các chủ thể (người dạy và người học) trong nhà
trường một sự liên kết chặt chẽ không những chỉ bởi cơ chế hoạt động của

những tính quy luật khách quan của một tổ chức xã hội - nhà trường, mà còn
bởi hoạt động chủ quan, hoạt động quản lí của chính bản thân giáo viên và
học sinh”.[22, 258]
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “ Quản lí nhà trường là hoạt động của
các cơ quan quản lí nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học
sinh và các lực lượng giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục
để nâng cao giáo dục và đào tạo trong nhà trường”.[31, 205]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lí nhà trường là thực hiện đường
lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo
đối với ngành giáo dục với thế hệ trẻ và với từng học sinh”.[13, 61].
Bản chất của hoạt động quản lí nhà trường là quản lí hoạt động dạy học
là làm cho nó vận hành từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến tới
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo.
Quản lý nhà trường là phải quản lí toàn diện nhằm hoàn thiện và phát
triển nhân cách học sinh một cách hợp lí, khoa học, hiệu quả.
Quản lí nhà trường là một hoạt động được thực hiện trên cơ sở những
quy luật chung của quản lí, đồng thời có những nét đặc thù riêng của nó.
Quản lí nhà trường khác với các quản lí xã hội khác, được quy định bởi bản
chất hoạt động sư phạm của giáo viên, bản chất của quá trình dạy học, giáo
dục trong đó mọi thành viên trong nhà trường vừa là đối tượng quản lí vừa là

16


chủ thể hoạt động của bản thân mình. Sản phẩm tạo ra của nhà trường là nhân
cách người học được hình thành trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn
luyện theo yêu cầu xã hội và được xã hội thừa nhận.
1.2.3.2. Quản lí trường Cao đẳng Sư phạm.
Tại Điều 4 Điều lệ trường Cao đẳng quy định quản lí nhà nước đối với

các trường Cao đẳng:
Trường Cao đẳng chịu sự quản lí nhà nước về giáo dục của Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Trường Cao đẳng chịu sự quản lí hành chính theo lãnh thổ
của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi trường đặt trụ
sở (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh).
Mục tiêu đào tạo của trường CĐSP là: Đào tạo người học có phẩm chất
chinh trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân; có khả năng tự học, kĩ năng
giao tiếp và làm việc theo nhóm; có sức khoẻ đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo người học có kiến thức chuyên môn vững vàng, kĩ
năng thực hành cơ bản, có thái độ và đạo đức nghề nghiệp đúng đắn, chú
trọng rèn luyện kĩ năng và năng lực thực hiện công tác chuyên môn, có khả
năng tìm kiếm và tham gia sáng tạo việc làm.
Quản lí trường CĐSP cũng như các trường học khác là quản lí hoạt
động dạy học, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu,
chương trình giáo dục trên cơ sở quản lí nhà giáo, cán bộ nhân viên và
quản lí người học.
1.2.4. Quản lí hoạt động dạy học ở trường CĐSP.
1.2.3.1. Mục tiêu, đối tượng quản lý hoạt động dạy học ở trường CĐSP.
* Mục tiêu quản lý hoạt động dạy học ở trường CĐSP.
Mục tiêu giáo dục theo Luật giáo dục 2005 tại điều 2 quy định “Mục tiêu
giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo dức, tri

17


thức, sức khỏe và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Điều 3 Luật giáo dục nêu tính chất, nguyên lý giáo dục: “ Nền giáo dục
Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa

học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng. Hoạt động giáo dục được thực hiện trên nguyên lý học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
Để thực hiện được mục tiêu giáo dục đã nêu trên cần có sự phối hợp đồng
bộ trong tất cả các khâu của quá trình giáo dục, đặc biệt là quá trình quản lý
hoạt động dạy học trong các nhà trường.
* Đối tượng quản lý hoạt động dạy học ở trường CĐSP.
Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm chi phối tất cả các hoạt động
giáo dục khác trong nhà trường. Đó là con đường trực tiếp và thuận lợi nhất
để giúp cho học sinh lĩnh hội được tri thức của xã hội loài người.
Đối tượng quản lý hoạt động dạy học ở trường CĐSP là quản lý hoạt động
của giảng viên, sinh viên và các tổ chức sư phạm của nhà trường như: hội
đồng chuyên môn, khoa, tổ trong việc thực hiện kế hoạch, chương trình dạy
học nhằm đạt mục tiêu dạy học đã được quy định.
1.2.3.2. Nội dung quản lý hoạt động dạy học ở trường CĐSP.
Nội dung quản lý hoạt động dạy học trong trường CĐSP bao gồm quản lý
chương trình, kế hoạc dạy học, việc thực hiện thời khóa biểu, soạn giảng và
lên lớp của giảng viên, việc đổi mới phương pháp, sử dụng cơ sở vật chất
trang thiết bị dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên...
Quản lí hoạt động dạy học là phải tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cơ bản
sau:

18


- Cụ thể hóa mục tiêu dạy học qua các nhiệm vụ dạy học nhằm nâng
cao tri thức, kĩ năng, bồi dưỡng thái độ, nhận thức, phát triển năng lực, phẩm
chất của người học.
- Quản lí việc xây dựng và thực hiện nội dung, kế hoạch và nội dung

dạy học. Nội dung dạy học phải đảm bảo bao gồm hệ thống những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo mà người học cần phải nắm vững trong quá trình dạy học.
- Quản lí hoạt động giảng dạy của giảng viên (Viết bài giảng, biên soạn
giáo trình, giáo án, lên lớp, kiểm tra đánh giá sinh viên học tập).
- Quản lí hoạt động học tập của học sinh.
- Quản lí cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ hoạt động dạy học.
1.2.5. Một số khái niệm liên quan GDÂN.
1.2.5.1.Khái niệm giáo dục thẩm mỹ:
“ Trong mĩ học mácxít khái niệm giáo dục thẩm mĩ được hiểu theo hai
nghĩa:
Nghĩa hẹp là giáo dục có tính trường quy về cái đẹp, giáo dục cho con
người biết cảm thụ cái đẹp, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.
Nghĩa rộng là sự giáo dục và tự giáo dục, phát huy mọi năng lực bản
chất con người theo quy luật cái đẹp”[14,94]
Giáo dục thẩm mĩ chính là giáo dục con người cảm nhận được cái đẹp
trong cuộc sống từ đó biết thưởng thức, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.
1.2.5.2. Nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ.
- Tạo khả năng thẩm mĩ về thế giới khách quan và con người giúp cho
các em với tư cách là chủ thể thẩm mĩ hình thành năng lực cảm thụ cái đẹp
trong tự nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật.
- Biết sáng tạo cái đẹp, khơi gợi và bồi dưỡng khát khao thể hiện tài
năng sáng tạo thẩm mĩ và hình thành nguyện vọng đưa cái đẹp vào cuộc sống.

19


- Nâng cao tri thức và văn hóa thẩm mĩ, đó là bồi dưỡng năng khiếu
thẩm mĩ qua việc học tập một số môn nghệ thuật nhất định, hình thành năng
lực sáng tạo cái đẹp, biết phân biệt cái đẹp với cái xấu xí, phi văn hóa.
1.2.5.3. Chức năng giáo dục thẩm mĩ của nghệ thuật.

- Nghệ thuật là cầu nối giữa con người và thế giới cái đẹp.
Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống, chất liệu để
làm nên những tác phẩm nghệ thuật chính là cuộc sống. Trong cuộc sống, cái
đẹp là một bộ phận của các sự vật hiện tượng trong đời sống tự nhiên và xã
hội. nhu cầu về tinh thần trong cảm xúc thẩm mĩ là một trong những nhu cầu
quan trọng của con người. Trong các môn học ở nhà trường phổ thông thì bộ
môn nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành niềm tin
của con người, ảnh hưởng đến hành vi của con người và đạt tới sự khoái cảm
thẩm mỹ của tinh thần.
Đối với học sinh, trong lĩnh vực thẩm mĩ, học sinh trau dồi cho mình
những khái niệm chung về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài... bắt đầu từ những
hành vi, những hành động, từ trang phục và trong cả nghệ thuật.
Mặt khác, từ giáo dục thẩm mĩ cho học sinh cũng giúp học sinh nhận
thức được giá trị đạo đức trong thẩm mĩ. Trẻ em đến với đạo đức cũng thông
qua cái đẹp. Vì vậy, phải phát triển ở trẻ nhu cầu quan hệ thẩm mĩ với mọi
người, với xã hội, với lao động. Nói chung, nghệ thuật tạo cho con người khả
năng nhận thức, hiểu được cái đẹp trong đời sống tự nhiên và có tác động
mạnh mẽ tích cực đến đời sống xã hội, làm phong phú đời sống tinh thần và là
điều kiện để giữ gìn phẩm giá con người, là phương tiện để đấu tranh tích cực
vì tư tưởng tốt đẹp của nhân loại.
Trong quá trình sống và hoạt động xã hội, con người đã hình thành
quan niệm, niềm tin và muốn thể hiện tư tưởng ấy ở cái đẹp và tìm cách phản
ánh cái đẹp ấy trong nghệ thuật. Ngược lại, những tư tưởng đúng đắn của

20


nghệ thuật dẫn dắt con người đến những niềm tin trong hành vi và trong hoạt
động, sinh ra một năng lượng mới trong cuộc sống. Hình tượng nghệ thuật
được lĩnh hội bằng một sự thông cảm sâu sắc có tác động mạnh mẽ đến thế

giới chủ quan của nhân cách và sinh ra những cảm xúc phức tạp hơn.
Quá trình cảm xúc như thế không đơn thuần là một quá trình hoạt động
trí tuệ mà còn đem lại những cảm xúc thẩm mĩ những niềm vui, nỗi buồn,
khâm phục, thán phục v.v.. Con người không chỉ nhận thức mà còn cảm nhận
sâu sắc tư duy khách quan trong sự khái quát nghệ thuật riêng của cá nhân.
- Nghệ thuật cung cấp cho người học những kiến thức tổng hợp.
Mỗi một loại hình nghệ thuật đều phản ánh cuộc sống theo cách riêng
của mình và theo thời đại của mình. Nghệ thuật âm nhạc sử dụng âm thanh để
diễn tả, nghệ thuật hội họa lại sử dụng màu sắc, đường nét, sáng tối, bố cục để
phản ánh...Thời Trung cổ, thế giới quan của tư tưởng tôn giáo thống trị, do đó
ý tưởng của về cái đẹp của các nhà họa sĩ vẽ những bức tranh thần thánh, kiến
trúc theo kiểu gothic thể hiện tư tưởng cao xa. Âm nhạc, thời trung cổ cũng
chỉ là những thánh ca vang lên đều đều, trì tục tránh sự xáo động.
Ngôn ngữ của các ngành nghệ thuật chính là các phương tiện biểu hiện
nghệ thuật. Đối với nghệ thuật Âm nhạc, các phương tiện biểu hiện chính là
nhịp điệu, tiết tấu, giai điệu, hoà âm. Hình tượng âm nhạc bao giờ cũng được
biểu hiện bằng những phương tiện (hay còn gọi là ngôn ngữ) của nó.
Nghệ thuật cũng giúp con người sáng tạo ra những giá trị tinh thần vô
giá. Các phát minh khoa học không mang dấu ấn của nhà khoa học, chỉ có con
đường khám phá mà nhà khoa học đi qua mới mang cá tính. Còn nghệ thuật,
các tác phẩm của người nghệ sĩ mang dấu ấn tâm lí cá nhân của người nghệ sĩ
đó. Các tác phẩm nghệ thuật chính là sự khái quát cao nhất các giá trị tinh
thần của nhân loại, tư tưởng tình cảm, nền văn hóa xã hội của loài người trong
thời kì đó. Chính vì vậy, tác phẩm của mỗi người đều mang cá tính và là sản
phẩm có một không hai.

21


- Nghệ thuật phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ cho học sinh.

Qua giáo dục nghệ thuật giúp học sinh có năng lực cảm thụ thẩm mĩ,
nhận biết, cảm thụ, hiểu cái đẹp trong nghệ thuật và trong đời sống. Bản chất
của giáo dục thẩm mĩ trong dạy học và phát triển nghệ thuật cho học sinh là
một quá trình phức tạp, nhiều giai đoạn, từ chỗ cho học sinh làm quen với
nghệ thuật đến lúc tự sáng tạo trong nghệ thuật.
Qua quá trình tiếp xúc với cái đẹp trong nghệ thuật học sinh sẽ dần dần
tích luỹ những ấn tượng của cái đẹp trong tác phẩm trên cơ sở cảm thụ, tri
giác thẩm mĩ. Những ấn tượng đó sẽ khác nhau theo mức độ hoàn thiện nghệ
thuật và thẩm mĩ nói chung của học sinh, kinh nghiệm sống của học sinh ở
các độ tuổi khác nhau và còn bị hạn chế bởi nhiều học sinh chưa đủ sức để
học phân tích, phân loại những ấn tượng về thẩm mĩ, chưa đủ sức đánh giá và
phê phán chất lượng nghệ thuật nên quá trình lĩnh hội nghệ thuật ở học sinh
phải qua một quá trình tổ chức sư phạm mới có kết quả.
Muốn thâm nhập, lĩnh hội tác phẩm nghệ thuật, đòi hỏi con người phải
có một trình độ văn hoá, có cảm xúc tinh tế vì thế mà cần phải đưa học sinh
vào thế giới nghệ thuật với cái đẹp chân chính với nhiều lĩnh vực rộng rãi để
dạy cho trẻ ý thức thẩm mĩ trong các hình tượng nghệ thuật.
Việc phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ của học sinh là rất quan trọng
bởi vì:
- Phát triển thính giác nảy sinh nhu cầu tập nghe, bằng con đường cảm
thụ và phát hiện âm thanh đó là ngôn ngữ ban đầu của âm nhạc.
- Phát triển tư duy học sinh nhằm phát hiện ra nhu cầu cảm thụ thẩm mĩ
giúp học sinh hình thành tư duy hình tượng cụ thể, từ đó phát triển trí tưởng
tượng của học sinh, đó cũng là một trong những yếu tố cơ bản của nghệ thuật.
Vai trò giáo dục thẩm mĩ rất quan trọng, nhất là trong tiến trình hội
nhập. Nhưng để công tác giáo dục thẩm mĩ thực hiện tốt chức năng của mình

22



×