Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận môn: Lịch sử xã hội học: Tư tưởng xã hội học cơ bản của Karl Marx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.94 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN MÔN: LỊCH SỬ XÃ HỘI HỌC
TƯ TƯỞNG XÃ HỘI HỌC CƠ BẢN CỦA KARL MARX
(1818 – 1883)
Nhóm thực hiện: Nhóm 2
Lớp: Nhân Văn 5 và Văn bằng 2
MỞ ĐẦU
Lịch sử xã hội học là lịch sử của các lý thuyết xã hội học đấu tranh với
nhau, cạnh tranh và bổ sung lẫn nhau trong việc giải quyết những vấn đề mà
cuộc sống thực của con người luôn đặt ra trước xã hội học. Trong tiến trình
phát triển xã hội loài người, như Engels từng nhận xét, luôn xuất hiện những
con người khổng lồ biết phát hiện vấn đề và đưa ra câu trả lời cho những câu
hỏi lớn của thời đại. Sự kiện như vậy cũng xảy ra trong suốt chiều dài lịch sử
xã hội học.
Tư tưởng xã hội học đã xuất hiện trong các tác phẩm của các nhà hiền
triết phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, khoa học xã hội học mới có
chiều dài lịch sử hơn một thế kỷ rưỡi kể từ khi Auguste Comte - nhà triết học
thực chứng, nhà xã hội học người Pháp - lần đầu tiên, vào khoảng năm 1838
- 1839, sử dụng thuật ngữ xã hội học (Sociologie) để chỉ một lĩnh vực nghiên
cứu chuyên về sự tổ chức và sự biến đổi xã hội loài người.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các học thuyết xã hội học thành một dòng
chảy suốt chiều dài lịch sử phát triển xã hội là vấn đề cơ bản có tính triết học
của nó. Đó là vấn đề mối quan hệ giữa con người và xã hội: con người đã tác
động tới xã hội như thế nào và xã hội có ảnh hưởng như thế nào tới con
người.
Người đã kế thừa và phát triển tất cả những gì tốt đẹp nhất về mặt tư
tưởng và nhận thức mà loài người đã tạo ra từ trước cho đến khoảng giữa
thế kỷ XIX để đưa ra một học thuyết chính xác, vạn năng cho khoa học xã hội
học là Karl Marx. Ngày nay, xã hội học ngày càng khẳng định vị trí và tầm


quan trọng của mình trong công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở


Việt Nam. Do đó, việc tìm hiểu tư tưởng của các nhà xã hội học - đặc biệt là
Karl Marx ngày càng có ý nghĩa thiết thực.
Đối với nhân dân Việt Nam và tất cả các dân tộc tiến bộ trên thế giới,
chủ nghĩa Marx là chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất. Học thuyết
của Marx nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp mà ở đó, "sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người" mãi mãi là ngọn
đuốc sáng ngời dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân loại giải phóng mình khỏi
ách áp bức và bóc lột tiến lên xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Jacques
Derida thừa nhận rằng sẽ luôn là một sai lầm, nếu không đọc đi đọc lại những
tác phẩm của Marx và sẽ "không có tương lai mà lại không có Marx".
Với kiến thức còn hạn chế và lượng thời gian cho phép, bài viết chắc
chắn sẽ chưa sâu sắc và không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp
ý chân tình của thầy để bài viết của em hoàn chỉnh hơn.

NỘI DUNG

1. Khái quát bối cảnh lịch sử - xã hội thế giới những thập kỷ đầu
của thế kỷ
1.1. Điều kiện lịch sử và những tiền đề ra đời chủ nghĩa Marx
Tư tưởng của Karl Marx ra đời trong điều kiện lịch sử giữa thế kỷ XIX.
Nó là kết quả tất yếu của sự phát triển tư tưởng và sự phát triển của khoa học
nói chung, trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế- xã hội của thế kỷ
XIX.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã thống trị ở Anh, Pháp và ở cả Đức. Nước Anh đã hoàn thành cuộc
cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc lớn nhất. Nước Pháp, cuộc
cách mạng công nghiệp đang vào giai đoạn hoàn thành. Ở Đức, cách mạng
công nghiệp cũng làm cho nền kinh tế nước này phát triển mạnh.



Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn xã hội càng gay
gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt. Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là: một bên là tính chất xã
hội hóa và trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa và
một bên là quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Ở thời kỳ này, phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai cấp vô
sản ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Tiêu biểu là: phong trào Hiến chương
Anh, cuộc khởi nghĩa của công nhân Liông (1831) ở Pháp, cuộc khởi nghĩa
của thợ dệt Xilêdi (1844) ở Đức.
Những vấn đề của thời đại do sự phát triển chủ nghĩa tư bản đặt ra
được phản ánh bởi tư duy lý luận từ những lập trường giai cấp khác nhau,
hình thành nên những học thuyết với tính cách là một hệ thống những quan
điểm lý luận về triết học, kinh tế và chính trị xã hội khác nhau. Sự lý giải về
những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản đương thời, về sự cần thiết phải thay
thế nó bằng một xã hội tốt đẹp, thực hiện sự bình đẳng xã hội theo những lập
trường giai cấp đã sản sinh ra nhiều biến tướng của chủ nghĩa xã hội như.
"chủ nghĩa xã hội phong kiến", "chủ nghĩa xã hội tư sản", "chủ nghĩa xã hội
tiểu tư sản"... Do vậy, muốn khái quát được tiến trình lịch sử và xác minh một
cách khoa học con đường phát triển tiếp theo của xã hội, cần phải tiến hành
một công tác nghiên cứa khoa học lớn, phải dựa vào tất cả những thành tựu
của tư tưởng khoa học trước đó. Để làm được nhiệm vụ đó, K.Marx và
F.Engels đã kế thừa những thành tựu lớn lao của tư tưởng loài người: triết
học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Anh, kinh tế chính trị cổ điển
Đức.
Ý nghĩa lịch sử nổi bật của triết học cổ điển Đức là ở chỗ, nó là một
trong những tiền đề lý luận cho việc hình thành thế giới quan biện chứng. Ở
đây, phải kể đến phép biện chứng Hegel và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc.
Karl Marx đã kế thừa "hạt nhân hợp lý" của Hegel bằng cách cải tạo, lột bỏ
cái vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận mới của phép biện chứng - phép biện



chứng duy vật, đồng thời cải tạo chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Từ đó, Karl
Marx đưa ra một lý luận mới mà trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu
xuất sắc nhất là A.Smith và Đ.Ricardo là nguồn gốc không thể thiếu được
trong việc hình thành tư tưởng của Karl Marx. Chính việc nghiên cứu những
vấn đề triết học về xã hội đã khiến Karl Marx phải đi vào nghiên cứu kinh tế và
nhờ đó mới có thể đi tới hoàn thành chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời xây
dựng nên học thuyết kinh tế của mình.
Việc cải tạo có tính chất sáng tạo các học thuyết xã hội chủ nghĩa, đặc
biệt là chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với các đại biểu nổi tiếng là Saint
Simon, S. Fourier, R.Owen cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình
thành tư tưởng Marx, đặc biệt là quan điểm duy vật về lịch sử và những dự
báo về tương lai cộng sản chủ nghĩa.
Ngoài ra, những thành tựu của khoa học tự nhiên cũng là tiền đề cho ra
đời tư tưởng của Marx. Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự
nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng. Trong đó, phải kể đến
ba phát minh có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành chủ nghĩa duy
vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào
và thuyết tiến hóa của Đácuyn. Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra
mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận
động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện
chứng của sự vận động và phát triển của nó. Những điều kiện lịch sử, những
tiền đề kinh tế - xã hội, lý luận và khoa học đó có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với sự ra đời của chủ nghĩa Marx. Và cũng chính thời đại đó đã sinh
ra những thiên tài có khả năng khái quát toàn bộ lịch sử phát triển nhân loại,
bao gồm cả lịch sử các tư tưởng triết học, kinh tế học và xã hội học, cả lịch
sử các khoa học tự nhiên, khái quát được những kinh nghiệm lịch sử và trả

lời đúng đắn những câu hỏi mà thời đại đặt ra. Thiên tài tiêu biểu đó là Karl
Marx.


1.2. Tiểu sử Karl Marx (1818 - 1883)
Các Mác (Karl Marx) - một trong những vĩ nhân kiệt xuất của lịch sử
nhân loại, Người sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học, nhà triết học, nhà
kinh tế học lỗi, lạc lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản toàn thế giới. Marx sinh
ngày 5 tháng Năm năm 1818 ở thành phố Tơrevơ tỉnh Ranh của nước Đức
(phía Tây nước Đức) trong một gia đình trí thức lớn. Cha của Marx là Henrích
Mác (1777 - 1838), luật sư gốc Do Thái, có tầm hiểu biết sâu rộng về các tác
phẩm của các nhà khai sáng. Ông không những là người cha, người thầy mà
còn là người bạn thân thiết của Karl Marx. Mẹ của Karl Marx có tên là
Henriétta Phrétbuốc (1787 - 1863). Bà có ảnh hưởng lớn đến tình cảm của
các con mình đối với những người lao động nghèo khổ.
Năm 1830, Marx vào học trường trung học Tơria. Cậu học rất giỏi và
nổi bật ở lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo, có năng lực về toán học. Do
được tiếp xúc với những người thầy có trình độ cao về chuyên môn, theo chủ
nghĩa duy vật và có xu hướng tự do nên Marx đã tỏ rõ tư tưởng biết gắn hạnh
phúc của mình với hạnh phúc của nhiều người. Bản luận văn tốt nghiệp
trường Trung học của Marx "Suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề"
(1835) đã chứa đựng mầm mống thiên tài của chủ nghĩa nhân văn cao cả.
Tháng Mười năm 1835, Marx vào học ngành luật tại trường Đại học
Tổng hợp Bonn và sau đó học tại trường Đại học Tổng hợp Béclin. Ở đây,
Marx bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học, sử học và rất hăng say học ngoại
ngữ. Ngày 15 tháng Tư năm 1841, Karl Marx được phong học vị tiến sĩ triết
học khi mới ở tuổi 23, với đề tài: "Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của
Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Epiquya" tại trường Đại học Tổng hợp
Iêna.
Ngày 19 tháng 6 năm 1843, lễ thành hôn giữa Marx và Gienny được tổ

chức tại Croixnác, bất chấp sự phản đối kịch liệt của họ tộc Gienny. Cuối năm
đó vợ chồng Marx phải đi Paris và bắt đầu cuộc sống lưu vong chính trị ở
nước ngoài.


Lần đầu tiên Karl Marx gặp Ph.Engels tại Paris vào cuối tháng 11 năm
1842. Lần gặp gỡ thứ hai vào tháng Tám năm 1844 đã đánh dấu sự hợp tác
lâu dài suốt cả cuộc đời giữa hai bộ óc bách khoa và thiên tài của thế kỷ XIX.
Trong thời gian làm chủ bút “Nhật báo tỉnh Ranh” (1842 - 1843), Marx
đã chuyển dần từ lập trường duy tâm sang lập trường duy vật, từ chủ nghĩa
dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Năm 1844, ông viết tác phẩm
"Phê phán triết học pháp quyền của Hegels". Trong tác phẩm này, lần đầu
tiên Marx đã tuyên bố: giai cấp có thể thực hiện giải phóng toàn thể nhân loại
chỉ có thể là giai cấp vô sản. Những tư tưởng về kinh tế và những quan niệm
duy vật về lịch sử rất cơ bản và sâu sắc được trình bày trong tác phẩm "Bản
thảo kinh tế - triết học năm 1844” về sau được ông phát triển trong bộ "Tư
bản". Mùa xuân năm 1846, Marx và Engel đã viết chung hai tác phẩm: "Gia
đình thần thánh hay là Phê phán sự phê phán có tính chất phê phán. Chống
Brunô và đồng bọn" và "Hệ tư tưởng Đức", phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy
tâm chủ quan của phái Hegels trẻ và toàn bộ chủ nghĩa duy tâm, cũng như
chủ nghĩa duy vật không triệt để của Phoiơbắc, khẳng định vai trò quyết định
sự phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân.
Mùa xuân năm 1847, Marx và Engels gia nhập Hội đồng minh những
người cộng sản. Cuối năm đó cho đến năm 1848, hai ông được giao soạn
thảo Cương lĩnh hoạt động của tổ chức này. Bản "Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản" được soạn vào tháng 2 năm 1848 ở Luân Đôn đã làm rung chuyển chế
độ tư bản chủ nghĩa. Lời hiệu triệu "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại" đã
làm cho sức mạnh tinh thần của giai cấp vô sản tăng lên gấp bội. Kể từ lúc
này, giai cấp vô sản đã tìm thấy sức mạnh tinh thần ở triết học và triết học đã
tìm thấy ở giai cấp vô sản lực lượng vật chất của mình. Tác phẩm này là một

cương lĩnh của chủ nghĩa Marx và đảng vô sản, nó soi sáng cho giai cấp công
nhân toàn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ của chủ
nghĩa tư bản và đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi. Hai ông đã vạch rõ tính
quy luật của cách mạng vô sản, nêu rõ phải sử dụng bạo lực cách mạng để


giành chính quyền về tay giai cấp vô sản và khẳng định: chính giai cấp vô sản
là người sáng tạo ra xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Không chỉ sáng tạo lý luận cho phong trào vô sản, Karl Marx còn là
người tổ chức, lãnh đạo Quốc tế Trong, tức "Hiệp hội công nhân quốc tế
(được thành lập ngày 22 tháng Chín năm 1864). Ông được coi là linh hồn, trí
tuệ của tổ chức này.
Năm 1867, Bộ Tư bản được xuất bản tập I. Bộ Tư bản như là một đòn
bẩy lớn của lịch sử, một sức mạnh cách mạng theo ý nghĩa chân chính nhất.
Tập II, III của Bộ Tư bản sau này được Engels hoàn thành. Trong bộ Tư bản,
Marx đã trình bày những vấn đề hết sức quan trọng của sản xuất tư bản nói
chung: sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị
thặng dư tương đối, sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản (tích lũy tư
bản), tích lũy ban đầu của tư bản, những vấn đề giá trị thặng dư và lợi nhuận,
tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay... Marx vạch rõ quy luật giá trị thặng
dư và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất hàng hóa
được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật lưu thông
của tiền tệ... Trong phần kết luận, Marx đã nêu lên sự tất yếu phải thủ tiêu chế
độ tư bản chủ nghĩa và thay thế nó bằng một hình thái tổ chức cao hơn là xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Cho đến nay, hơn một thế kỷ, bộ Tư bản của Karl Marx vẫn được đánh
giá là bộ sách phân tích sâu nhất và kỹ nhất về chủ nghĩa tư bản và bản chất
của nó. Nhiều nhà tư bản lớn khẳng định: Chính nhờ có học thuyết của Marx
mà chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh cơ chế hoạt động và thái độ đối với
người lao động để thích ứng và có sự phát triển như hiện nay. Marx vẫn được

coi là một trong số mười nhà tư tưởng tiêu biểu của thiên niên kỷ thứ hai.
Sau Công xã Paris (1871), Marx viết tác phẩm "Nội chiến ở Pháp", nêu
lên hình thức hợp lý nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức chính trị
như Công xã Paris. Phê phán những kẻ cơ hội trong Đảng xã hội dân chủ
Đức, ông đã viết tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875). Ông đã nêu ra
một vấn đề rất quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ


nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876, sau khi
Quốc tế Trong giải tán, Marx đã nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở
các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của phong trào công nhân. Marx và
Engels hoạt động không ngừng nghỉ trong cuộc đấu tranh của phong trào
công nhân quốc tế. Hai ông thực sự là ngọn đuốc trí tuệ và là ngọn cờ tiên
phong của giai cấp vô sản toàn thế giới.
Hệ thống quan điểm của Karl Marx phản ánh sâu sắc những biến đổi
của xã hội thế kỷ XIX với các cuộc cách mạng chính trị, công nghiệp hóa và
chủ nghĩa tư bản đang tan rã chế độ phong kiến và trật tự xã hội tồn tại hàng
ngàn năm trước đó.
Với tư cách là nhà khoa học xã hội xuất chúng, Karl Marx phân tích sâu
sắc sự vận động của xã hội và chủ nghĩa tư bản về mặt lý luận. Karl Marx chỉ
ra quy luật phát triển lịch sử của xã hội trên toàn thế giới. Trong các tác phẩm
của mình, Karl Marx vạch ra quy luật lịch sử tự nhiên của sự vận động kinh tế
của xã hội chủ nghĩa tư bản và chỉ ra con đường và xu hướng phát triển tất
yếu của xã hội loài người là tiến tới chủ nghĩa cộng sản.

2. Nội dung học thuyết.
Karl Marx được coi là một trong những người sáng lập ra ngành xã hội
học. Cống hiến to lớn của Karl Marx đối với sự phát triển xã hội học là lý luận
về lao động và lao động bị tha hóa, lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, lý
luận về hình thái kinh tế- xã hội.

2.1. Lý luận về lao động và lao động bị tha hóa
Sự hình thành và tiến triển tư tưởng của Karl Marx, bắt đầu từ tác
phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học” (1844), lao động là khái niệm đầu tiên mà
Karl Marx đưa ra.
Lý luận của Karl Marx chỉ ra rằng bản chất của xã hội và con người bắt
nguồn từ trong quá trình sản xuất thực của xã hội, từ trong hoạt động làm ra
của cải vật chất, tức là từ trong lao động. Bản chất đó thể hiện qua một số
điểm cơ bản sau:


Thứ nhất, bản chất của cá nhân và bản chất của xã hội đều bị quy định
bởi hoạt động sản xuất của cải vật chất. Engels nhận định: Lao động là điều
kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một
mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra
bản thân con người. Luận điểm này có ý nghĩa xã hội học rất quan trọng. Đó
là cần phân tích sự nảy sinh và diễn biến mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với xã hội trong việc sản xuất ra các phương tiện để
sinh tồn, phát triển.
Thứ hai, cùng với việc sản xuất ra các phương tiện để thỏa mãn các
nhu cầu tồn tại, con người không ngừng tạo ra các nhu cầu mới, cao hơn.
Trình độ phát triển của xã hội phụ thuộc vào trình độ tổ chức lao động sản
xuất của con người trong việc đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người. Karl Marx nhấn mạnh rằng sản xuất và tiêu dùng là hai mặt của một
quá trình sống.
Thứ ba, trình độ sản xuất của xã hội phụ thuộc vào phân công lao động
trong xã hội. Học thuyết Marx chỉ ra rằng nhân tố quyết định lịch sử loài người
là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Do đó, trình độ phát triển của
xã hội do trình độ phát triển của lao động (sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần) và trình độ phát triển của gia đình quyết định.
Khi phân tích sự tổ chức quá trình sản xuất trong xã hội có giai cấp,

nhất là xã hội tư bản chủ nghĩa. Karl Marx vạch ra sự bóc lột lao động và sự
tha hóa. Theo ông, lao động là sức mạnh bản chất của con người và nó là
một quá trình kép: thứ nhất nó thỏa mãn nhu cầu vật chất, thứ hai nó bộc lộ
năng lực sáng tạo của con người. Karl Marx cho rằng chính sự phân công lao
động trong các xã hội có giai cấp không cho phép con người tự do biểu hiện
và phát triển các năng lực người của mình. Karl Marx đã đưa ra khái niệm
"lao động bị tha hóa". Và nó đã trở thành một khái niệm cơ bản, một chủ đề
trọng tâm trong nghiên cứu xã hội học hiện đại, nhất là đối với xã hội học lao
động, xã hội học công nghiệp và xã hội học kinh tế.


Karl Marx không phải là người đầu tiên đưa ra khái niệm "tha hóa".
Trước đó, Rousseau đã dùng khái niệm này trong lĩnh vực chính trị. Hegel nói
đến "tha hóa của tinh thần". Feureubach nêu lên "tha hóa tôn giáo". Nhưng
Karl Marx là người đầu tiên đưa khái niệm tha hóa vào các quan hệ xã hội,
trước hết là trong mối quan hệ của con người với các điều kiện lao động.
Trong các tác phẩm của mình, Karl Marx đã chỉ rõ những biểu hiện của
lao động bị tha hóa, nguyên nhân dẫn đến lao động bị tha hóa và xác định
phương thức và những lực lượng có thể thực hiện sự nghiệp giải phóng con
người thoát khỏi sự tha hóa để tiến tới một xã hội mà "sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".
Lao động bị tha hóa có rất nhiều biểu hiện nhưng có ba biểu hiện cơ
bản: Một là, lao động bị tha hóa là lao động làm cho người lao động đánh mất
mình trong "hoạt động người" nhưng lại tìm thấy mình trong "hoạt động vật".
Người lao động thực hiện hoạt động lao động không phải để thỏa mãn nhu
cầu lao động mà chỉ vì sự sinh tồn. Đó là lao động bị cưỡng bức. Người lao
động chỉ cảm thấy mình hành động tự do trong khi thực hiện nhưng chức
năng động vật như ăn uống, sinh con đẻ cái... còn trong các chức năng con
người thì họ chỉ cảm thấy mình như một con vật.
Hai là, lao động bị tha hóa là lao động làm đảo lộn các quan hệ của

người lao động. Trong lao động, người lao động thực hiện quan hệ với tư liệu
sản xuất là thực hiện quan hệ với đồ vật và hoàn toàn phụ thuộc vào tư liệu
sản xuất. Hơn nữa, chỉ vì phải có sản phẩm để nhận thù lao nên người lao
động đã phải lao động nên họ bị sản phẩm của chính bàn tay mình làm ra nô
dịch. Như vậy, quan hệ giữa con người với đồ vật (trực tiếp là quan hệ với tư
liệu sản xuất, với sản phẩm của quá trình sản xuất) đã trở thành quan hệ giữa
con người với kẻ thống trị xa lạ. Còn người lao động quan hệ với chủ qua số
sản phẩm của người chủ thu được và số tiền mà người lao động được trả.
Cho nên, về bản chất quan hệ giữa người và người trở thành quan hệ giữa
người với đồ vật.


Ba là, lao động bị tha hóa là lao động làm cho người lao động phát triển
què quặt. Với mục đích sản xuất vì lợi nhuận nên khoa học, kỹ thuật, công
nghệ càng phát triển mạnh thì máy móc thay thế người lao động càng nhiều,
chuyên môn hóa lao động càng sâu, số người lao động bị máy móc thay thế
càng lớn, những người còn lại bước vào quá trình lao động thuần tuý thực
hiện những thao tác mà dây chuyền sản xuất đã quy định.
Karl Marx cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lao động bị tha hóa
là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa với chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất đã tập trung
những tư liệu sản xuất cơ bản vào tay một số nhà tư bản, một số tập đoàn tư
bản làm cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động trở thành vô sản. Do nhu cầu
sinh tồn đã buộc những người không có tư liệu sản xuất này phải tự nguyện
một cách cưỡng bức đến với nhà tư bản và họ đã trở thành những người làm
thuê cho nhà tư bản. Do đó, quá trình người bóc lột người, quá trình lao động
bị tha hóa đã diễn ra.
Từ đó, Karl Marx chỉ ra rằng muốn xóa bỏ, khắc phục lao động bị tha
hóa tất yếu phải xóa bỏ nguyên nhân sinh ra nó - chế độ chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.

2.2. Lý luận về hình thái kinh tếb - xã hội
Hình thái kinh tế- xã hội cũng là một trong những nội dung trọng tâm
của xã hội học Marx. Hình thái kinh tế- xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Với học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Karl Marx đã chứng minh lịch
sử phát triển của xã hội trên toàn thế giới là lịch sử thay thế kế tiếp nhau của
các hình thái kinh tế - xã hội mà thực chất là các phương thức sản xuất. Karl
Marx lập luận rằng lịch sử xã hội loài người trải qua năm phương thức sản
xuất tương ứng với năm hình thái kinh tế - xã hội với năm thời địa lịch sử:


cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Từ đó,
Karl Marx đưa ra luận điểm: "Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên". Bởi lẽ sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật phổ biến, vừa chịu sự chi phối
của các quy luật đặc thù riêng. Các quy luật vận động phát triển phổ biến của
xã hội là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng và các quy luật khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó
mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp tới cao, đó là con
đường phát triển chung của toàn nhân loại. Tuy nhiên, con đường phát triển
của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác
động bởi các điều kiện phát triển cụ thể của mỗi dân tộc, như về điều kiện tự
nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về tác động quốc tế... Vì vậy, lịch
sử phát triển nhân loại vừa tuân theo những quy luật chung, vừa rất đa dạng,
phong phú. Tính đa dạng phong phú nói lên tính độc đáo riêng trong lịch sử
phát triển của mỗi dân tộc. Tính đa dạng phong phú đó thể hiện ở chỗ, một
mặt, cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhưng ở các nước khác nhau có

những hình thức cụ thể khác nhau; mặt khác, có những dân tộc lần lượt trải
qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, nhưng cũng có thể bỏ
qua một hay một số hình thái nào đó. Chẳng hạn, Việt Nam bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Việc bỏ qua này cũng diễn ra theo
một quá trình lịch sử tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra theo con đường phát triển tuần tự, mà bao hàm cả sự bỏ qua,
trong những điều kiện nhất định, một hoặc một số hình thái kinh tế - xã hội
nhất định.
Quan điểm của Karl Marx mở ra bước ngoặt có tính chất cách mạng
trong nhận thức của con người về phân chia các giai đoạn lịch sử trong xã
hội. Vượt lên trên hệ thống các học thuyết trước đó, học thuyết Marx chỉ ra sự
biến đổi xã hội và sự phát triển lịch sử bắt nguồn từ hệ thống sản xuất, cơ cấu


kinh tế của xã hội. Theo Karl Marx, sản xuất là hoạt động đặc trưng của con
người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản
xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở
của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng một phương thức sản xuất nhất
định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của lịch sử loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định.
Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của
các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội
loài người từ thấp đến cao.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất
ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.

Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là toàn bộ các lực lượng được
con người sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm
người lao động với một thể lực, tri thức, kỹ năng lao động nhất định và tư liệu
sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao
động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết
hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng
lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất hàng đầu
là “người lao động". Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động
sản xuất. Bằng thể lực tri thức và kỹ năng lao động của mình, người lao động
sử dụng tư liệu lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của
cải vật chất. Cùng với quá trình sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động, nhất
là trí tuệ ngày càng được nâng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.


Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản của lực
lượng sản xuất đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao
động là yếu tố động nhất trong tư liệu lao động, nó không ngừng được cải tiến
và hoàn thiện trong quá trình sản xuất. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không
ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ
phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của
con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Ngày nay, khoa học đã thâm nhập vào quá trình sản xuất và trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp.
Mặt thứ hai của phương thức sản xuất là quan hệ sản xuất biểu hiện
mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái
sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân

phối sản phẩm sản xuất ra. Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho
quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Do đó người nào sở hữu tư liệu sản xuất
thì người đó có khả năng kiểm soát lao động, quản lý quá trình sản xuất và
nắm quyền phân phối sản phẩm. Người nào không có tư liệu sản xuất thì
người đó bị lệ thuộc và phải bán sức lao động, bị bóc lột và phải sản xuất để
nuôi sống bản thân và làm giàu cho chủ, bị áp bức và chịu sự cai quản, thống
trị của kẻ sở hữu.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu
cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư
nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay
một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó,
quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã
hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Đặc trưng cho hình thức
sở hữu này trong lịch sử tương ứng với các chế độ xã hội: chế độ chiếm hữu
nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản. Sở hữu công cộng là loại hình sở
hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Nhờ


đó, quan hệ giữa người với người của mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng,
hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Tương ứng với các chế độ xã hội: công xã nguyên
thủy và cộng sản chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau,
tác động qua lại với nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy
luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển xã hội. Trong đó, lực lượng sản
xuất là nội dung, thường xuyên biến đổi, phát triển, quan hệ sản xuất là hình
thức xã hội của sản xuất, tương đối ổn định.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của
lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của

công cụ lao động, trình độ của người lao động, trình độ tổ chức và phân công
lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trình độ của lực
lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
Gắn với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất
cá nhân lên chỗ có tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ
công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có
tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, hiện đại, phân công
lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới
ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát
triển" của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ
sản xuất đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm
cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát


triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích"
của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu
cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất mới tiếp tục
phát triển, phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời
thay thế.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản
xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực

lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của lực lượng sản xuất,
tác động đến thái độ của người lao động, đến tổ chức phân công lao động xã
hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ... do đó tác động đến sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một
cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ được
thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải
giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con
người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua
cách mạng xã hội.
Tóm lại, quy luật này có thể phát biểu như sau: sự phát triển của lực
lượng sản xuất đến một giai đoạn nhất định lại làm cho quan hệ sản xuất từ
chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản
xuất tất yếu sẽ dẫn đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản


xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, thúc đẩy
lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Phương thức sản xuất cũ mất đi,
phương thức sản xuất mới ra đời thay thế, hình thái kinh tế - xã hội cũ được
thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản, phổ biến của xã hội. Nó chi phối sự vận động, phát
triển của toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch

sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế
độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là
do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là cơ bản
nhất.
2.3. Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp
Phân tầng giai cấp của xã hội là một khái niệm trung tâm của xã hội học
mác xít
Trong lịch sử xã hội học, chủ nghĩa Marx lần đầu tiên đã xác định khái
niệm giai cấp một cách chặt chẽ về lý luận. Giai cấp là một phạm trù kinh tế xã hội có tính lịch sử. Nó luôn luôn vận động biến đổi cùng với sự biến đổi
của lịch sử. Karl Marx khẳng định giai cấp không phải là hiện tượng bẩm sinh
của xã hội, không xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội. Đã có những
giai đoạn phát triển của xã hội chưa có giai cấp, đó là chế độ công xã nguyên
thủy. Giai cấp xuất hiện gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của
sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất phải đến một trình độ nhất
định mới tạo ra những điều kiện cho giai cấp ra đời. Giai cấp sẽ mất đi khi
điều kiện kinh tế- xã hội cho sự tồn tại của nó không còn. Tư tưởng này thể
hiện trong bức thư Marx gởi Iôxíp Vâyđơmaiơ ngày 05- 03- 1852. Marx viết:
"Còn về phần tôi thì tôi không có công lao là đã phát hiện ra sự tồn tại của các
giai cấp trong xã hội hiện đại, cũng không phải có công lao là đã phát hiện ra
cuộc đấu tranh giữa các giai cấp với nhau. Các nhà sử học tư sản trước tôi
rất lâu đã trình bày sự phát triển của lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp đó,


còn các nhà kinh tế học tư sản thì đã trình bày sự giải phẩu kinh tế của giai
cấp. Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: 1) Sự tồn tại của các giai cấp
chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất, 2) đấu
tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, 3) bản thân nền chuyên
chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới một xã
hội không có giai cấp". Đối với Marx cả ba mệnh đề trên đều có quan hệ ràng

buộc lẫn nhau nhưng với chúng ta, với tư cách là những người nghiên cứu
Marx dưới góc độ xã hội học thì mệnh đề quan trọng nhất là: "Sự tồn tại của
các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản
xuất". Bởi lẽ, theo luận điểm này thì giai cấp mang tính lịch sử xã hội cụ thể.
Giai cấp không tồn tại mãi mãi, giai cấp sẽ mất đi khi điều kiện kinh tế thay
đổi. Nếu do trình độ phát triển của sản xuất đã dẫn đến sự ra đời của giai cấp
thì đến một lúc nào đó cũng do sự phát triển cao của sản xuất (tính chất xã
hội hóa cao, của cải sản xuất ra rất nhiều) sẽ tạo điều kiện để giai cấp mất đi.
Và cũng từ đây có thể hiểu rằng theo Marx sự phân chia xã hội thành các giai
cấp là do nguyên nhân kinh tế. Marx lý giải sự phát triển của lực lượng sản
xuất dẫn đến sự phân công lao động. Sự phân công lao động làm cho lao
động được chuyên môn hóa, đưa đến năng suất lao động được nâng cao. Từ
đó dẫn đến của cải dư thừa tương đối. Do có của cải dư thừa tương đối đã
tạo ra khả năng chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng. Điều đó đã tạo
điều kiện cho chế độ tư hữu ra đời. Chế độ tư hữu làm cơ sở cho sự phân
hóa xã hội thành giai cấp có lợi ích đối kháng nhau. Như vậy, nguồn gốc của
giai cấp là từ chế độ kinh tế.
Karl Marx chỉ ra rằng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sản
sinh ra cấu trúc phân tầng xã hội gồm hai tầng bậc chủ yếu:
Giai cấp hay tập đoàn người làm "ông chủ”, sở hữu tư liệu sản xuất,
chiếm vị trí thống trị và bóc lột người khác.
Các nhóm hay các giai cấp còn lại trong xã hội không nắm tư liệu sản
xuất.


Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm được quyền sở hữu đối với
tư liệu sản xuất, giai cấp đó sẽ nắm được quyền quản lý, tổ chức sản xuất và
quyền chi phối sản phẩm, từ đó có địa vị thống trị trong xã hội. Sự khác nhau
về địa vị đó lại quyết định giai cấp này chiếm đoạt lao động của giai cấp khác,
và thực chất đó là đối kháng giai cấp.

Trên cơ sở quan niệm đúng đắn về giai cấp, Marx đã phân tích những
cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử. Ông cho rằng lịch sử xã hội loài người
từ khi có giai cấp đối kháng đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đây là quá
trình tất yếu khách quan của xã hội có áp bức giai cấp, không do một lý thuyết
xã hội nào tạo ra. Bởi vì, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị có lợi ích đối kháng
nhau không thể điều hòa được. Những cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô,
giữa nông dân và chúa đất, quý tộc phong kiến, giữa tư sản và vô sản đã làm
cho xã hội vận động chuyển từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần
chúng nhân dân bị áp bức chống lại bọn đặc quyền đặc lợi, giai cấp thống trị
bóc lột nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp thống trị bóc lột và
quần chúng nhân dân bị thống trị, bóc lột. Cuộc đấu tranh này có ý nghĩa cách
mạng sâu sắc nhằm xóa bỏ những chế độ xã hội cũ, những giai cấp thống trị
lỗi thời, thay đổi những quan hệ sản xuất cũ đã trở nên lạc hậu, xây dựng
quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển. Với ý nghĩa đó, đấu tranh giai cấp là phương thức
thay đổi phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới cao hơn,
đồng thời là một trong những động lực phát triển quan trọng của lịch sử xã
hội. Do đó, đấu tranh giai cấp không chỉ là đòn bẩy để thay đổi hình thái kinh
tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn rèn luyện bản thân
giai cấp tiên tiến cách mạng.
Như vậy, sự xuất hiện giai cấp, đấu tranh giai cấp và xóa bỏ giai cấp
đều là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ
giai cấp nào. Khi điều kiện khách quan chưa cho phép thì không giai cấp nào


có thể thực hiện được mục tiêu của mình. Điều kiện khách quan đó bắt nguồn
từ trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội.
Từ sự phân tích trên của Karl Marx có thể rút ra hai ý tướng quan trọng
cho xã hội học: Về thực tiễn, cần xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản

xuất chủ yếu thay bằng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất để xây dựng một
xã hội phát triển công bằng, dân chủ, văn minh. Về mặt lý luận: nghiên cứu xã
hội học cần tập trung nghiên cứu cơ cấu xã hội để chỉ ra trong xã hội hiện tồn
đó giai cấp nào có lợi và giai cấp nào bất lợi. Hay nói cách khác, bất bình
đẳng xã hội là vấn đề cần nghiên cứu của xã hội học.

3. Phương pháp nghiên cứu
Các tác phẩm của Karl Marx chứa đựng hệ thống lý luận xã hội học
hoàn chỉnh cho phép vận dụng để nghiên cứu bất kỳ một môn khoa học nào.
Mặc dù, Marx không xem mình là nhà xã hội học, nhưng các nhà nghiên cứu
khắp thế giới đều coi Marx là một nhà xã hội học vĩ đại của mọi thời đại, là
người đặt nền móng cho sự phát triển của xã hội học hiện đại.
Hệ thống quan niệm duy vật biện chứng của Marx về các quá trình và
hiện tượng xã hội là sự thống nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
về xã hội và lịch sử. Luận điểm gốc của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng:
sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất, là cơ sở
của mọi chế độ xã hội, rằng trong mỗi xã hội xuất hiện trong lịch sử, sự phân
phối sản phẩm, và cùng với sự phân phối ấy là sự chia xã hội thành giai cấp
hoặc đẳng cấp, đều được quyết định bởi tình hình: người ta sản xuất ra cái gì
và sản xuất bằng cách nào và những sản phẩm của sản xuất đó được trao
đổi như thế nào. Do đó, cần tìm nguyên nhân cuối cùng tất cả những biến đổi
xã hội và những đảo lộn chính trị không phải trong đầu óc người ta mà trong
kinh tế của thời đại tương ứng.
Theo Marx, nghiên cứu đời sống xã hội phải hướng vào phân tích cuộc
sống thực, phải xuất phát từ tiền đề "là những cá nhân hiện thực, là hoạt
động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ". Tiền đề đầu tiên
của lịch sử loài người là sự tồn tại của những cá nhân con người sống, bởi vì


người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Sự kiện lịch

sử đầu tiên và quan trọng nhất là hành động sản xuất ra các phương tiện thoả
mãn nhu cầu vật chất để tồn tại của con người.
Về phương pháp luận, Marx kế thừa có phê phán và sáng tạo phép
biện chứng của Hegel trong nghiên cứu giới tự nhiên, xã hội và con người.
Phép biện chứng duy vật đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối
liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau, trong mâu thuẫn và vận động, phát triển
không ngừng của lịch sử xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét xã hội với tư cách là cơ cấu xã hội,
nói theo thuật ngữ xã hội học hiện đại là cấu trúc xã hội, hệ thống xã hội. Xã
hội được hiểu là một chỉnh thể gồm các bộ phận có mối liên hệ qua lại với
nhau như các giai cấp, các thiết chế, các chuẩn mực giá trị, văn hóa... Khi
nghiên cứu cấu trúc xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa, Marx đặc biệt nhấn
mạnh tới cơ cấu giai cấp và chỉ ra rằng, với tư cách là một chỉnh thể, xã hội tư
bản chủ nghĩa gồm hai phe, hai giai cấp đối lập nhau, đó là giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản.
Theo quan điểm của Marx, các bộ phận của xã hội không chỉ tác động
qua lại lẫn nhau mà còn mâu thuẫn với nhau làm cho xã hội vận động, phát
triển.
Luận điểm đặc biệt quan trọng về mặt lý luận và hành động cách mạng
của chủ nghĩa duy vật lịch sử là sự vận động, biến đổi tuân theo các quy luật
mà con người có thể nhận thức được. Và con người có khả năng vận dụng
các quy luật đã nhận thức được để cải tạo xã hội cho phù hợp với lợi ích của
mình. Marx cho rằng con người không chỉ là giải thích thế giới mà còn cải tạo
thế giới. Cái quý nhất Marx đưa ra cho xã hội học thế kỷ XX là cái nhìn biện
chứng về xã hội, là phương pháp biện chứng trong nghiên cứu xã hội. Theo
quy luật lịch sử, xã hội phát triển từ cơ cấu xã hội đơn giản đến phức tạp.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp tư sản và
vô sản tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp. Do đó, nhiệm vụ của lý luận và
phương pháp luận khoa học xã hội là phải chỉ ra các điều kiện để con người



nhất là giai cấp công nhân nhận thức được lợi ích giai cấp mình để từ đó
đoàn kết và tổ chức đấu tranh cách mạng nhằm xóa bỏ trật tự xã hội cũ, xây
dựng trật tự xã hội mới đem lại tiến bộ, văn minh và công bằng cho tất cả mọi
người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử xem sự biến đổi xã hội là thuộc tính vốn có
của mọi xã hội, bởi vì con người không ngừng làm ra lịch sử trong quá trình
hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của mình. Điều đó đòi
hỏi nghiên cứu xã hội phải hướng vào việc chỉ ra được nguồn gốc biến đổi xã
hội trong lòng xã hội, chứ không phải tìm các yếu tố bên ngoài xã hội.
Về phương pháp nghiên cứu xã hội, Marx đã để lại cho chúng ta một
mẫu mực về phương pháp nghiên cứu xã hội trong bộ Tư bản. Trong công
trình nghiên cứu đồ sộ này, Marx chỉ ra rằng đối với việc tìm hiểu, phân tích
các sự vật và hiện tượng xã hội ta không thể dùng công cụ của khoa học tự
nhiên như kính hiển vi hay các chất thử hóa học. Đối với hiện tượng xã hội
nhà khoa học cần phải phát huy sức mạnh của trí tuệ, của tư duy trừu tượng,
phải sử dụng và phát triển bộ công cụ gồm các thuật ngữ, khái niệm, phạm
trù khoa học. Trong Tư bản, Marx xuất phát từ một hình thức đơn giản là giá
trị, sự trao đổi hàng hóa và ông nhận định rằng hàng hóa chứa đựng trong nó
những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Hàng hóa là một bô phận và
nó gắn liền với cái tổng thể, một tổng thể chủ nghĩa tư bản như một hệ thống
kinh tế, chính trị và xã hội. Theo Marx, tổng thể được cấu thành trong trạng
thái liên kết của các hiện tượng, các sự kiện không tách rời nhau và các yếu
tố còn lại trong một quan hệ tất yếu với cái toàn thể mặc dù chúng cũng có
tính độc lập tương đối.
Chủ nghĩa tư bản được nghiên cứu như là một khái niệm trừu tượng,
một hình thái thuần khiết, loại bỏ tất cả những nét đặc thù lịch sử. Do đó,
phương pháp luận chỉnh thể của Marx giả định một chủ nghĩa tư bản lý
tưởng, một hình thái trên thực tế không bao giờ tồn tại, một mô hình được
ông sử dụng khi phân tích về biến đổi xã hội, về sự hình thành giai cấp và cấu

trúc xã hội. Mối quan hệ giữa sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng chỉ có


thể hiểu được bằng cách tách biệt những yếu tố phổ biến cho tất cả các hình
thức sản xuất và nắm được cái phương thức mà những yếu tố đặc thù trong
lịch sử tách khỏi cái tổng quát. Như vậy, phương pháp của Marx là bắt đầu từ
một cái toàn thể có sẵn, như dân số, sản xuất, nhà nước... và rút ra những
yếu tố cấu thành của cái toàn thể, sau đó, thông qua một quá trình, những
yếu tố này lại được gắn kết hữu cơ vào chính cái toàn thể đó.
Kế thừa di sản phương pháp luận của Marx, xã hội học hiện đại ra sức
phát triển và sử dụng trừu tượng hóa, thao tác hóa khái niệm, giả định hơn để
gạt sang một bên những hiện tượng bên ngoài và tập trung vào nghiên cứu,
vạch ra thuộc tính, bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng của xã hội.

KẾT L UẬN
Tóm lại, học thuyết Marx nói chung và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói
riêng có ý nghĩa và tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với lý luận xã hội học
nói riêng và đối với các khoa học xã hội nói chung. Trong các nước phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, học thuyết Marx là cơ sở lý luận, hệ tư
tưởng định hướng và phương pháp luận của nền xã hội học mácxít. Trong
các nước khác, lý luận xã hội học của Marx được nghiên cứu khá rộng rãi.
Công lao của Marx đối với sự hình thành và phát triển xã hội học hiện
đại thật là to lớn. Các tác giả của cuốn Từ điển bách khoa khoa học xã hội
viết rằng, đối với toàn bộ khoa học xã hội, học thuyết duy vật về lịch sử của
Marx và sự phân tích của ông về xã hội tư bản chủ nghĩa đã đưa Marx trở
thành một nhân vật có ảnh hưởng to lớn nhất của thế kỷ XX.
Về giá trị, ý nghĩa, nguồn gốc, nội dung và tinh thần của lý luận Marx,
Lênin khẳng định: "Học thuyết của Marx là học thuyết vạn năng vì nó là một
học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ, nó cung cấp
cho người ta một thế giới hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê

tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư
sản. Nó là người kế thừa chính đáng tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài


người đã tạo ra hồi thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và
chủ nghĩa xã hội Pháp".
Các quan niệm của Marx về lịch sử xã hội và cấu trúc xã hội tạo thành
khung lý luận và phương pháp luận nghiên cứu xã hội học theo nhiều hướng
khác nhau. Chẳng hạn, xã hội học Marx ảnh hưởng tới trường phái lý thuyết
xã hội phê phán, lý thuyết về mâu thuẫn và xung đột xã hội, lý thuyết về hệ
thống thế giới, lý luận về nhà nước, lý luận về văn hóa, tư tưởng, lý thuyết về
cấu trúc xã hội và nhiều trường phái lý thuyết khác.
Các nhà xã hội học mác xít cần vận dụng phép biện chứng duy vật của
Marx để nghiên cứu cấu trúc xã hội, mâu thuẫn xã hội và sự phân tầng xã hội,
cần vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích thực trạng và nguyên
nhân của sự biến đổi xã hội.
Dựa vào quan điểm duy vật biện chứng, xã hội học hiện đại cần nghiên
cứu mối tác động qua lại giữa một bên là các hiện tượng xã hội, các quá trình
xã hội, các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người, và một bên là
phương thức sản xuất, phân công lao động và cơ cấu kinh tế. Chẳng hạn, các
nhà xã hội học có thể nghiên cứu tác động của các yếu tố kinh tế, cách tổ
chức lao động xã hội hay giá trị văn hóa tới hành vi, hoạt động của con người,
nhóm hay giai cấp xã hội.
Xã hội học cần nghiên cứu xã hội với tư cách là hệ thống xã hội gồm
các bộ phận, thành phần quan hệ biện chứng với nhau. Các nhà nghiên cứa
cần phân tích ảnh hưởng của chính sách xã hội tới việc cải thiện điều kiện vặt
chất của con người. Trên thực tế, hướng phân tích chính sách xã hội đang trở
thành một trong những lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu của xã hội học.
Việc Marx nhấn mạnh cấu trúc giai cấp của xã hội đã mở ra hướng
nghiên cứu xã hội học giai cấp và phân tầng xã hội theo giai cấp.

Điều quan trọng nhất là, làm theo lời Marx các nhà xã hội học tiến bộ
không những có những nhiệm vụ phải giải thích thế giới mà còn góp phần vào


công cuộc đổi mới xã hội để xây dựng xã hội phát triển, công bằng, dân chủ
và văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo (2005), Giáo trình triết học Mác - Lê nin, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình triết học Mác - Lê nin (dùng
cho học viên cao học và nghiên cứu sinh), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
3. Bùi Quang Dũng (2004), Nhập môn lịch sử xã hội học, Nxb Khoa học
xã hội.
4. Bùi Quang Dũng (2005), Lịch sử xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội.
5. Lê Ngọc Hùng (2002), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
6. Thanh Lê (2002), Lịch sử xã hội học, Nxb Khoa học xã hội.
7. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
8. Một số trang web...
---//--TIỂU LUẬN MÔN: LỊCH SỬ XÃ HỘI HỌC
TƯ TƯỞNG XÃ HỘI HỌC CƠ BẢN CỦA KARL MARX
(1818 – 1883)
Nhóm thực hiện: Nhóm 2
Lớp: Nhân Văn 5 và Văn bằng 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



×