Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

XÂY DỰNG và sử DỤNG sơ đồ, BẢNG BIỂU vào dạy học TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN đại TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.05 KB, 139 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HOÀNG THỊ HẢI YẾN

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 9

Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học văn
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS Phạm Thị Thu Hương

HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC
Có thể lập quy trình dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật cho học sinh trong
nhà trường phổ thông. Xung quanh vấn đề lập quy trình cho dạy văn,
còn có nhiều quan niệm khác nhau, vì văn chương có nhiều cách tiếp cận.
Văn chương không chấp nhận một công thức nào cho sẵn. Văn chương là
tự do, là sáng tạo, là cá thể hoá. Quy trình hoá làm mất vẻ sinh động của
giờ văn. Điều đó đúng, tiếp nhận văn chương phải bằng tình cảm, cảm
xúc, bằng kinh nghiệm, sự trải nghiệm của cá nhân, bằng năng lực “đồng
sáng tạo” ở mỗi người đọc. Lý thuyết tiếp nhận còn cho biết khi đọc văn
bản thì mỗi người đọc đã tự cấu trúc một văn bản, chồng lên văn bản của
nhà văn. Tác phẩm cũng không có sẵn. Tác phẩm là quá trình, phụ thuộc
vào bạn đọc. Lĩnh vực văn chương là lĩnh vực của sự đa dạng, phong


phú, không nên khuôn vào một cung cách nào. Nhưng đó là cách nghĩ
của lý thuyết, còn thực tiễn dạy và học văn, của giáo viên và học sinh thì
rất cần có một vài quy trình để tham khảo. Chúng tôi xin nêu một qui
trình đọc hiểu văn bản nghệ thuật cho học sinh trong nhà trường phổ
thông như sau:...............................................................................................83


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tầm quan trọng của vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn
được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều quan điểm, phương
pháp, biện pháp kĩ thuật dạy học mới đã được giới thiệu, dù có khác nhau,
nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không phải là những
“bình chứa thụ động” mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá
trình học tập.
Vì vậy, phát triển năng lực người học chính là xu hướng đổi mới căn bản
toàn diện của nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Điều 28, Luật Giáo dục cũng đã chỉ rõ: “ Giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm hứng thú học tập của học sinh”.
1.2. Thực trạng dạy học Ngữ văn hiện nay trong các nhà trường
THCS
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn
học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển cảm xúc
thẩm mĩ, tư duy của con người. Đồng thời, môn học này có tầm quan trọng
trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác,
Ngữ văn cũng là môn học có tính chất công cụ, có mối quan hệ với nhiều bộ

môn trong các nhà trường phổ thông. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích
cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần để
học tốt môn Ngữ văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành của
môn học, giảm lí thuyết,, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh

3


động của cuộc sống .
Nhà văn hoá lớn của nhân loại V. Lê-nin từng nói "Văn học là nhân
học", vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh hiện nay không còn
thích học Văn. Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn
thuần là những lời than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy
môn Ngữ văn, và nay đã trở thành vấn đề của báo chí, dư luận. Ai đã trực
tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy
cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy và học Văn hiện nay.
Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy Văn là nhiều học sinh có năng
khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển Văn. Các em còn phải dành
thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con
mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều
đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi
khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn đang được rèn nói,
viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng
khối A thì thật là nguy hại.
Khi học sinh tạo lập một văn bản, giáo viên có thể dễ dàng nhận ra
những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả
sai, bố cục và lời văn lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn
đạt ngô nghê, tối nghĩa...Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến, thậm chí
là đáng báo động trong nhà trường.
Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng

thực tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh
xem nhẹ, mặc dù kiến thức của môn học này rất quan trọng cho tất cả mọi
người. Muốn khôi phục sự quan tâm đối với các bộ môn khoa học xã hội,
không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi, mà chúng ta phải tích cực đổi mới

4


phương pháp dạy học Văn, khơi gợi hứng thú học Văn của học sinh, hình
thành cho các em phương pháp học Văn hiệu quả.
Do vậy, đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là một vấn đề mang tính
tất yếu, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn tại các nhà trường phổ
thông.
1.3. Sơ đồ, bảng biểu và việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học
Ngữ văn
Sơ đồ, bảng biểu là một phương tiện dạy học có nhiều ưu thế trong việc
tích cực hóa hoạt động học tập, tạo điều kiện để học sinh tự học, phát huy khả
năng sáng tạo của cả giáo viên và học sinh. Việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu
giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh học tập tích cực.
Đó là một trong những cách làm thiết thực để triển khai nội dung dạy học có
hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm vấn đề của phong trào thi đua
“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào
tạo phát động. Kiến thức lĩnh hội được biểu hiện dưới dạng các sơ đồ, bảng
biểu bao giờ cũng ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ nên học sinh dễ dàng nắm bắt,
tổng hợp, phát triển ý tưởng, tìm tòi xây dựng kiến thức mới. Từ đó giúp các
em hăng say tích cực học tập và yêu mến môn học. Tuy vậy trong dạy học bộ
môn việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu như một biện pháp, kĩ thuật dạy học còn
chưa thực sự được quan tâm. Các sơ đồ, bảng biểu chủ yếu được vận dụng
vào bài dạy Văn học sử, Tiếng Việt, Làm văn hoặc đọc hiểu văn bản nhật
dụng. Với văn bản văn chương, do đặc thù phản ánh và tiếp nhận nên dường

như nhiều người cho rằng không thể sử dụng những công cụ này. Sử dụng sơ
đồ, bảng biểu vào dạy học tác phẩm văn chương liệu có làm xơ cứng cảm xúc
thẩm mĩ, “đồng phục hóa” cách cảm nhận của học sinh hay sẽ kích hoạt sự
sáng tạo của cả người dạy và người học? Luận văn của chúng tôi sẽ góp phần
trả lời cho câu hỏi ấy.

5


1.4. Vị trí của các truyện ngắn hiện đại Việt Nam trong sách giáo
khoa lớp 9
Có thể thấy, các tác phẩm truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương
trình sách giáo khoa Ngữ văn 9 không nhiều: Làng - Kim Lân, Chiếc lược
ngà - Nguyễn Quang Sáng, Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long, Những
ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê và đoạn trích đọc thêm Bến quê - Nguyễn
Minh Châu. Song, các tác phẩm này là phần kiến thức quan trọng, góp phần
vào việc tạo dựng nền tảng hiểu biết về văn học Việt Nam hiện đại, rèn luyện
kĩ năng tiếp nhận, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho học sinh trung học cơ sở.
Vậy làm thế nào người giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cảm nhận
tác phẩm, để người học tạo dựng kiến thức đồng thời rèn luyện kĩ năng cơ bản
về truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 9 quả là
điều không đơn giản.
Xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào quá trình dạy học truyện
ngắn Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 là một trong
những biện pháp không chỉ giúp học nắm vững kiến thức trọng tâm, mà còn
tạo cơ hội thuận lợi để các em phát huy khả năng tích cực, chủ động và sáng
tạo của mình trong việc lĩnh hội tri thức. Nếu biết kết hợp hài hòa với các
phương pháp, kĩ thuật dạy học khác thì sơ đồ, bảng biểu sẽ phát huy hiệu quả
đáng kể trong việc đổi mới dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông nói
chung, dạy học tác phẩm văn chương nói riêng.

Với những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn đi vào tìm hiểu đề tài: Xây
dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện
đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 9.
2. Lịch sử vấn đề
Sơ đồ, bảng biểu và việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong quá trình dạy học
không phải là một vấn đề thực sự mới. Đã có rất nhiều bài viết, công trình

6


nghiên cứu về vấn đề này. Chúng ta có thể kể đến một số bài viết, công trình
nghiên cứu sau đây.
TS. Bạch Thị Lan Anh đã có bài viết Giới thiệu phương pháp dạy học theo
sơ đồ. Trong bài báo, tác giả đã đưa ra cách hiểu về sơ đồ hóa kiến thức.
Người viết cho rằng phương pháp dạy học theo sơ đồ hóa kiến thức là cách
thức hoạt động phối hợp thống nhất của người dạy và người học nhằm giúp
người học hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng liên quan đến nội dung,
nhiệm vụ dạy học dựa vào mô hình, sơ đồ của chúng. Đồng thời, tác giả đã
chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học theo sơ đồ hóa
kiến thức, hướng dẫn cách sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học như: sử
dụng sơ đồ trước khi lên lớp, sử dụng sơ đồ trong khi lên lớp, sử dụng sơ đồ
sau khi lên lớp và sử dụng sơ đồ trong quá trình ôn tập, tổng hợp kiến thức.
Tác giả Nguyễn Thị Ban ở bài viết Sử dụng Graph trong dạy học Ngữ văn
7 cũng đã đưa ra phương pháp sử dụng Graph vào các bài học cụ thể thuộc
phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn ở chương trình lớp 7 với nhiều gợi ý thú
vị về cách thức ứng dụng cho giáo viên và học sinh.
Trong bài viết Phương pháp dạy học Ngữ văn 6 theo dạng sơ đồ tóm tắt,
tác giả Trần Văn Huy đã đưa ra dạng sơ đồ tóm tắt cho một số bài học trong
chương trình Ngữ văn 6. Bài viết chia làm ba phần. Ở phần một tác giả trình
bày thực trạng dạy học Văn ở những lớp mình trực tiếp giảng dạy. Có thể thấy

chất lượng dạy học Văn còn thấp, tỉ lện học sinh học yếu môn Văn còn cao.
Sang phần hai, tác giả đưa ra giải pháp “dùng sơ đồ” trong quá trình giảng
dạy để nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn 6. Người viết đã trình bày một
số kinh nghiệm khi sử dụng sơ đồ ở một số bài cụ thể như: Ông lão đánh cá
và con cá vàng; Danh từ; Sự việc và nhân vật trong văn tự sự. Ở phần ba, tác
giả đã chứng minh kết quả của việc sử dụng “sơ đồ tóm tắt”: Học sinh có
hứng thú học tập, thời gian thực hành nhiều; Từ đó, các em yêu thích học môn

7


Ngữ văn hơn, chất lượng dạy học Văn cũng vì thế được nâng lên đáng kể, qua
các bài kiểm tra và thi định kì.
Với bài viết Sử dụng phương tiện hỗ trợ dạy học trong môn Ngữ văn
(Sáng kiến kinh nghiệm, dethi.violet.vn), tác giả Nguyễn Hải Sơn đưa ra
khái niệm về phương tiện dạy học. Sau đó, người viết đi sâu vào nghiên
cứu hiệu quả của việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong quá trình dạy học
Ngữ văn, đặc biệt là đối với giáo viên và học sinh trường THCS Cao Xanh.
Đây là một ngôi trường cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, các thiết bị
công nghệ thông tin sử dụng trong quá trình dạy học còn hạn chế. Vì thế,
sơ đồ, bảng biểu là phương tiện trực quan được sử dụng nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học môn Ngữ văn.
Tác giả Nguyễn Thị Xuân Mai trong bài viết Gợi ý sử dụng sơ đồ, bảng
biểu vào giảng dạy một số tiết Văn trong chương trình sách giáo khoa Ngữ
văn lớp 10 (Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ
thông Việt Nam) cũng đã đề cập đến việc sử dụng phương tiện trực quan tại
nhà trường phổ thông trong đó có sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học Ngữ
văn. Tác giả đã chỉ ra việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu mang lại hiệu quả trong
việc phát huy tính sáng tạo của học sinh, đặc biệt là đánh thức khả năng tư
duy của các em. Cuối bài, người viết đã đưa ra một số sơ đồ, bảng biểu có thể

áp dụng vào dạy học Ngữ văn 10 như: sơ đồ, bảng biểu cho bài khái quát; sơ
đồ, bảng biểu dùng cho dạy truyện; sơ đồ, bảng biểu dùng cho dạy thơ…
Ngoài ra, chúng ta phải kể đến những công trình nghiên cứu khác như:
Tác giả Nguyễn Thị Châu với bài viết Vận dụng bản đồ tư duy vào
giờ văn học sử ở THPT (bài khái quát văn học), Luận văn Thạc sĩ khoa
học, Chuyên ngành lí luận và phương pháp dạy học Văn, Đại học Sư phạm
Hà Nội.

8


Bài viết Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng lí thuyết Graph vào
dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường THPT, Chuyên đề giảng dạy Thạc sĩ, Đại
học Sư phạm Hà Nội của tác giả Nguyễn Quang Ninh.
Tác giả Nguyễn Thị Thanh, Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học văn
học sử ở nhà trường THPT, Luận văn Thạc sĩ khoa học, Chuyên ngành lí luận
và phương pháp dạy học Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tác giả Vũ Thị Hà với Sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học truyện
ngắn Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 11, Luận văn Thạc sĩ khoa
học, Chuyên ngành lí luận và phương pháp dạy học Văn, Đại học Sư phạm
Hà Nội.
Như vậy, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết về sơ
đồ, bảng biểu; sơ đồ tư duy, Graph và việc sử dụng các phương tiện trực
quan trong dạy học nói chung và dạy học Văn nói riêng. Tuy vậy các bài
viết thường tập trung vào hai dạng sơ đồ chính là Graph và bản đồ tư duy.
Ngoài ra, cũng có một vài bài quan tâm đến việc sử dụng bảng biểu vào
dạy học Ngữ văn. Phạm vi ứng dụng chủ yếu chưa phải là các bài dạy tác
phẩm văn chương.
Kết quả nghiên cứu trong các công trình trên là gợi ý quý báu để chúng
tôi đặt vấn đề nghiên cứu Xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy

học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 9.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Từ những tiền đề cơ sở lí luận và thực tiễn, đề tài nghiên cứu cách thức
xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào hoạt động dạy học các tác phẩm
truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 9.
Qua đó, giúp giáo viên và học sinh thực hiện tốt hoạt động dạy học, góp phần

9


nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở nhà trường THCS nói chung, dạy học
phần truyện ngắn Việt Nam hiện đại chương trình Ngữ văn 9 nói riêng.
3.2. Đối tượng
Đề tài tập trung nghiên cứu việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào quá trình
dạy học các truyện ngắn Việt Nam hiện đại ở chương trình sách giáo khoa
Ngữ văn 9.
3.3. Phạm vi
+ Các nghiên cứu về sơ đồ, bảng biểu và việc ứng dụng sơ đồ, bảng biểu
trong dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói riêng.
+ Các văn bản truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình sách
giáo khoa Ngữ văn 9 và quá trình dạy học các văn bản này ở THCS.
3.4. Nhiệm vụ
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung vào giải quyết một số nhiệm vụ sau:
+ Tìm hiểu, tổng hợp tài liệu, tiếp thu những ứng dụng về sơ đồ, bảng
biểu trong dạy học.
+ Khảo sát thực trạng sử dụng sơ đồ, bảng, biểu vào dạy học Ngữ văn và
dạy học phần truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 9.
+ Nghiên cứu đề xuất một số định hướng xây dựng và sử dụng sơ đồ,
bảng biểu trong quá trình dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong sách

giáo khoa Ngữ văn 9.
+ Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi của các đề
xuất đưa ra trong đề tài nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Chúng tôi sử dụng phương pháp
nghiên cứu lí thuyết để thu thập tư liệu, nghiên cứu lịch sử vấn đề, nghiên cứu

10


các tài liệu liên quan đến sơ đồ, bảng biểu trong dạy học và dạy học bộ môn
Ngữ văn nói chung, đặc biệt là dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong
sách giáo khoa Ngữ văn 9.
- Phương pháp thống kê, phân tích:
+ Nghiên cứu thực trạng sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học bộ môn
Ngữ văn.
+ Phân tích và vận dụng những vấn đề lí thuyết đã nghiên cứu vào thực tế
giảng dạy các truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 9.
+ Thống kê kết quả thực nghiệm để hỗ trợ cho việc đánh giá, nhận xét
tính khả thi của các định hướng đã đề xuất.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm; sau
đó thống kê kết quả thực nghiệm. Từ đó đánh giá những thành công và những
điều cần tiếp tục hoàn thiện của các đề xuất.
5. Giả thuyết khoa học
Sơ đồ, bảng biểu là một phương tiện trực quan có thể sử dụng hiệu quả
trong dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông nhằm tích cực hóa hoạt động
nhận thức, cảm thụ của học sinh. Nếu nghiên cứu tìm hiểu được những ưu
điểm, giới hạn, từ đó xây dựng để đưa vào sử dụng các sơ đồ, bảng biểu trong

dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại ở sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 sẽ
giúp giáo viên và học sinh có hứng thú, tích cực, chủ động, sáng tạo trong
hoạt động dạy học phần nội dung này; góp phần nâng cao chất lượng dạy học
bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông.
6. Đóng góp của luận văn
Với việc thực hiện đề tài:“Xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào
dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp
9”, chúng tôi đã:

11


- Bổ sung lí luận về việc sử dụng phương tiện trực quan nói chung, sử
dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng.
- Đề xuất một số định hướng để xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu
vào dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
- Hiện thực hóa các đề xuất vào giáo án thực nghiệm có thể ứng dụng
trong dạy học.
- Gợi mở hướng áp dụng của đề tài cho các nội dung khác trong chương
trình Ngữ văn ở nhà trường phổ thông.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm ba chương:
Chương I: Sơ đồ, bảng biểu và sơ đồ, bảng biểu trong dạy học Ngữ văn.
Chương II: Tổ chức xây dựng và sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học
truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 9.
Chương III: Thực nghiệm sư phạm.

12



B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN
1.1.

Sơ đồ, bảng biểu
1.1.1. Khái niệm và vai trò của sơ đồ, bảng biểu trong cuộc sống
1.1.1.1. Khái niệm
Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (Nhà xuất bản Đà Nẵng - 2009) đã

đưa ra khái niệm về sơ đồ và bảng biểu như sau:
- Sơ đồ là những hình vẽ quy ước có tính chất sơ lược nhằm mô tả đặc
trưng nào đó của đối tượng hay quá trình nào đó.
- Bảng biểu gồm: bảng và biểu. Trong đó, bảng thường có cột và hàng
dùng để kê một nội dung nào đó theo thứ tự, cách thức nhất định. Còn
biểu là bảng kê danh mục, số liệu để làm căn cứ đối chiếu.
Theo TS. Bạch Thị Lan Anh, sơ đồ hóa kiến thức là một trong những hình
thức trực quan của quá trình dạy học. Sơ đồ, mô hình là những hình ảnh có
tính biểu tượng được xây dựng trên các sự vật, các yếu tố trong cấu trúc sự
vật và mối liên hệ giữa các yếu tố đó dưới dạng trực quan cảm tính (quan sát
được, cảm nhận được). Sơ đồ tạo thành một tổ chức hình khối phản ánh cấu
trúc và logic bên trong của một khối lượng kiến thức một cách khái quát, súc
tích và trực quan cụ thể, nhằm giúp cho người học nắm vững một cách trực
tiếp, khái quát những nội dung cơ bản, đồng thời qua đó phát triển năng lực
nhận thức cho người học.[2;1]
Các khái niệm sơ đồ, bảng biểu ở trên được hiểu khá rộng, bao gồm nhiều
loại như: sơ đồ tư duy, bản đồ khái niệm, graph…Mỗi loại lại có những khái


13


niệm cụ thể riêng biệt. Ở đây chúng tôi không có ý định phân biệt hay đi sâu
tìm hiểu vào một loại nào.
Thực tế cho thấy, các khái niệm này được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả
ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề trong cuộc sống như: học tập, thuyết trình, kinh
doanh, chính trị, xã hội,… Chẳng hạn có thể sử dụng sơ đồ để xây dựng ý
tưởng cho cơ cấu tổ chức của một công ty, sơ đồ của một lớp học, sơ đồ thực
hiện một dự án kinh doanh; hay lập bảng kế hoạch một tháng, một tuần, một
ngày,… Chỉ một vài ví dụ cũng đã cho thấy sơ đồ, bảng biểu có một phạm vi
sử dụng khá rộng.
1.1.1.2. Những ưu điểm của sơ đồ, bảng biểu trong cuộc sống
Sở dĩ sơ đồ, bảng biểu có phạm vi sử dụng rộng, trước hết là do bản thân
công cụ này chứa đựng nhiều yếu tố ưu việt. Chúng ta có thể kể đến một số
ưu điểm sau:
1.1.1.2.1. Phát huy tiềm năng ghi nhớ của bộ não
Kiến thức được thể hiện dưới dạng sơ đồ bao giờ cũng ngắn gọn, cô
đọng, súc tích và có thể tri giác trực tiếp bằng các giác quan nên dễ dàng lưu
giữ trong trí nhớ và lưu giữ lâu hơn.
Các nhà tâm lí học đã chỉ ra mỗi giác quan của con người có khả năng
tri giác một khối lượng thông tin hoàn toàn khác nhau trong cùng một thời
gian như nhau. Khả năng truyền tin của thị giác là 3 triệu bis/s, của thính giác
là 30 - 50 nghìn bis/s. Như vậy khả năng truyền tin của thị giác gấp mười lần
thính giác. Vì thế nếu con người quan sát sự vật dưới dạng trực quan sinh
động thì thông tin có khả năng được lưu giữ nhanh hơn và lâu hơn. Họ còn
chỉ ra rằng bộ não của con người khó có thể lưu giữ, nhớ nội dung của một
bài học, một chương, một cuốn sách nhưng có thể ghi nhớ chính xác một sơ
đồ về nội dung của một bài học, một chương, thậm chí là cả cuốn sách dù sơ
đồ đó hết sức phức tạp.


14


1.1.1.2.2. Phát huy tiềm năng sáng tạo
Trước một vấn đề, mỗi đối tượng cá nhân sẽ có ý tưởng trình bày, thể
hiện dưới dạng sơ đồ, bảng biểu theo những cách khác nhau, không ai giống ai.
Sơ đồ, bảng biểu cho phép hình thành những ý tưởng mới. Nói cách
khác, sơ đồ, bảng biểu tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát huy tính sáng tạo
của bản thân. Cách thức thể hiện phản ánh mức độ thâm nhập, hiểu về đối
tượng và chứng tỏ khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Sự sáng tạo thể hiện
trước hết ở việc cá nhân lựa chọn vấn đề trung tâm và xác lập cho chúng
những mối liên hệ theo ý đồ riêng của mình. Để có được một sơ đồ, bảng
biểu, đòi hỏi người tạo lập phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng phong
phú của bản thân một cách tối đa, tạo cho đối tượng những mối liên hệ, những
sự liên kết chặt chẽ và bản chất nhất. Có thể nói, sơ đồ, bảng biểu là sản phẩm
sáng tạo của mỗi cá nhân. Họ xây dựng sơ đồ, bảng biểu theo những cách
riêng để phục vụ nhu cầu của cá nhân mình.
1.1.1.2.3. Tiết kiệm thời gian và công sức
Sơ đồ, bảng biểu tận dụng tối đa những từ khóa và những hình vẽ sinh
động, sáng tạo. Một khối lượng kiến thức lớn, phong phú, thậm chí lên tới vài
chục trang giấy vẫn có thể cấu trúc lại bằng một sơ đồ, một bảng biểu hết sức
ngắn gọn, cô đọng, súc tích mà không bỏ sót bất cứ thông tin quan trọng nào.
Tất cả những thông tin cơ bản, cốt lõi, cần thiết vẫn được giữ nguyên đến
những nội dung nhỏ. Nhìn vào sơ đồ, bảng biểu, chúng ta tái hiện được toàn
bộ những nội dung liên quan đến đối tượng, dễ dàng xâu chuỗi các dấu hiệu
bản chất của đối tượng. Khi cần tái hiện không cần phải mất nhiều thời gian
và công sức để tìm hiểu, mà chỉ cần sử dụng một sơ đồ, bảng biểu thể hiện
toàn bộ kiến thức một cách nhanh chóng, đầy đủ và chính xác. Việc sử dụng
sơ đồ, bảng biểu sẽ giúp con người tiết kiệm thời gian và công sức mà hiệu

quả lại không hề giảm sút.

15


1.1.1.2.4. Cung cấp bức tranh tổng thể
Tất cả mọi thông tin về đối tượng, sự vật đều có thể phản ánh trên sơ
đồ trong những mối liên hệ với nhau. Quan sát sơ đồ, chúng ta phát hiện ra
toàn bộ những vấn đề liên quan đến đối tượng. Bắt đầu từ những kiến thức
tổng quát, trọng tâm đến những nội dung nhỏ nhất. Bất kì ai nhìn vào bức
tranh tổng thể này cũng có thể nắm được những nét chính tổng quát nhất về
đối tượng.
Sơ đồ, bảng biểu không những cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng thể
về đối tượng mà còn có cách thức nhìn nhận đa chiều về mọi mặt của vấn đề.
Đặc biệt nhìn vào sơ đồ còn giúp chúng ta nhận ra những mối liên hệ, sự
ràng buộc, chi phối, liên quan của các nội dung tới nhau. Từ đó, chúng ta
xác định được đâu là vấn đề trung tâm, dấu hiệu bản chất, đâu là ý chính, ý
phụ,…để sắp xếp thời gian cho công việc và học tập một cách khoa học, hợp
lí và hiệu quả.
Như vậy với tất cả những lợi ích mà sơ đồ, bảng biểu đem lại, chúng ta
có thể nhận thấy đây là một công cụ có nhiều ưu điểm. Nhờ vào những ưu
điểm vượt trội này mà sơ đồ, bảng biểu được sử dụng rộng rãi ở mọi lĩnh vực,
ngành nghề trong cuộc sống.
Trong giáo dục, việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào quá trình giảng dạy
và học tập có tác dụng tích cực trong việc nâng cao tính chủ động, khả năng
tự học, tự tìm hiểu, khám phá của học sinh, kích thích tư duy sáng tạo, giúp
các em có những cách học hiệu quả. Đồng thời, khi sử dụng sơ đồ, bảng biểu
trong quá trình giảng dạy sẽ làm tăng tính linh hoạt, sáng tạo của giáo viên.
Sơ đồ, bảng biểu là những công cụ ghi chép bài tối ưu vì nó thường dùng
những từ khoá ngắn gọn để diễn đạt, triển khai nội dung vấn đề. Quan trọng

hơn là sơ đồ, bảng biểu kích thích sự hoạt động của các giác quan, giúp cho
việc ghi nhớ, liên tưởng, sáng tạo đạt hiệu quả.

16


Như vậy, có thể khẳng định sơ đồ, bảng biểu là phương tiện trực quan có
nhiều ưu thế trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh. Sử dụng đúng cách trong giảng dạy và học tập sẽ góp phần giải phóng
những năng lực tiềm ẩn trong bản thân mỗi cá nhân và chắc chắn sẽ tạo ra
những chuyển biến tích cực của người dạy và người học.
1.1.2. Sơ đồ, bảng biểu là một phương tiện trực quan trong dạy học
1.1.2.1. Phương tiện trực quan trong dạy học
Có rất nhiều quan niệm từ xưa đến nay về phương tiện trực quan.
Quan niệm truyền thống: Vấn đề trực quan đã có từ ngàn xưa trong
lịch sử triết học cổ đại và đạt đến đỉnh cao trong quan niệm của các nhà dạy
học sư phạm như: Comenxki (1792 - 1870), Rutxo (1712 - 1778), Betalozi
(1746 - 1827)…Theo quan niệm này, trực quan có nghĩa là chủ thể sử dụng
một hay nhiều giác quan để quan sát, từ đó tạo ra các hình ảnh bên ngoài của
đối tượng nhận thức. Công thức chung là quan sát trực tiếp đối tượng để tạo
ra hình ảnh cảm tính về chúng đến khái quát hoá (trừu tượng hoá) các hình
ảnh đó trở thành biểu tượng chung (tức là khái niệm về một lớp các biểu
tượng cùng loại được xét theo những tiêu chí nhất định). Quan niệm này được
hình thành dựa trên hai cơ sở chủ yếu là xã hội và triết học.
Mặc dù mang tính duy cảm nhưng quan niệm về trực quan và phương tiện
trực quan theo quan niệm truyền thống là một tiến bộ so với dạy học kinh
nghiệm trước đây. Theo đó học tập bắt đầu từ việc quan sát bên ngoài. Thông
qua quan sát người học thu được những bằng chứng về sự vật, hiện tượng, tạo
niềm tin đối với tri thức được truyền thụ, chống lại lối dạy học giáo điều theo
kiểu nhồi nhét tri thức cho người học.

Quan niệm hiện đại: theo quan niệm hiện đại thì phương tiện trực
quan gắn liền với triết học, triết học biện chứng và tâm lí học hiện đại. Lúc
này phương tiện trực quan đã được hiểu theo đúng nghĩa của nó. Phương tiện

17


trực quan không đơn giản là quan sát sự vật bằng các giác quan mà bằng
những hành động tác động lên sự vật làm biến đổi các dấu hiệu bên ngoài của
chúng, làm cho cái bản chất, các mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của
chúng được bộc lộ, được phơi bày một cách cảm tính mà nếu không có sự tác
động đó thì chúng mãi còn là bí ẩn đối với nhận thức của con người. Quan
niệm về trực quan như vậy có ý nghĩa to lớn với hoạt động dạy học. Nó chính
là cơ sở để xác định vai trò trực quan trong dạy học.
Từ hai quan niệm truyền thống và hiện đại, chúng ta có thể hiểu về
phương tiện trực quan như sau: Phương tiện trực quan là những phương
tiện được sử dụng trong hoạt động dạy và học, có vai trò là công cụ để
người giáo viên tác động vào đối tượng; có chức năng khơi dậy, dẫn
truyền, làm tăng khả năng hoạt động của các giác quan, góp phần tạo nên
chất liệu cảm tính của đối tượng nhận thức nhằm đạt được các mục đích
dạy học cụ thể.[18;118]
Nói cách khác, có thể hiểu phương tiện trực quan như những phương
tiện trung gian để chủ thể có hình ảnh trực quan về đối tượng. Chẳng hạn
như trong trường hợp sự vật quá nhỏ, sự vật quá xa, chủ thể khó quan sát
được, hay những sự vật trừu tượng, khó hiểu không trực tiếp cảm nhận được
thì chủ thể tìm đến với những phương tiện trung gian. Thông qua việc tìm
hiểu những phương tiện trung gian mà chủ thể có những hình ảnh trực quan
nhất về đối tượng. Quá trình chiếm lĩnh và nhận thức đối tượng trở nên dễ
dàng và hiệu quả hơn.
Trong quá trình dạy học, việc sử dụng các phương tiện trực quan cần

phải chú ý đến chức năng của nó đối với mục đích và nội dung dạy học. Mỗi
phương tiện trực quan trong những bài dạy nhất định sẽ có vị trí và chức năng
khác nhau, sẽ có một cách sử dụng phù hợp với chức năng và nội dung của
nó. Do đó làm cho hiệu quả của hoạt động dạy học được nâng cao.

18


Chẳng hạn như ta sử dụng phương tiện trực quan là bức tranh về Vịnh
Hạ Long (phương tiện hình ảnh) trong những tình huống dạy học khác nhau:
Trường hợp thứ nhất: Giáo viên sử dụng bức tranh Vịnh Hạ Long để
giới thiệu với học sinh vẻ đẹp của một kì quan thiên nhiên thế giới, niềm tự
hào của người dân Quảng Ninh, người dân Việt Nam với bạn bè thế giới.
Trong trường hợp này, bức tranh Vịnh Hạ Long là trực quan thay thế.
Trường hợp thứ hai: Giáo viên sử dụng bức tranh Vịnh Hạ Long để
dạy học sinh kiến thức địa lí về khái niệm “ Vịnh”. Vì vậy, bức tranh có tác
dụng gợi dẫn đến khái niệm này, để từ đó giáo viên cung cấp kiến thức “thế
nào là Vịnh?”. Ở trường hợp này, bức tranh là trực quan dẫn…
Qua ví dụ trên, chúng ta có thể thấy chức năng của các phương tiện trực
quan có thể chuyển hoá cho nhau trong các tình huống dạy học cụ thể. Do
vậy, việc hướng dẫn học sinh sử dụng các phương tiện trực quan cần vô cùng
linh hoạt. Nó không phụ thuộc vào đặc tính vật lí làm ra phương tiện trực
quan mà phụ thuộc vào chức năng của chúng. Nhiệm vụ của người giáo viên
là làm sao phải xác định được mục đích và chức năng của các phương tiện
trực quan trong các tình huống dạy học cụ thể; trên cơ sở đó, hướng dẫn, tổ
chức học sinh sử dụng phương tiện trực quan sao cho phù hợp và có kết quả.
1.1.2.2. Những đặc điểm của sơ đồ, bảng biểu - một phương tiện
dạy học trực quan
Tác giả Phan Trọng Ngọ trong cuốn Dạy học và phương pháp dạy học
trong nhà trường cho rằng sơ đồ, bảng biểu là những mô hình vật chất hoá có

khả năng thay thế cho đối tượng, sự vật hiện tượng nào đó. Việc tìm hiểu sơ
đồ, bảng biểu sẽ cung cấp những thông tin mới về đối tượng mà nó thay thế.
Sơ đồ, bảng biểu với tư cách là một mô hình vật chất hoá sẽ có những
đặc điểm riêng biệt. Chúng ta có thể kể đến một số đặc điểm cơ bản như:

19


- Sơ đồ, bảng biểu bao giờ cũng là một vật đại diện cho cái gì, cho hiện
tượng nào. Nói đến sơ đồ, bảng biểu phải biết sơ đồ của cái gì, của sự vật
hiện tượng nào. Chẳng hạn ta có sơ đồ mạch điện trong môn Vật lí; sơ đồ
phân tử, nguyên tử trong môn Hoá học; sơ đồ tóm tắt cốt truyện, sơ đồ thể
hiện tình huống truyện, sơ đồ thể hiện tính cách nhân vật trong môn Ngữ
văn. Xác định đối tượng cho sơ đồ, bảng biểu là một việc làm cần thiết trong
quá trình dạy học. Xác định đối tượng sẽ định hướng học sinh vào quá trình
tìm kiếm, lựa chọn những chi tiết, dấu hiệu liên quan đến đối tượng, từ đó
làm nổi bật đối tượng.
- Sơ đồ, bảng biểu bao giờ cũng phản ảnh những dấu hiệu bản chất, các
quan hệ có tính phổ biến, quy luật của sự vật mà nó đại diện. Vì thế, qua sơ
đồ, bảng biểu chúng ta không chỉ có cái nhìn tổng thể của đối tượng mà còn
xác định được những dấu hiệu bản chất của chúng. Trong quá trình dạy học,
sử dụng sơ đồ, bảng biểu sẽ cung cấp cho học sinh cái nhìn tổng quát về đối
tượng. Học sinh nắm được những nét chung, nét khái quát nhất về đối tượng
nhưng không dừng lại ở đó, sơ đồ, bảng biểu còn giúp người học cách thức
nhìn nhận đa chiều về vấn đề, tìm ra sự liên kết, ràng buộc những phương tiện
với nhau. Hay nói cách khác, các em sẽ tìm ra được những dấu hiệu bản chất
nhất của đối tượng, xác định được ý chính, ý phụ, những ý nào quan trọng cần
xoáy sâu. Từ đó, các em sắp xếp thời gian học tập để có kết quả cao.
- Sơ đồ, bảng biểu bao giờ cũng có tính trực quan về đối tượng mà nó đại
diện. Nói cách khác, sơ đồ, bảng biểu bao giờ cũng phản ánh một cách trực

quan các dấu hiệu bản chất của đối tượng mà nó đại diện. Đây là đặc trưng
điển hình của sơ đồ, bảng biểu trong quá trình dạy học và là ưu thế nổi trội
của nó trong nhận thức. Tuy nhiên, sơ đồ, bảng biểu không phải là vật đại
diện hoàn toàn cho một đối tượng hay một sự vật nào đó, mà chỉ là sự phản
ánh những dấu hiệu nhất định của nó làm cho dấu hiệu bản chất trở nên trực

20


quan trước người học. Giáo viên sử dụng sơ đồ, bảng biểu khi đối tượng học
tập, đối tượng nhận thức ở dưới dạng trừu tượng, học sinh khó tiếp thu. Việc
sử dụng sơ đồ, bảng biểu khiến cho sự vật bộc lộ một cách trực quan. Học
sinh dễ dàng nhận thức, từ đó mà việc tìm hiểu đối tượng trở nên thuận lợi và
hiệu quả hơn.
Sơ đồ, bảng biểu cũng như các phương tiện dạy học khác luôn là những
công cụ trợ giúp, chuyển tải nội dung. Sơ đồ, bảng biểu tạo ra sự chú ý, cải
thiện khả năng ghi nhớ, mức độ tiếp thu của học sinh. Nó không thể quyết
định toàn bộ chất lượng giảng dạy mà chỉ hỗ trợ thể hiện nội dung của bài
học. Tự nó không thể là nội dung. Giáo viên phải là người kết nối khả năng
giao tiếp về nội dung và sơ đồ, bảng biểu để mang lại hiệu quả tối ưu cho
giờ dạy.
Trong thực tế giảng dạy, rất nhiều giáo viên đã coi việc sử dụng sơ đồ,
bảng biểu thay thế hoàn toàn cho việc tìm hiểu nội dung bài học. Cho nên chỉ
cần tìm hiểu, hoàn thành sơ đồ, bảng biểu là đủ, là xong. Việc làm này khiến
học sinh hiểu về đối tượng một cách giản đơn. Do vậy, người giáo viên cần
phải có sự phân biệt rõ ràng giữa nội dung và phương tiện. Nội dung cần
chiếm lĩnh ở đây không phải là các sơ đồ, bảng biểu mà là sự vật hiện tượng,
trong đó sơ đồ, bảng biểu chỉ là những đại diện. Sơ đồ, bảng biểu giúp đối
tượng bộc lộ trực quan, học sinh dễ dàng quan sát và tìm kiếm tri thức. Nhận
thức tốt đặc trưng này thì việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu mới mang lại hiệu

quả tích cực.
- Sơ đồ, bảng biểu được tạo ra không phải sự lắp ghép, sự sắp xếp giản đơn
các dấu hiệu quan sát từ đối tượng sự vật mà là kết quả của một quá trình tìm
hiểu, phân tích, phát hiện ra những dấu hiệu bản chất của sự vật và xác lập
cho chúng mối liên hệ bản chất nhất để cấu trúc lại thành một sơ đồ.

21


Trong quá trình dạy học, nhận thức rõ đặc trưng này của sơ đồ, bảng biểu
sẽ giúp người giáo viên phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh. Tính sáng tạo của các em thể hiện trong việc lựa chọn dấu hiệu của
đối tượng và xác lập cho chúng những mối liên hệ bản chất nhất. Mỗi học
sinh sẽ có những cách triển khai khác nhau và không em nào giống em nào.
Cách thức thể hiện của học sinh có thể giúp giáo viên vừa đánh giá được mức
độ hiểu bài, vừa nhận thức được khả năng sáng tạo của các em. Chính vì vậy
mà sơ đồ, bảng biểu được xem như một phương tiện trực quan có nhiều lợi
thế trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Do vậy,
cần sử dụng phương tiện trực quan này ở tất cả các môn học trong nhà trường.
Sơ đồ, bảng biểu là những phương tiện trực quan có nhiều ưu thế trong
quá trình dạy học. Sử dụng thành thạo và có hiệu quả sơ đồ, bảng biểu sẽ
mang lại thay đổi tích cực trong phương thức học tập của học sinh và
phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ có được những phương
pháp học tập mới, tăng tính chủ động, tích cực, sáng tạo và phát triển tư duy.
Giáo viên sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức, tăng tính linh hoạt
trong bài giảng và quan trọng hơn là giúp học sinh nắm được kiến thức trọng
tâm của bài học thông qua những sơ đồ, bảng biểu thể hiện các mối liên hệ
bản chất của tri thức.
1.2.


Sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học Ngữ văn
1.2.1. Thực trạng sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học Ngữ văn
Về việc chọn mẫu: Chúng tôi tiến hành khảo sát: việc sử dụng sơ đồ, bảng

biểu trong dạy học Ngữ văn ở lớp 9, từ đó có cái nhìn tổng quát về thực trạng
sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong dạy học Ngữ văn. Việc khảo sát của chúng tôi
dựa trên một số cơ sở:
- Thống kê số lượng sơ đồ, bảng biểu được sử dụng trong cuốn sách: Sách
giáo viên, sách thiết kế bài giảng.

22


- Thống kê số lượng sơ đồ, bảng biểu trong một số giáo án của giáo viên.
- Khảo sát tình hình sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong quá trình dạy học Ngữ
văn ở nhà trường THCS thông qua việc dự giờ một số tiết dạy của giáo
viên.
Sách giáo viên và các sách thiết kế bài giảng luôn là người bạn đồng hành
của người giáo viên. Những cuốn sách không những giúp giáo viên về mặt nôi
dung trong quá trình soạn giáo án mà còn định hướng về mặt tổ chức và xây
dựng bài học. Mỗi cuốn sách đều có định hướng về phương pháp, phương tiện
dạy học trong từng bài dạy cụ thể để giáo viên có thể tham khảo và vận dụng.
Vì thế để biết được thực trạng sử dụng sơ đồ, bảng biểu vào dạy học Ngữ văn
thì cần thiết phải khảo sát tình hình sử dụng sơ đồ, bảng biểu ở trong những
cuốn sách này. Ở đây, chúng tôi tiến hành thống kê số lượng sơ đồ, bảng biểu
trong các cuốn sách như: Sách giáo viên Ngữ văn 9, sách Thiết kế bài bài giảng
Ngữ văn 9 của tác giả Nguyễn Văn Đường. Sau đây là kết quả thống kê:
BẢNG THỐNG KÊ VIỆC SỬ DỤNG SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
( Nguồn: Sách giáo viên, sách Thiết kế bài học Ngữ văn lớp 9, tập 1, 2)
Tên sách

Sách giáo viên tập 1
Sách giáo viên tập 2
Thiết kế bài học tập 1
Thiết kế bài học tập 2

Số lượng

Văn bản

Văn bản khác

8
6
12
22

văn chương
1
3
5
7

7
3
7
15

Bên cạnh đó, chúng tôi còn tiến hành thống kê việc sử dụng sơ đồ bảng biểu
trong ba bộ giáo án dạy học Ngữ văn 9 của giáo viên. Đây là những giáo án
của các giáo viên có trình độ, kinh nghiệm giảng dạy, là giáo viên dạy giỏi

của thành phố Hạ Long và tỉnh Quảng Ninh.
BẢNG THỐNG KÊ VIỆC SỬ DỤNG SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
( Nguồn: giáo án của giáo viên)

23


Số lượng sơ đồ, bảng biểu được sử
Vũ Thị
1
2
3

Thái Hồng
Phong cách Hồ Chí Minh
1
Các phương châm hội thoại
1
Sử dụng một số biện pháp
1

dụng
Nguyễn Thị

Nguyễn Thị

Thủy

Yên
0

1
1

1
1
1

nghệ thuật trong văn bản
4

thuyết minh
Đấu tranh cho một thế giới

1

1

1

5

hòa bình
Sử dụng yếu tố miêu tả

0

0

0


6

trong văn bản thuyết minh
Tuyên bố thế giới về sự

1

2

2

7
8

vệ và phát triển của trẻ em
Xưng hô trong hội thoại
Chuyện người con gái Nam

0
1

0
0

1
2

9

Xương

Cách dẫn trực tiếp và cách

1

1

1

10
11

dẫn gián tiếp
Sự phát triển của từ vựng
Luyện tập tóm tắt văn bản

1
1

1
1

1
2

12

tự sự
Chuyện cũ trong phủ Chúa

0


1

0

13

Trịnh
Hồi thứ mười bốn (Hoàng

1

1

2

14
15
16

Lê nhất thống chí)
Truyện Kiều
Trau dồi vốn từ
Lục Vân Tiên cứu Kiều

2
0
0

1

0
0

3
0
0

17

Nguyệt Nga
Miêu tả nội tâm trong văn

1

0

0

sống còn, quyền được bảo

24


18
19
20

bản tự sự
Tổng kết từ vựng
Đồng chí

Bài thơ về tiểu đội xe

5
1
0

4
1
0

5
1
0

21

không kính
Nghị luận trong văn bản tự

0

0

0

22
23
24
25


sự
Đoàn thuyền đánh cá
Bếp lửa
Tập làm thơ tám chữ
Khúc hát ru những em bé

0
0
1
0

0
0
0
0

0
0
1
0

26
27
28

lớn trên lưng mẹ
Ánh trăng
Làng
Đối thoại, độc thoại và độc


1
1
1

0
0
1

1
1
1

29
30
31

tự sự
Lặng lẽ Sa Pa
Ôn tập phần Tiếng Việt
Người kể chuyện trong văn

0
2
0

0
2
0

0

2
0

32
33
34
35
36
37
38
39

bản tự sự
Chiếc lược ngà
Cố hương
Bàn về đọc sách
Khởi ngữ
Phép phân tích và tổng hợp
Tiếng nói của văn nghệ
Các thành phần biệt lập
Nghị luận về một sự việc,

1
0
1
0
1
2
2
0


1
1
1
0
1
1
2
0

1
1
1
0
1
3
2
0

40

hiện tượng đời sống
Cách làm bài nghị luận về

1

1

2


2

1

1

thoại nội tâm trong văn bản

một sự việc, hiện tượng đời
41

sống
Chuẩn bị hành trang vào
thế kỉ mới
25


×