Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ nông dân trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện chương mỹ, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.15 KB, 124 trang )

MỤC LỤC
Hình 2.2. Một số yếu tố khí hậu đặc trưng của huyện Chương Mỹ.............................44
2.1.1.4. Điều kiện thuỷ văn.........................................................................................44
2.1.1.6. Cảnh quan........................................................................................................46
2.1.2.2. Tình hình dân số và lao động..........................................................................49
Bảng 2.3. Tình hình dân số và lao động của huyện Chương Mỹ.................................51
giai đoạn 2010 - 2014..................................................................................................51
Chỉ tiêu.........................................................................................................................51
ĐVT..............................................................................................................................51
(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Chương Mỹ).........................................................51


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 30 mươi năm đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nói
chung, kinh tế nông hộ cũng không ngừng phát triển cả về quy mô và hình
thức. Có không ít những nhóm nông dân đã làm giàu lên từ chính mảnh đất
của mình, họ sử dụng có hiệu quả đất đai, lao động, tiền vốn và đã vươn lên
làm giàu. Nhiều hộ nông dân đã chuyển đổi từ nền kinh tế từ quy mô nhỏ
thành quy mô lớn, sản xuất tự túc tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, có thể
trao đổi hàng hóa trên thị trường.
Thực tiễn quá trình sản xuất nông nghiệp của nước ta trải qua hàng
ngàn năm sản xuất theo kinh nghiệm, tuy có những bước tiến quan trọng,
nhưng về căn bản vẫn là nền sản xuất nhỏ lẻ, kĩ thuật lạc hậu mang nặng tính
độc canh, tự cung, tự cấp là chính.
Tuy nhiên bên cạnh mặt đạt được, vẫn còn tồn tại những khó khăn. Đây
là tất yếu khách quan. Đó là nền kinh tế hàng hoá đã tạo ra sự phân hoá giàu
nghèo ngày càng sâu sắc, vấn đề chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân
cư, giữa các vùng giữa thành thị và nông thôn ngày một rõ.
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới thực sự là cơ
hội “vàng” cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Để biến cơ hội


ấy thành hiện thực, cần có cách nhìn, cách tiếp cận đúng đắn, nhất là đối với
Đề án phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho người dân. Muốn tăng thu
nhập thì phải giảm tỷ lệ lao động trong nông nghiệp vì nước ta hiện nay bình
quân một hộ sản xuất nông nghiệp chỉ có 0,61 ha đất sản xuất, vùng đồng
bằng sông Hồng chỉ có 0,35 ha thì đưa công nghệ kiểu gì cũng không thể làm
giàu được với quy mô như hiện nay. Vì vậy phải rút bớt lao động trong nông
nghiệp ra. Năm 2011 chúng ta còn 11 triệu hộ lao động nông thôn, 51,9% lao

1


động nông nghiệp, thì đến năm 2020 cứ 3 người làm nông nghiệp phải rút đi
chỉ còn 1 người, 2 người kia phải chuyển đổi ngành nghề khác. Vì vậy, xây
dựng NTM là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, góp phần
cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân sinh sống ở
địa bàn nông thôn…
Chương Mỹ là huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, là cửa ngõ thủ
đô, có lợi thế trong giai lưu phát triển kinh tế. Nhìn chung, so với nhiều địa
phương khác, mặt bằng kinh tế hộ của huyện không phải là quá thấp. Bên
cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được hiện nay đang trong thời kỳ đẩy
mạnh xây dựng nông thôn mới, nhiều mâu thuẫn tiềm ẩn bên trong kinh tế hộ
qua nhiều năm cũng đã bộc lộ gay gắt, thể hiện qua tình hình thất nghiệp gia
tăng, năng suất lao động thấp, phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, những
yếu kém trong phát triển sản suất, chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi
ngành nghề còn chậm... Chính vì vậy giải quyết vấn đề thu nhập cho hộ nông
dân là yêu cầu cần thiết được các nhà quản lý, các cấp ủy Đảng và chính
quyền ở huyện và thành phố rất quan tâm. Xuất phát từ đó, em chọn vấn đề:
“Giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ nông dân trong xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt

nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về thu nhập của hộ nông
dân, đánh giá thực trạng thu nhập của hộ nông dân thời gian qua, đề xuất một
số giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ nông dân trong xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
2.2. Mục tiêu cụ thể

2


1. Góp phần hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về thu nhập của hô nông dân
2. Đánh giá đúng thực trạng thu nhập của hộ nông dân trên địa bàn
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
3. Xác định những nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân
trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
4. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các
nông hộ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu nâng cao thu nhập cho hộ nông dân trên địa bàn
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu về thu nhập của hộ nông dân; xác định
những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao thu nhập của hộ nông dân; từ đó đưa
ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho hộ nông dân thời kỳ

xây dựng nông thôn mới ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
+ Phạm vi về không gian
Đề tài nghiên cứu nâng cao thu nhập cho hộ nông dân trên địa bàn
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
+ Phạm vi về thời gian
Trong quá trình thực hiện, các tài liệu được thu thập trong giai đoạn từ
năm 2011 đến năm 2015 và số liệu điều tra năm 2016.

3


4- Nội dung nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao thu nhập cho hộ nông dân
Đề tài đã hệ thống hóa các Khái niệm về xây dựng Nông thôn mới, tiêu
chí quốc gia nông thôn mới; Khái niệm hộ nông dân, kinh tế hộ nông dân; thu
nhập và nâng cao thu nhập cho hộ nông dân và vai trò nâng cao thu nhập cho
hộ nông dân thời kỳ xây dựng nông thôn mới.
4.2. Thực trạng thu nhập và nâng cao thu nhaapjcho hộ nông dân trong thời
kỳ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Chương Mỹ,thành phố Hà
Nội
- Đánh giá đúng thực trạng thu nhập của hộ nông dân trên địa bàn
huyện Chương Mỹ giai đoạn 2011 -2015 và thực trạng thu nhập của hộ nông
dân ơ vùng nghiên cứu.
- Xác định nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao thu nhập của hộ nông dân
trên địa bàn huyện Chương Mỹ,thành phố Hà Nội.
4.3. Giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của hộ nông dân trên địa bàn huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Đưa ra những định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu
nhập cho các hộ nông dân thời kỳ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội

Giải pháp chung
Giải pháp cụ thể cho các loại nông hộ trong huyện

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO THU NHẬP CHO HỘ
NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Cơ sở lý luận về thu nhập, nâng cao thu nhập cho hộ nông dân trong
xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Xây dựng nông thôn mới
1.1.1.1. Khái niệm về nông thôn, xây dựng nông thôn mới
* Khái niệm về nông thôn.
Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân
dân xã [ ].
* Xây dựng nông thôn mới bền vững
Xây dựng nông thôn mới bền vững là quá trình xây dựng nhằm phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn với tốc độ cao, là quá trình làm tăng mức
sống của người dân nông thôn. Phát triển nông thôn phù hợp với nhu cầu của
con người, đảm bảo sự tồn tại bền vững và sự tiến bộ lâu dài trong nông
thôn. Quá trình xây dựng đó dựa trên việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên mà vẫn bảo đảm giữ gìn môi trường sinh thái nông thôn. Phát triển
nông thôn đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay nhưng không làm cạn kiệt tài
nguyên, không để lại hậu quả xấu cho thế hệ tương lai.
1.1.1.2. Đặc trưng, nguyên tắc và mục tiêu xây dựng nông thôn mới
Việc xây dựng NTM bền vững nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế
của quê hương, đất nước trong giai đoạn mới. Sau 30 năm thực hiện đường lối
đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước

ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, nhiều thành tựu đạt được chưa
tương xứng với tiềm năng và lợi thế: Nông nghiệp phát triển còn kém bền

5


vững, sức cạnh tranh thấp, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực còn hạn chế. Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy
hoạch, kết cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, cấp
nước… còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất, tinh
thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo
giữa nông thôn và thành thị còn lớn phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Không thể có một nước công nghiệp nếu nông nghiệp và nông thôn còn lạc
hậu và đời sống nhân dân còn thấp. Vì vậy, xây dựng NTM là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá quê hương, đất nước. Đồng thời, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho người dân sinh sống ở địa bàn nông thôn.
* Những đặc trưng xây dựng nông thôn mới
Nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 bao gồm các đặc trưng sau: Kinh
tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng
cao; Nông thôn phát triển theo quy hoạch, cơ cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại, môi trường sinh thái được bảo vệ; Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa
dân tộc được giữ gìn và phát huy; An ninh tốt, quản lý dân chủ; Chất lượng hệ
thống chính trị được nâng cao [ ].
* Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
Các nội dung, hoạt động của Chương trình xây dựng nông thôn mới phải
hướng tới mục tiêu thực hiện 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
Phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư đại phương là chính, Nhà nước
đóng vai trò định hướng, ban hành các chính sách, cơ chế hỗ trợ, đào tạo cán bộ
và hướng dẫn ở ấp, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện.

Một, kế thừa và lồng ghép chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình
hỗ trợ các mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai trên địa bàn
nông thôn.

6


Hai, thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới phải gắn với kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, có quy hoạch và cơ chế đảm
bảo thực hiện các quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
Ba, công khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn lực; tăng
cường phân cấp, trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện các công
trình, dự án của Chương trình xây dựng nông thôn mới; phát huy vai trò làm
chủ của người dân và cộng đồng, thực hiện dân chủ cơ sở trong quá trình lập
kế hoạch, tổ chức thực hiện và giám sát, đánh giá.
Bốn, xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội; cấp ủy Đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá
trình xây dựng quy hoạch, đề án, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị, xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát
huy vai trò chủ thể trong xây dựng nông thôn mới.
* Mục tiêu xây dựng nông thôn mới
- Xây dựng cộng đồng xã hội văn minh, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
ngày càng hoàn thiện; cơ cấu kinh tế hợp lý, các hình thức tổ chức sản xuất tiên
tiến;
- Gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ và du
lịch; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; từng bước thực hiện
công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn;
- Xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc; trình độ dân trí được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ;

- Hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh; an ninh trật tự được giữ vững; đời
sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020, 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới.

7


1.1.1.3. Tác động của chương trình xây dựng nông thôn mới đến đời sống của
hộ nông dân
Quyết định 800/QĐ-TTg về Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng
nông thôn mới thực sự là cơ hội “vàng” cho phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Để biến cơ hội ấy thành hiện thực, cần có cách nhìn, cách tiếp cận
đúng đắn, nhất là đối với Đề án phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho
người dân.
Chỉ thị 100, khoán 10, giao đất ổn định lâu dài cho nông dân theo Nghị
định 64, thực hiện 5 quyền theo Luật đất đai... là những chủ trương, chính
sách lớn tháo gỡ những “nút thắt” của cơ chế cũ, đã tạo ra những động lực to
lớn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Mỗi thời điểm đổi mới cơ chế đều
gắn liền với những thành tựu to lớn trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Chương trình xây NTM là nội dung cốt lõi trong thực hiện Nghị quyết
26-NQ/T.Ư, đây là lần đầu tiên vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
được bàn một cách toàn diện, đi từ quy hoạch và định hướng phát triển với
tầm nhìn dài hạn. Vì vậy, chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ và
có cách tiếp cận đúng đắn, nhất là đối với Đề án phát triển sản xuất nâng cao
thu nhập cho người dân, thì rất khó tạo ra được động lực nội sinh cho sự phát
triển, bảo đảm xây dựng NTM bền vững.
Xây dựng nông thôn mới bền vững nhằm phát triển kinh tế, thúc đẩy
mạnh mẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Tăng thu
nhập cải thiện đời sống người dân, đời sống văn hóa lành mạnh và giữ gìn bản
sắc dân tộc. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư

nông thôn;
Nâng cao dân trí, đào tạo nông dân có trình độ sản xuất cao, có nhận
thức chính trị đúng đắn, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền
nông nghiệp phát triển bền vững theo hướng hiện đại.

8


Nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất. Sản phẩm
nông nghiệp có sức cạnh tranh cao. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và hiện đại, nhất là đường giao thông, thủy lợi,
trường học, trạm y tế, khu dân cư,…;
Xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, văn minh, giàu đẹp, bảo
vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; an ninh trật tự được
giữ vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy có thể khẳng định xây dựng nông thôn mới nhằm phát triển
kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn; Tăng thu nhập cải thiện đời sống người dân, đời sống văn hóa lành
mạnh và giữ gìn bản sắc dân tộc.
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông
thôn; Nâng cao dân trí, đào tạo nông dân có trình độ sản xuất cao, có nhận
thức chính trị đúng đắn, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững theo hướng hiện đại.
Nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất. Sản phẩm nông
nghiệp có sức cạnh tranh cao.
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và
hiện đại, nhất là đường giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, khu dân
cư,…; xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, văn minh, giàu đẹp, bảo
vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; an ninh trật tự được
giữ vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

1.1.2. Hộ nông dân, kinh tế hộ nông dân, đặc trưng, vai trò của kinh tế hộ
nông dân trong xây dựng nông thôn mới
1.1.2.1.Khái niệm Hộ Nông dân
Trong lịch sử phát triển nông nghiệp của thế giới, hộ nông dân là khái
niệm chỉ một đơn vị cấu thành cơ bản trong sản xuất nông nghiệp, chỉ số hộ

9


sống ở khu vực nông thôn và liên quan đến hoạt động sản xuất nông nghiệp
xen lẫn với phi nông nghiệp với mức độ khác nhau. Hộ nông dân có thể có
nhiều thành viên tham gia hoạt động phi nông nghiệp với mức độ khác nhau.
Tuy nhiên cuộc sống của hộ chủ yếu vẫn dựa vào các nguồn tài nguyên như:
Đất đai, các hoạt động chăn nuôi và trồng trọt. Dưới khía cạnh kinh tế, hoạt
động nổi trội nhất của hộ nông dân là sản xuất nông nghiệp, chủ yếu dựa vào
lao động gia đình với đặc trưng tham gia từng phần trong thị trường đầu vào
và đầu ra với mức độ chưa hoàn hảo (Đào Thế Tuấn, 1997).
Tác giả Nguyễn Sinh Cúc đưa ra khái niệm: ”Hộ nông dân là những hộ
có toàn bộ hoặc hơn 50% số lao động thường xuyên tham gia trực hoặc gián
tiếp vào các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp như: làm
đất, thủy nông, giống cây trồng...”
Từ các khái niệm trên xin khái quát hộ nông dân như sau: Hộ nông dân
là những hộ ở nông thôn, có ngành nghề sản xuất chính là sản xuất nông
nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu là nghề nông. Ngoài nông
nghiệp hộ nông dân còn tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp như tiểu
thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ ở mức độ khác nhau.
1.1.2.2. Kinh tế Hộ Nông dân
- Kinh tế hộ nông dân là hình thức kinh tế có quy mô gia đình, các
thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về kinh tế cũng như huyết thống.
Trong nông hộ, chủ hộ thường là người vừa điều hành quản lý sản xuất lại

vừa là người trực tiếp tham gia lao động nên tính thống nhất giữa lao động
quản lý và lao động trực tiếp rất cao.
- Đất đai là yếu tố quan trọng nhất trong các tư liệu sản xuất của hộ
nông dân. Cuộc sống của họ gắn liền với ruộng đất. Giải quyết mối quan hệ
giữa nông dân và đất đai là giải quyết vấn đề cơ bản về kinh tế hộ nông dân.
Ở nước ta, từ năm 1988 khi Nhà nước giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các

10


hộ nông dân, sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa, đã có mức tăng
chưa từng có về năng suất và sản lượng. Người nông dân phấn khởi trong sản
xuất. Một vấn đề quan trọng ở đây là việc xác nhận họ được quyền kiếm sống
gắn bó với mảnh đất của họ.
- Kinh tế hộ nông dân chủ yếu sử dụng lao động gia đình, việc thuê
mướn lao động mang tính chất thời vụ không thường xuyên hoặc thuê mướn
để đáp ứng nhu cầu khác của gia đình. Một thực tế là hiệu quả sử dụng lao
động trong nông nghiệp rất cao, khác với các ngành kinh tế khác do các thành
viên trong hộ cùng dựa trên một cơ sở kinh tế, ý thức trách nhiệm rất cao,
việc bố trí, sắp xếp công việc trong hộ cũng rất linh hoạt, hợp lý.
- Sản xuất của hộ nông dân là tập hợp các mục đích kinh tế của các
thành viên trong gia đình, thường nằm trong một hệ thống sản xuất lớn hơn
của cộng đồng. Kinh tế Hộ nông dân là tế bào kinh tế của sản xuất nông
nghiệp, tất yếu có quan hệ với thị trường song mức độ quan hệ còn thấp, chưa
gắn chặt với thị trường. Nếu tách họ ra khỏi thị trường họ vẫn tồn tại. Mặt
khác, hộ cũng sẽ có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh cao
1.1.2.3.Đặc trưng Kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân có 6 đặc trưng cơ bản là:
Thứ nhất: Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình
quản lý và sử dụng các yếu tố sản xuất. Bởi vì sở hữu trong nông hộ là sở hữu

chung, mọi thành viên đều có thể sử dụng và tự quản lý các yếu tố sản xuất
như vốn, đất đai để tạo ra của cải đóng góp vào ngân quỹ chung của nông hộ.
Thứ hai: Lao động quản lý và lao động trực tiếp có sự gắn bó chặt chẽ
với nhau và được chi phối bởi quan hệ huyết thống. Thông thường chủ hộ
thường là người quản lý, điều hành và trực tiếp tham gia sản xuất. Với đặc
điểm này, việc tổ chức sản xuất trong nông hộ diễn ra tương đối linh hoạt và
thống nhất, cơ cấu tổ chức rất đơn giản.

11


Thứ ba: Quy mô sản xuất nhỏ, hơn nữa các nguồn lực có thể được huy
động hay thu hồi dễ dàng nên các nông hộ hoàn toàn có khẳ năng thích nghi
và tự điều chỉnh tốt. Gặp điều kiện thuận lợi, nông hộ có thể phát huy tối đa
nguồn lực cho sản xuất ngay cả khi giảm khẩu phần ăn tất yếu của mình.
Trong hoàn cảnh bất lợi, sản xuất được thu hẹp, thậm chí có thể quay về với
sản xuất giản đơn.
Thứ tư: Quan hệ huyết thống, họ tộc, văn hoá và đặc biệt là lợi ích kinh
tế chung của các thành viên...Tất cả nằm đan xen trong một trật tự tổ chức hết
sức đa dạng và phức tạp, song chúng cùng tác động tạo nên sự đồng tâm, hiệp
lực giữa các thành viên, họ cùng tự giác lao động để phát triển kinh tế mà
không cần đến thưởng phạt. Điều này không thể có ở các đơn vị kinh tế khác.
Thứ năm: Kinh tế hộ được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị
trường. Chính vì thế, trên thị trường đầu vào, hộ chỉ bán từng phần nguồn lực
của mình như: đất đai, sức lao động... với thị trường đầu ra, nông hộ chỉ mua
những gì mà họ không có khả năng tự túc như: quần áo, thuốc men hay các đồ
gia dụng khác...
Thứ sáu: Kinh tế hộ nông dân sử dụng sức lao động, nguồn vốn...của
mình là chủ yếu. Chỉ khi nào quy mô sản xuất vượt quá nguồn lực sẵn có, các
hoạt động mua bán hay đi thuê mới diễn ra.

Với các đặc trưng trên, có thể khẳng định rằng kinh tế nông hộ luôn là
hình thức tổ chức kinh tế rất thích hợp với sản xuất nông nghiệp. Bởi vì, đối
tượng sản xuất của nông nghiệp là các sinh vật sống rất cần sự chăm sóc trực
tiếp và thường xuyên của con người. Người lao động trong nông hộ vời ý
thức trách nhiệm cao, có sự gắn bó mật thiết với cây trồng vật nuôi nên hoàn
toàn có thể đảm nhận công việc đó.
1.1.2.4. Vai trò kinh tế hộ nông dân thời kỳ xây dựng nông thôn mới

12


Kinh tế hộ gia đình là một lực lượng sản xuất quan trọng ở nông thôn
Việt Nam. Hộ gia đình nông thôn thường sản xuất, kinh doanh đa dạng, kết
hợp trồng trọt với chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh ngành nghề
phụ. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong
quá trình đổi mới và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những
chủ trương, chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình
phát triển.
Từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI (1988), hộ
nông dân đã thực sự được trao quyền tự chủ trong sản xuất, và do đó đã khơi
dậy nhiều nguồn lực và tiềm năng để kinh tế hộ gia đình phát triển; người
nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh tăng
vụ, ruộng đất được sử dụng tốt hơn... Nghị quyết Trung ương 6 lần 1 (khoá
VIII) với chủ trương tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhất là
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã khẳng định nông nghiệp, nông thôn là
lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn II từ năm
2010 - 2020 đã xác định kinh tế hộ gia đình là một đơn vị sản xuất cơ sở, cần
thiết cho chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế vĩ mô, nhằm huy động mọi nguồn

lực tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Nghị định số 66/HĐBT ngày 2-3-1992; Luật Doanh nghiệp (2005) đã
khẳng định: Chủ hộ chịu trách nhiệm vô hạn về vốn và kết quả kinh doanh
của mình, mặt khác Nhà nước cũng có những chính sách tạo điều kiện thuận
lợi để hộ kinh doanh có số vốn phù hợp với quy mô để hộ gia đình có thể
chuyển thành doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và các hoạt động theo pháp
luật. Theo đó, kinh tế hộ gia đình thích ứng với cơ chế thị trường ngày càng
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở

13


nông thôn. Xuất hiện nhiều hộ gia đình sản xuất theo phương thức trang trại
gia đình, trong các lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản…
Kinh tế hộ gia đình đang có cơ hội, điều kiện phát triển mạnh mẽ khi
chúng ta thực hiện quá trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nông thôn
mới là một nội dung quan trọng của Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ngày 16-4-2009, Thủ tướng Chính phủ có
quyết định số 491 ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Bộ tiêu chí
quy định việc thực hiện nông thôn mới ở nước ta gồm 7 vùng, với 5 nội dung,
19 tiêu chí. Trong đó, phát triển kinh tế hộ gia đình, đa dạng hóa ngành nghề,
giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn là những
nội dung của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010 - 2020.
1.1.3. Thu nhập, phân loại thu nhập và nâng cao thu nhập cho hộ nông
dân trong xây dựng nông thôn mới
1.1.3.1 Thu nhập của hộ nông dân
Thu nhập là một trong những phương tiện giúp con người định hướng
giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về thu nhập hộ nông dân.

- Theo quan điểm của Traianụp về thu nhập của hộ nông dân trong điều
kiện không tồn tại thị trường sức lao động thì thu nhập của hộ nông dân
không giống thu nhập của các xí nghiệp tư bản. Thu nhập trong hộ không chỉ
có tiền lãi kinh doanh mà bao gồm toàn bộ giá trị lao động. Như vậy thu nhập
của nông hộ là phần còn lại sau khi lấy giá trị sản xuất trừ đi tổng chi phí vật
chất.
- Quan điểm của Barnum và Squire về thu nhập của hộ nông dân trong
điều kiện tồn tại thị trường sức lao động thì cho rằng trong điều kiện tồn tại
thị trường sức lao động được phân chia thành: Thời gian lao động nghỉ ngơi,

14


thời gian lao động làm việc tại nhà, thời gian sản xuất nông nghiệp và thời
gian làm việc có tiền công. Từ đó các ông đưa ra khái niệm thu nhập hộ nông
dân như sau: Thu nhập hộ nông dân được tính bằng giá trị sản phẩm sau khi
đã trừ đi các phần như: Sản phẩm hộ tiêu dùng, giá trị công lao động thuê
ngoài, chi phí đầu vào cho sản xuất và cộng thêm giá trị tiền lao động đi làm
thêm... song ở đây các ông lại tính tiền công giống nhau nên điều này là
không đúng.
Để đi sâu vào nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau về hộ nông dân thì
nhiều nhà khoa học và nghiên cứu kinh tế ở Việt Nam đã sử dụng chỉ tiêu hỗn
hợp để đánh giá thu nhập của hộ nông dân. Thu nhập hỗn hợp của hộ nông
dân là phần thu được sau khi lấy tổng thu (Tức là toàn bộ giá trị sản phẩm từ
các hoạt động sản xuất trong nông hộ) trừ đi chi phí vật chất, trừ đi tiền công
thuê ngoài và chi phí khác bao gồm thuế và khấu hao tài sản cố định...(Nguồn
Nguyễn Sinh Cúc và Nguyễn Văn Tiêm, 1996). Như vậy trong phần thu nhập
của hộ sẽ bao hàm tiền công lao động của chủ hộ, tiền công lao động của các
thành viên và lãi kinh doanh.
Xuất phát từ các quan điểm trên và đặc trưng của hộ nông dân ở Việt

Nam thì tổng quát về thu nhập của hộ nông dân như sau: Thu nhập của một
hộ nông dân được hiểu là phần giá trị sản xuất tăng thêm mà hộ được hưởng
để bù đắp lại cho thù lao lao động của gia đình, cho tích lũy, tái mở rộng sản
xuất nếu có. Thu nhập của hộ phụ thuộc vào kết quả các hoạt động sản xuất
kinh doanh mà hộ thực hiện.
1.1.3.2. Phân loại thu nhập của hộ nông dân
a. Về phân loại hộ
- Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động
+ Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không có phản ứng với thị trường:
Loại hộ này có mục tiêu là tối đa hoá lợi ích, đó là việc sản xuất các sản

15


phẩm cần thiết để tiêu dùng trong gia đình. Để có đủ sản phẩm, lao động
trong nông hộ phải hoạt động cật lực và đó cũng được coi như một lợi ích, để
có thể tự cấp tự túc cho sinh hoạt, sự hoạt động của họ phụ thuộc vào:
 Khả năng mở rộng diện tích đất đai.
 Có thị trường lao động để họ mua nhằm lấy lãi.
 Có thị trường lao động để họ bán sức lao động để có thu nhập.
 Có thị trường sản phẩm để trao đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của mình.
+ Hộ nông dân sản xuất hàng hoá chủ yếu: Loại hộ này có mục tiêu là
tối đa hoá lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị
trường vốn, ruộng đất, lao động.
- Theo tính chất của ngành sản xuất hộ
+ Hộ thuần nông: là loại hộ chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp.
+ Hộ chuyên công: là loại hộ chuyên làm các ngành nghề như cơ khí,
mộc nề, rèn, sản xuất nguyên vật liệu xây dựng, vận tải, thủ công mỹ nghệ,
dệt, may, làm dịch vụ kỹ thuật cho nông nghiệp.
+ Hộ kiêm nông: là loại hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề tiểu thủ

công nghiệp, nhưng thu từ nông nghiệp là chính.
+ Hộ buôn bán: ở nơi đông dân cư, có quầy hàng hoặc buôn bán ở chợ.
Các loại hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều kiện cho
phép, vì vậy sản xuất công nghiệp nông thôn, phát triển cơ cấu hạ tầng sản xuất
và xã hội ở nông thôn, mở rộng mạng lưới thương mại và dịch vụ, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn để chuyển hộ độc canh thuần nông sang
đa ngành hoặc chuyên môn hoá. Từ đó làm cho lao động nông nghiệp giảm,
thu hút lao động dư thừa ở nông thôn hoặc làm cho đối tượng phi nông nghiệp
tăng lên [30].
- Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ:
+ Hộ giàu, khá

16


+ Hộ Trung bình
+ Hộ nghèo
b. Về phân loại thu nhập của hộ
Có thể phân thu nhập của hộ thành 3 loại như: Thu từ nông nghiệp, thu
từ phi nông nghiệp và thu khác.
- Thu nhập từ nông nghiệp: Bao gồm thu từ các hoạt động sản xuất
trong nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản.
- Thu nhập từ phi nông nghiệp: Là thu nhập được tạo ra từ các nghành
nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Bao gồm các ngành nghề chế biến,
sản xuất vật liệu xây dựng, gia công cơ khớ...Ngoài ra thu nhập phi nông
nghiệp còn được tạo ra từ các hoạt động thương mại dịch vụ như buôn bán,
thu gom.
- Thu nhập khác: Đó là thu nhập từ các hoạt động làm thêm, làm thuê,
làm công ăn lương, từ các trợ cấp xã hội hoặc các nguồn thu nhập bất thường
khác.

1.1.3.3. Nâng cao thu nhập cho hộ nông dân trong xây dựng nông thôn mới
Nâng cao thu nhập là làm cho lượng thu nhập ngày càng tăng và ổn
định trong một thời gian tương đối dài của hộ gia đình và cộng đồng dân cư
mà không làm suy giảm (ảnh hưởng) đến việc phát triển tài nguyên đa dạng
sinh học của vùng và quốc gia.
Vấn đề chủ yếu đối với nâng cao thu nhập:
- Lượng thu nhập ngày càng tăng, phù hợp với mặt bằng phát triển thu
nhập của dân cư ở các vùng lân cận và cả nước.
- Lượng thu nhập này giữ ổn định động trong một thời gian dài từ 3 đến
5 năm trở lên.
- Nâng cao thu nhập tính cho từng hộ gia đình nói riêng và cả cộng
đồng dân cư nói chung nghĩa là không còn hộ đói, giảm hộ nghèo và tiến tới

17


đạt được mức sống trung bình trở lên của tất cả các hộ dân cư.
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang phát triển theo cơ chế thị
trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa thì sự tồn tại và phát triển của các
thành phần kinh tế, các phương thức sản xuất hoàn toàn khách quan phù hợp
với xu hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nông hộ là một bộ
phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Trong mọi thời đại thì kinh tế nông
hộ dù phát triển dưới một hình thức nào cũng đều góp phần quan trọng giúp
cho nền kinh tế quốc dân phát triển.
Để nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân là một vấn đề chiến lược vì
hộ nông dân là thành phần chủ yếu chiếm số đông trong nền kinh tế Việt
Nam. Nâng cao thu nhập cho hộ nông dân cũng chính là nâng cao mức sống
cho người dân và tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Ở nước ta hiện nay, giá trị sản phẩm nông nghiệp còn chiếm một tỉ
trọng lớn trong nền kinh tế. Mặt khác đối với nông nghiệp khả năng sản xuất

hàng hóa chưa cao nên kinh tế nông hộ cũng có vai trò hết sức to lớn. Nó thúc
đẩy nông nghiệp và nông thôn phát triển. Kinh tế nông hộ hàng năm đã cung
cấp cho xã hội khoảng 90% sản lượng thịt cá, sản lượng lương thực và sản
lượng rau quả. Trên cơ sở đó cần tăng nhanh sản lượng lương thực, thực
phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả. Đẩy mạnh xuất khẩu và cải tạo tốt hơn tài
nguyên đất, lao động, vốn...
Trong cơ chế phát triển của nền kinh tế hiện nay, chúng ta đang chủ
trương xóa bỏ chế độ độc canh tiến đến đa canh cây trồng vật nuôi và phát
triển ngành dịch vụ ở nông thôn theo điều kiện cụ thể của từng vùng. Từng
bước xóa bỏ cơ chế sản xuất tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hóa
theo hình thức tập trung để tăng khả năng đầu tư cũng như phát huy các tiềm
lực khác góp phần nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi kết hợp phát triển
các nghành nghề, các loại hình dịch vụ nhằm không ngừng nâng cao thu nhập

18


cho người nông dân góp phần thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn vào năm 2020 theo tinh thần của đại hội Đảng IX đã đề ra.
1.1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao thu nhập của hộ nông dân
trong xây dựng nông thôn mới
Trong sản xuất kinh tế hộ nông dân chịu tác động bởi các nhóm yếu tố
chủ quan và khách quan. Các nhân tố này tác động đến thu nhập của hộ thông
qua 2 bộ phận chính của thu nhập là tổng thu và tổng chi phí. Do đó các yếu
tố ảnh hưởng đến hai thành phần này sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông
dân. Có nghĩa là một yếu tố nào đó làm thay đổi một trong hai thành phần này
cũng làm thay đổi thu nhập của hộ
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng thu và tổng chi phí trên cũng có quan
hệ với nhau, có nhiều yếu tố vừa ảnh hưởng đến tổng thu vừa ảnh hưởng đến
tổng chi phí. Vì vậy có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ

nông dân như sau:
1.1.4.1. Các yếu tố bên trong
* Trình độ của chủ hộ
Trình độ học vấn của chủ hộ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới thu
nhập của gia đình. Những người có trình độ học vấn càng cao, thì khả năng
kiếm tiền càng giỏi. Cụ thể là những hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học
vấn từ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên thì có thể kiếm được khoản thu
nhập cao hơn so với những hộ gia đình mà chủ hộ có trình độ học vấn dưới
mức phổ thông trung học.
* Khả năng các nguồn lực của hộ
Một là, đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản
xuất nông nghiệp. Để phát triển kinh tế hộ nông dân trước hết phải dựa vào
đất. Nhất là những nơi có tiềm năng về đất đai để có thể lập trang trại, chuyển
sang sản xuất hàng hóa. Đối với tài nguyên đất cần chú ý tới hai yếu tố đó là

19


diện tích và độ màu mỡ để có biện pháp làm giảm chi phí sản xuất và tăng
năng suất.
- Quy mô diện tích là nhân tố quan trọng để xác định mức thu nhập từ
sản xuất mà hộ khai thác được. Nếu quy mô lớn thì tổng khối lượng sản phẩm
đạt được có thể lớn hơn so với hộ có quy mô bé hơn nếu có cùng một năng
suất.
- Chất lượng đất đai thể hiện ở độ phì, độ màu mỡ của đất. Độ phì, độ
màu mỡ của đất là chất dinh dưỡng cho cây trồng tồn tại và phát triển. Chất
lượng của đất còn quy định tới lợi thế của từng vùng, tạo ra sự đa dạng của
sản phẩm và làm giảm được quy mô lao động thể hiện mức độ đầu tư lao
động vào một công việc cụ thể.
Ha là, lao động, nếu đầu tư sức lao động cao sẽ cho sản lượng cao hơn,

thu nhập cao hơn và ngược lại. Khi đánh giá về nhân khẩu, chúng ta phải
đánh giá tỉ số giữa số lượng lao động và số lượng nhân khẩu. Khi tỉ số giữa số
lượng lao động trên nhân khẩu thấp nghĩa là tỉ lệ phụ thuộc cao, điều nay gây
bất lợi cho hộ. Nó làm cho hộ nghèo ngày càng nghèo thêm.
- Chất lượng lao động thể hiện ở trình độ học vấn, kỹ năng lao động,
khả năng tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất. Trong
đó kiến thức chuyên môn là cơ sở để tiếp thu và đưa kỹ thuật hiện đại vào sản
xuất. Mà kiến thức chuyên môn có được thông qua quá trình đào tạo ở trường,
ở các lớp tập huấn ngắn hạn và dài hạn.
- Kinh nghiệm sản xuất là những gì mà người lao động tích lũy được
trong cuộc sống. Vì sản xuất nông nghiệp là một ngành sản xuất đặc biệt. Nó
tuân theo quy luật tự nhiên nên dù chúng ta có kiến thức chuyên môn cao vẫn
có thể bị thất bại nếu không có kinh nghiệm. Vì vậy kinh nghiệm sản xuất ảnh
hưởng rất lớn đến thu nhập của hộ nông dân.

20


Ba là, vốn là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được để tiến hành
tổ chức sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm tiền mặt, nguyên liệu và công cụ
sản xuất. Có vốn có thể mở rộng quy mô, chuyển dần sang sản xuất hàng hóa,
mua sắn trang thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất, đầu tư thâm canh tăng
năng suất, tăng chất lượng sản phẩm và nâng cao thu nhập cho hộ nông dân.
1.1.4.2.Các yếu tố bên ngoài
- Điều kiện tự nhiên
Những nhân tố về điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến mảnh
đất mà người nông dân canh tác như: thời tiết, khí hậu. Do đối tượng sản xuất
của nông nghiệp là sinh vật sống nên quá trình sinh trưởng và phát triển của
cây trồng và vật nuôi chụi ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh. Nếu điều
kiện ngoại cảnh thuận lợi phù hợp với các giai đoạn phát triển của cây trồng

và vật nuôi nên sẽ cho năng suất cao. Ngược lại thiên tai dịch bệnh sẽ làm
giảm năng suất của cây trồng, vật nuôi dẫn đến làm giảm thu nhập của hộ
nông dân.
- Mức độ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới cấp xã
- Chính sách của nhà nước
Chính sách Nhà Nước bao gồm các chính sách thuế, chính sách đất đai,
tín dụng, chính khuyến nông, chính sách trợ giá... Các chính sách đều ảnh
hưởng rất lớn đến kinh tế hộ nông dân. Mỗi chính sách ban hành đều có tác
động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ dù lớn hay nhỏ. Nếu chính
sách đúng sẽ tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư mà
đặc biệt là chính sách về kinh tế nông nghiệp nông thôn.
- Thị trường nông thôn…
Thị trường nông thôn do có những đặc điểm khác biệt so với thị trường
đô thị. Thách thức lớn nhất chính là ở sự rộng lớn, dân cư phân bố rải rác,

21


điều kiện hạ tầng giao thông chưa tốt, mức thu nhập không đồng đều giữa các
vùng, gây ra nhiều khó khăn để thiết lập một hệ thống phân phối.
Một vấn đề nữa trong cơ chế thị trường nông thôn các hộ nông dân
hoàn toàn tự do lựa chọn sản xuất sản phẩm mà họ có khả năng và chi phí cơ
hội thấp. Đối với từng hộ nông dân thì để đáp ứng nhu cầu thị trường về nông
sản thì họ có xu hướng liên kết hợp tác sản xuất với nhau. Mặt khác thị trường
là nơi mà giá cả của các yếu tố đầu vào và đầu ra trong sản xuất được hình
thành nên thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người dân. Vì
thị trường sẽ ảnh hưởng đến giá cả đầu vào nên ảnh hưởng tới chi phí sản
xuất, ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm đầu ra nên ảnh hưởng tới tổng thu của hộ
nông dân. Nên sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của hộ nông dân. Ngoài ra
thị trường còn ảnh hưởng tới thu nhập của hộ nông dân thông qua việc tiêu

thụ các sản phẩm...
1.1.5. Chủ trương CS của Đảng và Nhà nước về nâng cao thu nhập cho
người nông dân trong thời kỳ xây dựng nông thôn mới
1.2.2.1. Chủ trương CS của Đảng và Nhà nước về nâng cao thu nhập
cho người nông dân trong thời kỳ xây dựng nông thôn mới.
Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) đã có Nghị quyết số 26 - NQ/T.Ư
ngày 5-8-2008 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, trong đó có mục tiêu:
“Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh
thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Ðảng
được tăng cường...”. Về mục tiêu cụ thể đến 2015, cả nước có 20% số xã đạt
chuẩn nông thôn mới và đến 2020 có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới

22


(theo 19 tiêu chí mà Thủ tướng Chính phủ đã ban hành trên tổng số 9.111 xã
hiện nay của nước ta.
Không thể có một nước công nghiệp nếu nông nghiệp, nông thôn lạc
hậu, nông dân có đời sống văn hóa và vật chất thấp, vì vậy Chủ trương CS
của Đảng và Nhà nước về nâng cao thu nhập cho người nông dân trong thời
kỳ xây dựng nông thôn mới tập trung chủ yếu vào các nội dung sau.
Một là, xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa nông thôn Việt Nam.
Hai là, tập trung chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn. Hiện
nay, cả nước ta có 15.570.642 hộ sống ở nông thôn, chiếm 69,4% số hộ với
37.960.031 lao động, chiếm 69% số lao động cả nước, trong đó lao động làm
việc trực tiếp trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm 51,9% số lao động cả

nước. Mục tiêu của chúng ta là đến năm 2020 giảm xuống còn 30% số lao
động làm nông nghiệp, còn lại phải chuyển sang ngành nghề khác phi nông
nghiệp.
Suốt 25 năm đổi mới của đất nước, tỷ trọng lao động nông nghiệp cũng
chỉ giảm được 21% (từ 72,9% - năm 1985 còn 51,9% - hiện nay). Nhưng do
yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa đất nước vì sự ấm no,
giàu có của cư dân nông thôn, nhất định chúng ta phải tiến hành đào tạo
chuyển nghề cho lao động nông thôn và đào tạo nâng cao trình độ cho nông
dân còn tiếp tục làm nông nghiệp.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quyết định về Chương trình đào tạo
cho lao động nông thôn. Theo đó, hằng năm, chúng ta phải tập trung đào tạo
chuyển nghề cho lao động nông thôn từ 700.000 đến 800.000 người và
300.000 nông dân tiếp tục làm nông nghiệp. Trường lớp đào tạo hiện còn
chưa đáp ứng, cái khó hơn là đào tạo lao động phi nông nghiệp có được việc
làm và thu nhập ổn định, cao hơn làm nông nghiệp. Lao động sau đào tạo chủ

23


yếu làm việc tại các doanh nghiệp, có thể ở thành phố, đô thị nhỏ. Làm việc
trong doanh nghiệp ở nông thôn và đầu tư vào nông nghiệp đang là thách thức
lớn. Thực tế hiện nay ở nước ta mới có 39.414 doanh nghiệp hoạt động ở
nông thôn, trong số đó chỉ có 1.454 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
nông, lâm, thủy sản chiếm 3,7% số doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn.
Vốn đầu tư có 32 nghìn tỷ đồng chiếm 6% vốn của các doanh nghiệp
đầu tư ở nông thôn và chỉ có 0,9% vốn của các doanh nghiệp trong nước. Vì
vậy, Chính phủ đã có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn. Cần phải coi đây là công việc thường xuyên, lâu dài về
việc đào tạo chuyển nghề cho lao động nông thôn và gắn đào tạo chuyển nghề
với doanh nghiệp.

Ba là, tăng thu nhập gấp 2 - 3 lần hiện nay. Nâng cao đời sống tinh thần
cho cư dân nông thôn là việc làm lâu dài. Thực tế hiện nay, thu nhập của cư
dân nông thôn bình quân năm bằng 76,6% bình quân chung cả nước và chỉ
bằng 47,5% đô thị; có tới 84,5% hộ nghèo (trong tổng số hộ nghèo cả nước)
sống ở nông thôn (nếu tính theo chuẩn mới chắc còn cao hơn nữa). Mặt khác,
do sản xuất nông nghiệp mang tính rủi ro cao, nên nguy cơ các hộ từ cận
nghèo trở thành hộ nghèo rất cao, hoặc hộ đã thoát nghèo nhưng nếu chỉ gặp
rủi ro như trong năm có người ốm, lợn gà bị dịch bệnh,... lại trở về hộ nghèo.
Bình quân mỗi hộ nông dân Việt Nam chỉ có 1,61 ha đất canh tác/hộ;
trong đó đồng bằng sông Hồng 0,35 ha/hộ; trung du, miền núi phía bắc 2,98
ha/hộ; Bắc Trung bộ 1,76 ha/hộ, duyên hải miền Trung 2,13 ha/hộ; Tây
Nguyên 5,63 ha/hộ; Ðông Nam bộ 1,2 ha/hộ; đồng bằng sông Cửu Long 1,03
ha/hộ. Nếu không chuyển dịch được cơ cấu lao động, không đưa nhanh được
ngành nghề vào nông thôn thì dù có tăng năng suất, tổ chức lại sản xuất, dồn
điền đổi thửa kiểu gì cũng khó giàu, mà tất cả các công việc làm trên đều
không thể một sớm một chiều hoặc là theo kiểu “phong trào” được.

24


×