Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận Đường lối Cách Mạng chủ đề Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), cơ hội và thách thức cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.54 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC XÃ HỘI

TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
Chủ đề: Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), cơ hội và thách thức cho Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Tâm
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Minh Phúc
Mã sinh viên: 15130143
Lớp: TH20.05

Hà Nội – 2016

1


2


MỤC LỤC:
Mở đầu…………………………………………………………………………………………2
a. Lịch sử hình thành AEC……………………………………………………………………...2
b. Mục tiêu của AEC……………………………………………………………………………2
c. Bản chất của AEC…………………………………………………………………………….3
d. Các Hiệp định chính trong AEC……………………………………………………………...3
Nội dung………………………………………………………………………………………..4
Cơ hội…………………………………………………………………………………………...4
Thách thức………………………………………………………………………………………6
Kết luận………………………………………………………………………………………...7

3




Mở đầu:
a. Lịch sử hình thành AEC:












Năm 1992: khái niệm hội nhập kinh tế ASEAN lần đầu tiên được đưa ra trong Hiệp
định khung về Thúc đẩy Hợp tác Kinh tế ASEAN ký tại Singapore. Hiệp định này nhấn mạnh
tầm quan trọng trong hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, công nghiệp, năng lượng và
khoáng sản, tài chính và ngân hàng, thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp, giao thông và
truyền thông.
Năm 1992: Hiệp định về Chương trình Ưu đãi Thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
được ký kết, sau đó được thay thế bởi Hiệp định về Thương mại Hàng hoá ASEAN 2010
Năm 1995: Hiệp định khung về Dịch vụ ASEAN được ký kết
Năm 1998: Hiệp định khung về Đầu tư ASEAN được ký kết, sau đó được thay thế bởi
Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN 2012
Năm 2003: Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 9, các nhà lãnh đạo ASEAN lần đầu tiên
tuyên bố mục tiêu hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Mục tiêu này cũng phù
hợp với Tầm nhìn ASEAN 2020 thông qua vào năm 1997 với mục tiêu phát triển ASEAN
thành một Cộng đồng ASEAN.

Năm 2006: Tại cuộc họp các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 38, Kế hoạch tổng thể
xây dựng AEC (AEC Blueprint) đã được đưa ra với các mục tiêu và lộ trình cụ thể cho việc
thực hiện AEC.
Năm 2007: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 12, các nhà lãnh đạo ASEAN đã
đồng ý đẩy nhanh việc hình thành AEC vào năm 2015 thay vì 2020 như kế hoạch ban đầu
Ngày 22/11/2015: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 27, các nhà lãnh đạo
ASEAN đã ký kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập AEC
b. Mục tiêu của AEC
- Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, thông qua:









Tự do lưu chuyển hàng hoá
Tự do lưu chuyển dịch vụ
Tự do lưu chuyển đầu tư
Tự do lưu chuyển vốn
Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề
Lĩnh vực hội nhập ưu tiên
Thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp
- Một khu vực kinh tế cạnh tranh, thông qua:









Các khuôn khổ chính sách về cạnh tranh
Bảo hộ người tiêu dùng
Quyền sở hữu trí tuệ
Phát triển cơ sở hạ tầng
Thuế quan
Thương mại điện tử
4


- Phát triển kinh tế cân bằng, thông qua:



Các kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)
Sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN
- Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, thông qua:




Tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác kinh tế
Nâng cao năng lực tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu

c. Bản chất AEC









Mặc dù được gọi với cái tên “Cộng đồng kinh tế”, AEC thực chất chưa thể được coi là một
cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng châu Âu (EC) bởi AEC không có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ và những điều lệ, quy định có tính chất ràng buộc cao và rõ ràng như EC
AEC thực chất là đích hướng tới của các nước ASEAN thông qua việc hiện thực hóa dần
dần 04 mục tiêu kể trên (trong đó chỉ mục tiêu 01 là được thực hiện tương đối toàn diện và
đầy đủ thông qua các Hiệp định và thỏa thuận ràng buộc đã ký kết, các mục tiêu còn lại mới
chỉ dừng lại ở việc xây dựng lộ trình, khuôn khổ, thực hiện một số chương trình và sáng kiến
khu vực).
AEC là một tiến trình hội nhập kinh tế khu vực chứ không phải là một Thỏa thuận hay
một Hiệp định với các cam kết ràng buộc thực chất. Tham gia vào các mục tiêu của AEC là
hàng loạt các Hiệp định, Thỏa thuận, Chương trình, Sáng kiến, Tuyên bố… giữa các nước
ASEAN có liên quan tới các mục tiêu này. Những văn bản này có thể bao gồm những cam kết
có tính ràng buộc thực thi, cũng có những văn bản mang tính tuyên bố, mục tiêu hướng tới
(không bắt buộc) của các nước ASEAN.
Việc hiện thực hóa AEC đã được triển khai trong cả quá trình dài trước đây (thông qua
việc thực hiện các cam kết tại các Hiệp định cụ thể về thương mại đã ký kết giữa các nước
ASEAN) và sẽ được tiếp tục thực hiện trong thời gian tới (tiếp tục thực hiện theo lộ trình các
Hiệp định, Thỏa thuận đã có và các vấn đề mới, nếu có).
d. Các Hiệp định chính trong AEC
Để hiện thực hóa AEC, rất nhiều Hiệp định, Thỏa thuận, Sáng kiến....đã được các thành viên
đàm phán, ký kết và thực hiện. Trong đó các Hiệp định quan trọng và đưa thực thi tương
đối đầy đủ là:








Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA)
Hiệp định Khung về Dịch vụ ASEAN (AFAS)
Hiệp định về Di chuyển thể nhân trong ASEAN (MNP)
Các Thỏa thuận Thừa nhận lẫn nhau về một số lĩnh vực dịch vụ
Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA)

5


 Việc gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) cũng tạo ra nhiều cơ hội và không ít

những thách thức cho Việt Nam.

6


Nội dung:
Việt Nam gia nhập ASEAN từ tháng 7/1995 trên tinh thần hợp tác giữa các nước thành viên
nhằm phát triển kinh tế và văn hóa trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực. Khi
gia nhập ASEAN, bên cạnh những cơ hội thì Việt Nam cũng gặp phải không ít những thách
thức về mọi mặt.
1. Cơ hội
Khi các mục tiêu của AEC được hoàn tất, AEC sẽ mang lại những cơ hội lớn cho nền kinh tế
và các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là:







AEC mở ra một khu vực thị trường chung rộng lớn: với gần 100% hàng hóa được tự
do lưu chuyển trong nội khối, AEC tạo ra một khu vực thị trường hàng hóa chung giữa các
nước ASEAN, mở ra cơ hội làm ăn kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp trong khu vực;
ASEAN có tổng GDP trên 2,7 nghìn tỷ USD, tăng trưởng trung bình 5%-6% hàng năm. Dân
số trên 600 triệu người, với cơ cấu dân số tương đối trẻ. Thu nhập bình quân đầu người
trên 4.500 USD/người/năm. Thu hút đầu tư nước ngoài năm 2012 đạt 110 tỷ USD. Tổng giá
trị giao dịch thương mại 2,5 nghìn tỷ USD. AEC với việc tự do hóa dịch chuyển hàng hóa,
dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ khuyến khích các hoạt động kinh doanh và đầu tư lớn hơn
ở khu vực. Đầu tư nước ngoài trực tiếp gia tăng và hoạt động kinh tế ở khu vực đương
nhiên sẽ mang lại việc gia tăng nhu cầu bảo hiểm ở Đông Nam Á. Các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhiều hơn ở các nước khác trong
khu vực ASEAN… Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt thời cơ mở rộng
thị trường. Mặt khác, AEC tạo lập một khu vực thị trường và sản xuất thống nhất, dẫn đến
kinh tế của nhiều nước trở nên phồn vinh hơn, dẫn đến tăng thu nhập và hình thành nên
một lượng mới người tiêu dùng trung lưu với thu nhập cao - cũng là đối tượng khách hàng
rất tiềm năng của các doanh nghiệp
AEC mở ra cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: môi trường kinh doanh
được mở rộng theo hướng minh bạch và bình đẳng hơn sẽ là điều kiện để thu hút đầu tư
nước ngoài không những từ các nước ASEAN mà cả từ các nước ngoại khối, đặc biệt là các
nước đối tác FTA của ASEAN vào Việt Nam để tham gia và chuỗi giá trị khu vực; Cơ hội
được trông đợi nhất, từ tất cả các nước ASEAN chứ không riêng gì Việt Nam đó là sự đầu tư
và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát triển. Bởi vì việc kết nối và xây dựng một ASEAN
thống nhất, bớt chia cắt hơn, sẽ khiến các nhà đầu tư lớn nhìn ASEAN như một sân chơi
chung, một công xưởng chung, ở đó có khối nguồn lực thống nhất, đặc biệt là nguồn nhân
lực có kỹ năng với giá còn tương đối rẻ. AEC cũng sẽ giúp Việt Nam cải thiện tốt hơn môi

trường kinh doanh từ thủ tục hải quan, thủ tục hành chính cho tới việc tạo ra ưu đãi đầu tư
cân bằng hơn. Thu hút đầu tư nhiều hơn đồng nghĩa với quá trình chuyển giao công nghệ
diễn ra nhanh và tích cực hơn, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp, tạo đà
cho nền công nghiệp Việt Nam hướng tới phát triển cân bằng với các quốc gia khác.
AEC tạo ra sức ép, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam:
tham gia vào một sân chơi chung và chịu áp lực cạnh tranh từ các đối tác khu vực cả về
trình độ quản lý, công nghệ và nhân lực sẽ buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tự cải tổ,
thay đổi, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển. Khi AEC được thành
lập, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thị trường rộng lớn hơn. Thêm vào đó, khi thuế suất trong
ASEAN giảm xuống 0%, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá
7




thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh. Theo quy định của ASEAN,
các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” 40% được xem là sản phẩm vùng ASEAN, sẽ được
hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang các thị trường khu vực ASEAN đã có FTA. Đây cũng là
cơ hội để Việt Nam tận dụng các ưu đãi nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa
xuất khẩu trong nước sang thị trường khu vực.
AEC tạo ra khí thế và động lực cho doanh nghiệp, cơ hội mở rộng xuất nhập khẩu: Với
tinh thần chuẩn bị cho việc hình thành AEC vào cuối năm 2015 và những trông đợi về một
khu vực thị trường chung năng động với nhiều cơ hội mở ra, các doanh nghiệp Việt Nam
dường như đã được thức tỉnh để chuẩn bị tư thế và hành tranh cho tiến trình hội nhập
mạnh mẽ sắp tới. Khi tham gia vào AEC, thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam sẽ
ngày càng mở rộng. Thêm vào đó, Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài hơn, đặc biệt là từ các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn như Singapore,
Indonesia... “Điều quan trọng nhất là việc tham gia sâu rộng vào AEC sẽ giúp Việt Nam tăng
cường cải cách nền kinh tế ở trong nước theo những tiêu chuẩn của hội nhập, giúp cho nền
kinh tế Việt Nam phát triển hiệu quả hơn, qua đó dần vượt qua những thách thức.”, Theo

Ông Nguyễn Hồng Sơn - Hiệu trường Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội.
AEC giúp tăng trưởng xuất khẩu. ASEAN hiện là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu
của Việt Nam và là động lực giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất
khẩu trong nhiều năm qua, vượt trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ. Với lợi thế
là khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
ASEAN có mức tăng trưởng cao. So với năm 2002, thương mại hai chiều Việt Nam và
ASEAN năm 2013 đã tăng hơn 5 lần, chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất 4 nhập khẩu của
cả nước. Giai đoạn 2002 - 2013, nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam
sang ASEAN đạt 28,4%/năm và nhập khẩu đạt 27%/năm.Từ năm 2010, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Campuchia, Indonexia, Philippines, Thái Lan, Singapore đều đạt
trên 1 tỷ USD. Cơ hội mở ra cho thấy khi AEC đi vào hoạt động sẽ tạo ra một thị trường đơn
nhất, khai thác được tối đa các hiệp định thương mại tự do (FTA) mang lại, thuế suất lưu
thông hàng hoá giữa các nước trong khu vực sẽ được cắt giảm dần về 0%. Đặc biệt trong
giai đoạn từ nay đến năm 2015 và những yêu cầu ngày càng cao đối với hàng xuất khẩu sẽ
là thách thức không nhỏ với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các biện
pháp về phòng vệ thương mại đang có xu hướng gia tăng. Vì vậy, giai đoạn 2014- 2015 sẽ là
“nước rút” để tiến đến mục tiêu xây dựng AEC với kỳ vọng ra đời vào cuối năm 2015. Điều
này khiến doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể chỉ bó hẹp
tầm nhìn trong tỉnh, thành phố hay trong phạm vi quốc gia mà cần phải mở rộng hơn tới
toàn cầu. Thời gian qua, ASEAN liên tục thuộc nhóm các thị trường xuất khẩu hàng đầu của
Việt Nam. Dẫn số liệu thống kê từ Cục Xuất Nhập khẩu cho thấy cán cân thương mại của
Việt Nam với khối ASEAN đã có sự thay đổi rõ rệt. Nếu như năm 2011, kim ngạch xuất, nhập
khẩu của Việt Nam sang khối các nước ASEAN tương ứng là 13,5 tỷ USD và 20,9 tỷ USD thì
con số này của năm 2013 là 18,4 tỷ USD và 21,3 tỷ USD. Điều này thể hiện khoảng cách giữa
xuất và nhập của Việt Nam đã được rút ngắn và con số xuất khẩu cũng tăng vọt. Riêng 6
tháng đầu năm 2014, kim ngạch thương mại hai chiều ước đạt 20,45 tỷ USD, tăng 3,6% so
với cùng kỳ năm 2013 và chỉ đứng sau 2 thị trường lớn là Mỹ và EU. Khi AEC hình thành,
các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán hàng sang các nước ASEAN gần như bán hàng trong
nước. Đây là một trong những thuận lợi đối với việc lưu chuyển hàng hóa của các doanh
nghiệp. Hơn nữa, các thủ tục xuất nhập khẩu sẽ đỡ rườm rà hơn và việc cải cách thủ tục

xuất xứ, tiến tới cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ cũng sẽ tạo điều kiện thuận
8


lợi cho doanh nghiệp thông quan hàng hoá sang các thị trường ASEAN. Dự báo trước thềm
AEC, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định nhờ được hưởng
ưu đãi thuế quan với tổng số trên 99% dòng thuế của ASEAN 6 là 0% theo Hiệp định ATIGA.
Đây là thời điểm để các doanh nghiệp hết sức linh hoạt, nhạy bén, sớm nhận diện và nắm
bắt những lợi ích tiềm năng từ AEC để thúc đẩy khả năng tăng quy mô kinh tế không chỉ
khối thị trường này mà còn với các thị trường khác; trong đó có các thị trường ASEAN đã
ký các Hiệp định thương mại tự do như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia
và New Zealand. Theo bà Phạm Thị Hồng Thanh, hiện nay, kim ngạch thương mại giữa Việt
Nam với các đối tác trong khu vực ASEAN giai đoạn 2003 - 2013 tăng trưởng đều qua các
năm, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 17,7%. Trong đó, xu hướng tăng trưởng xuất khẩu,
nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN trong giai đoạn 2003 - 2013 tương đối giống
với xu hướng tăng trưởng kim ngạch thương mại Việt Nam - ASEAN. Theo số liệu thống kê
năm 2013, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng truyền thống có thể kể đến như: hàng dệt
may đạt 330 triệu USD (tăng 23%), hàng thủy sản đạt 313 triệu USD (tăng 12,6%), gỗ và
sản phẩm của gỗ đạt 73 triệu USD (tăng 34%). Các mặt hàng công nghiệp tăng cao như:
máy móc thiết bị và phụ tùng khác đạt giá trị xuất khẩu 801 triệu USD, tăng 9%, máy vi
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 1,5 tỷ USD tăng 30%, điện thoại các loại và linh kiện
đạt 2,1 triệu USD, tăng 76%. Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu của Việt 5 Nam sang ASEAN những
năm qua, có thể thấy hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn nhất là dầu thô
(thường chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40%) sau đó là gạo (chiếm tỷ trọng trên 10%).
Như vậy có thể thấy rằng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN chủ yếu là nông sản, hải sản
và khoáng sản thô. Những mặt hàng này tuy hầu hết đều được hưởng thuế nhập khẩu ưu
đãi CEPT tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị thấp, giá cả phụ thuộc vào biến động
trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn định.
2. Thách thức





Thách thức lớn nhất trong AEC đối với Việt Nam hiện tại là sức ép cạnh tranh từ
hàng hóa từ các nước ASEAN: với cơ cấu sản phẩm tương đối giống nhau ở cả 10 nước
ASEAN, việc mở cửa thị trường sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp
Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có sức cạnh tranh yếu và ở các ngành vốn được bảo
hộ cao từ trước tới nay. Trong tương lai, khi các mục tiêu AEC được hoàn tất, những sức ép
từ các khía cạnh khác sẽ xuất hiện, thách thức vì vậy sẽ mở rộng ra các vấn đề khác.
Thách thức về dịch vụ: Nếu mục tiêu tự do lưu chuyển dịch vụ trong AEC được hiện
thực hóa, các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ chắc chắn sẽ bị đặt trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt hơn nhiều (bởi hiện nay các rào cản/điều kiện đối với nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài vào Việt Nam vẫn còn tương đối cao, do đó doanh nghiệp dịch vụ
Việt Nam hiện đang được “bao bọc” khá kỹ lưỡng trong nhiều lĩnh vực dịch vụ); Với việc đẩy
mạnh tự do hóa thương mại nội khối, hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước
thành viên AEC sẽ dần bị xóa bỏ. Tính đến tháng 7 năm 2013, Việt Nam đã giảm thuế nhập
khẩu cho hơn 10.000 dòng thuế xuống mức 0 - 5% theo ATIGA, chiếm khoảng 98% số dòng
thuế trong biểu thuế. Với mức giảm thuế sâu như vậy, trong tương lai, hàng hóa của các
nước ASEAN sẽ tràn ngập thị trường Việt Nam, dẫn đến việc cải thiện tình trạng nhập siêu
của Việt Nam với các nước ASEAN càng trở nên khó khăn hơn. Theo số liệu của Tổng cục
Hải quan, cán cân thương mại Việt Nam - ASEAN nhiều năm qua luôn bị thâm hụt. Kim
ngạch nhập khẩu giai đoạn 2006 - 2008 gấp gần 2 lần so với kim ngạch xuất khẩu. Giai
9




đoạn 2009 - 2013, tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu tuy có giảm nhưng
vẫn ở mức cao. Các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh
của hàng hóa từ các nước khác trên thị trường ASEAN do AEC hình thành sẽ tạo ra thị

trường chung, không còn các rào cản hàng hóa, dịch vụ, vốn…
Thách thức về lao động: Khi AEC hoàn tất mục tiêu tự do lưu chuyển lao động, nếu
không có sự chuẩn bị đầy đủ, lao động Việt Nam tay nghề kém, thiếu các kỹ năng cần thiết
(ngoại ngữ, tính chuyên nghiệp…) có thể sẽ gặp khó khăn lớn. Sự chênh lệch về trình độ phát
triển so với các nước ASEAN - 6, thể hiện cả ở quy mô vốn của nền kinh tế, các doanh nghiệp,
trình độ khoa học kỹ thuật, tay nghề lao động,…Thời điểm cộng đồng ASEAN bắt đầu có
hiệu lực vào năm 2015, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh từ
hàng hóa nhập khẩu, sản phẩm, dịch vụ, đầu tư của các nước ASEAN, đặc biệt là khi các
nước ASEAN loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Một số ngành sẽ phải thu hẹp sản xuất,
thậm chí đóng cửa. vấn đề năng suất lao động của Việt Nam thấp là một trong những thách
thức của Việt Nam. Theo báo cáo về năng suất lao động của ILO, năng suất lao động của
Việt Nam tháp nhất trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương APEC, So với các nước trong
khu vực ASEAN, năng suất trung bình của người lao động Việt Nam thấp dưới một nửa so
với Philippines, 2 người lao động Thái Lan, Mailaysia bằng 5 người lao động Việt Nam, 1
người lao động Singapore bằng 15 người lao động Việt Nam. Như thế chúng ta có thể hình
dung chất lượng của lao động Việt Nam hiện nay thấp như thế nào. Thường thì năng suất
thấp đi liền với tiền lương thấp, nên nhiều người cho rằng đó là lợi thế của nước đi sau.
Nhưng thực tế không đơn thuần như vậy. Tiền lương chỉ hấp dẫn khi nó thấp hơn năng suất
thực (đồng nghĩa với việc người chủ khi trả lương sẽ thu được lợi thế). Tuy 6 nhiên, mức
sống ở Việt Nam ngày càng đắt đỏ như hiện nay đã khiến tiền lương tăng nhanh hơn năng
suất, làm xói mòn lợi thế lao động giá rẻ trong khu vực. Thêm vào đó, nguy cơ của nền kinh
tế chỉ dựa vào lao động giá rẻ và năng suất thấp là rất cao. Bởi vì lao động chất lượng thấp
đồng nghĩa với tính kém đa dạng của các loại kỹ năng, khả năng sáng tạo cũng như hiệu
quả tổ chức. Với những đặc điểm này, Việt Nam sẽ không phải là một điểm đến hấp dẫn cho
những dự án đầu tư mang tính tiên phong về công nghệ hoặc quy mô. Và điều này sẽ là
nguyên nhân tách Việt Nam (và các nước đi sau) ra ngày càng xa các nước đã có một nền
tảng tốt hơn trong ASEAN (như Malaysia, Thái Lan hoặc Indonesia). Năng suất lao động
thấp chỉ là một ví dụ cho thấy nguy cơ có thể lấn át cơ hội như thế nào. Trong khi đó, chúng
ta còn rất nhiều điểm yếu trong môi trường kinh doanh, hệ thống pháp lý, chất lượng chính
quyền, cấu trúc kinh tế, giáo dục dạy nghề...

Kết luận:
Với tính chất là mục tiêu mang tính lộ trình, và với cấu thành là những Hiệp định, Thỏa
thuận đã và đang thực hiện, tại thời điểm hình thành AEC (cuối năm 2015), cơ chế cũng
như chính sách thương mại với các nước ASEAN sẽ không có thay đổi gì đáng kể so với hiện
tại, và do đó cũng sẽ không tạo tác động gây sốc nào đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn cần chủ động để tìm hiểu các nội dung và cam kết của các Hiệp
định đang có hiệu lực trong AEC để tận dụng các cơ hội và hạn chế thách thức từ việc thực
thi các hiệp định này. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới lộ trình thực hiện
các mục tiêu tương lai của AEC để có sự chuẩn bị sẵn sàng cho một khu vực thị trường và
sản xuất chung sẽ được hình thành khi các mục tiêu của AEC được hoàn tất.
10


Ngoài ra, AEC không phải là mục tiêu hội nhập duy nhất của Việt Nam, bên cạnh đó còn rất
nhiều các FTA khác với các đối tác quan trọng, dự kiến sẽ có tác động lớn, mang tính cộng
hưởng đến nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, doanh nghiệp cần tập trung
mọi nỗ lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó có cả việc tận dụng các cơ hội hội
nhập để nâng cao năng lực cạnh tranh, qua đó có thể tồn tại và phát triển được trong thời
gian tới khi Việt Nam hội nhập sâu hơn nữa vào nền kinh tế thế giới.
Tăng cường cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về AEC cũng như các FTA khác mà Việt
Nam đang tham gia. Thông tin cung cấp cần cụ thể và dễ dàng tiếp cận được đối với doanh
nghiệp;



Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với VCCI và các hiệp hội trong quá trình đàm phán cũng
như thực thi các bước hiện thực hóa AEC sau này;
Xây dựng một kênh tham vấn doanh nghiệp thường xuyên và hiệu quả hơn không chỉ
cho đàm phán mà quan trọng hơn là cho quá trình thực thi các cam kết thương mại (đặc
biệt cần có một đơn vị đầu mối cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu nội dung

các AEC, các FTA cũng như tư vấn, giải thích cho doanh nghiệp trong các trường hợp vướng
mắc).

11


12



×