Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Phát triển cộng đồng với việc nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho phụ nữ dân tộc sán chay (cao lan) tại xã ngọc quan, huyện đoan hùng, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.11 KB, 81 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên đà phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Công
cuộc đổi mới về chính trị và kinh tế (công cuộc Đổi mới) được khởi xướng
vào năm 1986 đã đưa Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế
giới trở thành nước có mức thu nhập trung bình chỉ trong vòng một thời gian
ngắn. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả thu được đã xuất hiện những thách
thức mới đang nảy sinh khi đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển.
Tuy đã có những bước tiến đáng kể như giảm tỷ lệ nghèo và hoàn thành
nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ trong đó có bình đẳng giới, song phụ
nữ Việt Nam ngày nay vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức do tình trạng bất
bình đẳng, phân biệt đối xử và thiếu các cơ hội kinh tế. Mặc dù ngày càng có
nhiều công cụ và các điều kiện giúp con người giảm nhẹ sức lao động,
nhưng người phụ nữ ngoài việc tham gia công việc, đóng góp ngày càng
nhiều vào nguồn thu nhập, vẫn phải đảm nhiệm hầu hết các công việc trong
cuộc sống gia đình, do vậy họ có ít thời gian chăm sóc bản thân, tham gia
công tác xã hội và hoạt động vui chơi giải trí. Ngoài ra, phụ nữ còn là nạn
nhân chủ yếu của sự phân biệt đối xử, phải gánh chịu những lạm dụng về thể
xác, tinh thần từ phía người đàn ông.
Đối với những phụ nữ dân tộc ở các vùng đặc biệt khó khăn ít có điều
kiện được tiếp xúc với các dịch vụ an sinh xã hội do trình độ nhận thức của họ
chưa cao. Trong đời sống gia đình các dân tộc thiểu số, phụ nữ thường là đối
tượng chịu nhiều thiệt thòi ở tất cả các mặt: y tế, văn hóa, giáo dục... Các trẻ
em gái sinh ra trong các gia đình này phải chịu thiệt thòi trực tiếp từ việc mẹ
chúng mù chữ hoặc ít học. Việc không được đi học hoặc ít học của người mẹ
dẫn đến chất lượng chăm sóc con cái thấp. Như vậy, những phụ nữ dân tộc
thiểu số có nguy cơ phải đối mặt với nhiều vấn đề hơn so với những phụ nữ
có tri thức và sống ở các vùng đồng bằng, đô thị như: bạo hành gia đình, buôn
bán phụ nữ, sức khỏe phụ nữ và sức khỏe sinh sản, ...




2

Mặc dù trước đó có khá nhiều các đề tài nghiên cứu về vai trò và vị thế
người phụ nữ trên các lĩnh vực xã hội học, tâm lí học, nhân học,…tuy nhiên
các đề tài chưa đề cập một cách cụ thể về vấn đề nâng cao nhận thức về bình
đẳng giới cho phụ nữ dân tộc thiểu số và vận dụng mô hình công tác xã hội
trong quá trình nghiên cứu. Đồng thời, những nghiên cứu này mới chỉ đưa ra
các biện pháp mang tính ngắn hạn chưa có sự đồng bộ và lâu dài mà không
vận dụng một trong nhiều phương pháp rất tích cực hiện nay của công tác xã
hội đó là phương pháp phát triển cộng đồng. Hơn nữa trong phạm vi tỉnh Phú
Thọ cũng chưa có một nhà nghiên cứu hay chuyên gia nào đề cập sâu tới vấn
đề bình đẳng giới của phụ nữ dân tộc thiểu số mà cụ thể hơn là dân tộc Cao
Lan tại xã Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Tính mới, sáng tạo
và sự hấp dẫn của đề tài là một điểm mạnh mà chưa đề tài nghiên cứu trước
đó làm được.
Đề tài “Phát triển cộng đồng với việc nâng cao nhận thức về bình
đẳng giới cho phụ nữ dân tộc Sán Chay (Cao Lan) tại xã Ngọc Quan,
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ” sử dụng phương pháp phát triển cộng
đồng đặc thù của ngành công tác xã hội với mục đích hỗ trợ những phụ nữ
dân tộc thiểu số nâng cao năng lực, tăng cường quyền lợi của chính mình
từ đó đưa nhận thức về vấn đề bình đẳng giới của họ lên mức cao hơn.
Tiếng nói và sự hiểu biết sâu sắc của các nhóm dễ bị tổn thương, trong
trường hợp này là phụ nữ các dân tộc thiểu số, đóng vai trò quan trọng
trong quá trình đẩy mạnh tiến độ thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ,
chung tay vào sự phát triển chung của xã hội. Với việc áp dụng thành công
các kỹ năng cũng như xây dựng một dự án cụ thể trong đề tài này có thể
được nhân rộng và áp dụng cho nhiều khu vực, dân tộc khác trên cả nước
để phụ nữ ngày càng có cơ hội tham gia, nỗ lực đóng góp vào sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề
Trong lịch sử nghiên cứu về vai trò và vị thế của người phụ nữ trên
thế giới có khá nhiều đề tài, bài viết của các tác giả đề cập tới. Điều đó
chứng tỏ vấn đề nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho phụ nữ được


3

quan tâm không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kỳ quốc gia nào nó cũng nhận
được thu hút của các chuyên gia.
Trong công trình nghiên cứu “ Role of women in the 21 st
century( Vai trò của phụ nữ trong thế kỷ 21 ) ” của tác giả Jossett S. Shiner
đã đề cập tới những vấn đề đang được thế giới quan tâm đó là sự bình đẳng
giữa nam và nữ và làm thế nào để người phụ nữ được công nhận giá trị của
mình trên toàn cầu. Ngoài ra tác giả cũng đặt ra vấn đề sự tham gia của phụ
nữ trên các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội từ sản xuất nông nghiệp tới
tham gia vào hoạt động chính trị, từ những người phụ nữ nông thôn tới những
người phụ nữ quyền lực nhất thế giới. Tất cả họ đang cùng tham gia đóng góp
cho xã hội những giá trị không thể phủ nhận, có nhiều cách để người phụ nữ
được công nhận quyền hạn của mình chứ không nhất thiết là phải bắt chước
nam giới. Dĩ nhiên bài viết mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ cá nhân và phạm
vi nhỏ nên chưa đánh giá được vị thế của phụ nữ trên thế giới hiện nay.
Hướng giải pháp cụ thể cũng chưa được đưa ra để giúp những người phụ nữ
đang bị áp bức, hay là nạn nhân của bạo hành gia đình...
Ở Việt Nam, những năm gần đây nhiều chuyên gia đã quan tâm và đi
sâu vào nghiên cứu về lĩnh vực phụ nữ và tăng quyền phụ nữ. Từ lý luận và
thực tiễn cho thấy việc nâng cao nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ trở
nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trong công trình nghiên cứu: “ Vai trò và vị thế của người phu nữ

Sán Chỉ trong gia đình và cộng đồng ở thôn Khuổi Bẻ - Nà Lẩy, Pắc Nặm –
Bắc Kạn ” của tác giả Phạm Thị Phương Thái đã đề cập đến những vấn đề
xung quanh vai trò và vị thế của người phụ nữ dân tộc thiểu số. Đề tài đã tập
trung phân tích thực trạng nhận thức về vai trò, quyền lợi, vị thế và trách
nhiệm trong gia đình và cộng đồng của người phụ nữ Sán Chỉ nói chung và
phụ nữ Sán Chỉ thôn Nà Lẩy - Khuổi Bẻ, Pắc Nặm - Bắc Kạn nói riêng.
Đồng thời phân tích nguyên nhân và đưa ra giải pháp nhằm cải thiện và nâng
cao nhận thức về ý thức về vai trò và vị thế của người phụ nữ Sán Chỉ trong


4

gia đình và cộng đồng ở thôn Khuổi Bẻ - Nà Lẩy, huyện Pắc Nặm – Bắc Kạn.
Với mục đích hỗ trợ phụ nữ Sán Chỉ thay đổi nhận thức, hành vi, thói quen
ảnh hưởng tới sự ý thức về vai trò, trách nhiệm, quyền lợi và vị thế của mình
đối với gia đình và cộng đồng tác giả đề tài đã phân tích các nguyên nhân hạn
chế sự tham gia của người phụ nữ Sán Chỉ. Tuy nhiên đề tài mới chỉ tập trung
vào đối tượng chính là người phụ nữ Sán Chỉ mà chưa quan tâm tới các yếu tố
môi trường xã hội – nơi mà họ sinh sống. Đề tài nghiên cứu cũng chưa vận
dụng hiệu quả các biện pháp của công tác xã hội hoặc đề xuất một phương án
cụ thể, một mô hình có tính lâu dài nhằm mục đích hỗ trợ đối tượng nâng cao
vị thế trong xã hội hiện nay. Hiệu quả dự kiến của đề tài cũng mới chỉ dừng
lại ở việc phụ nữ dân tộc Sán Chỉ tự nâng cao ý thức về vai trò, vị thế của
mình trong gia đình và xã hội. Đồng thời, sẽ cung cấp thêm luận cứ thực tiễn
để các cấp, các cơ quan hữu quan tại địa phương và cộng đồng có thêm quyết
sách hợp lý nhằm quan tâm và giúp đỡ phụ nữ Sán Chỉ tại địa bàn Pắc Nặm Bắc Kạn nâng cao ý thức về vai trò, vị thế và quyền lợi của mình trong gia
đình và xã hội. Trong khi đó chưa đề cập tới việc nâng cao nhận thức cho
cộng đồng xã hội tại địa phương và rộng hơn là trên cả nước về sứ mệnh, vai
trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Trong tác phẩm “Giới, tăng quyền và phát triển – quan hệ giới từ góc

nhìn của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam” của tác giả Phạm Quỳnh
Phương đã đề cập tới quan niệm của người dân tộc thiểu số về việc cùng nhau
chia sẻ công việc gắn với nhu cầu sinh kế để cùng tồn tại, trong hoàn cảnh
thiếu thốn các nguồn lực sản xuất ( đất đai, tiền bạc,… ) đã trở thành tiêu chí
để cộng đồng nhìn nhận về một hình mẫu quan hệ vợ chồng. Việc thực hành
để giữ hình mẫu này là cách để các cá nhân thể hiện sự đồng thuận trước cái
chuẩn mực của cộng đồng mình. Mặc dù quan niệm của người dân tộc thiểu
số không tồn tại nhận thức về bất bình đẳng và họ chấp nhận hành động theo
quy tắc văn hóa truyền thống, nhưng điều đó không có nghĩa là công bằng cho
phụ nữ. Từ khía cạnh nhân quyền, người phụ nữ xứng đáng có được những cơ


5

hội tốt nhất cho sự phát triển của chính họ. Nhìn dưới góc độ này, đối tượng
cần tác động không chỉ là người phụ nữ vì dù được trao quyền nhưng khi họ
vẫn chỉ có thể xoay sở trong cái không gian cũ – bối cảnh văn hóa truyền
thống của họ thì vô hình chung họ vẫn phải tự điều chỉnh để thích ứng với cái
khung xã hội chung. Vì thế bất kì sự thay đổi nào về nhận thức ở cá nhân
người phụ nữ mà không diễn ra tương ứng ở cả cộng đồng và những đối tác
của các mối quan hệ mà phụ nữ có liên quan thì cũng không thể dẫn tới những
thay đổi căn bản nào trong quan hệ giới. Tác giả đã đi sâu vào các ví dụ cụ thể
- những hình mẫu phụ nữ điển hình dân tộc thiểu số dám đứng lên đấu tranh
đồi quyền lợi cho bản thân. Tuy nhiên đề tài cũng chưa chỉ ra được một
phương pháp cụ thể nào để nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho phụ nữ
cũng như cộng đồng mà họ đang sinh sống. Phạm vi tác phẩm mới chỉ dừng
lại ở việc nghiên cứu cách nhìn, thực trạng mà chưa đưa ra hướng đi mới hay
vận dụng các phương pháp của công tác xã hội vào hỗ trợ đối tượng vươn lên
phát triển khả năng của cá nhân.
Trong công trình nghiên cứu “ Sự thay đổi về vai trò và vị trí của phụ

nữ thời kì công nghiệp hóa tiến dần tới nên kinh tế tri thức và chính sách
giới ở một số nước – Một số kiến nghị về công tác xây dựng chính sách nữ
tri thức Việt Nam ” của tác giả Nguyễn Ngọc Lý - Giám đốc Trung tâm
Nghiên cứu về Môi trường và Cộng đồng khác biệt ở sự so sánh vai trò và vị
thế của người phụ nữ trong lịch sử các nước trên thế giới như Mỹ, Thái Lan.
Hàn Quốc,... Sự so sánh tương đối được thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời
sống bao gồm : tỷ lệ phụ nữ trong các vị trí chính quyền, phụ nữ trong các
ngành nghề khoa học, sử dụng Internet, tham gia các trường đại học trong
lĩnh vực liên quan tới toán và máy tính,... Tác giả cũng có một số quan sát về
vai trò và sự phát triển của phụ nữ Việt Nam đồng thời đưa ra một vài kiến
nghị nhỏ nhưng đó mới chỉ là một số đề xuất chưa có tính hệ thống. Ngoài ra
cũng giống như các đề tài nghiên cứu được nói đến ở trên đề tài cũng chưa
đưa ra được một mô hình cụ thể nhằm giúp phụ nữ cải thiện quyền và vị thế


6

của mình trong cộng đồng hiện nay. Đây là một khó khăn lớn không chỉ đối
với mỗi địa phương mà còn là sự đòi hỏi vào cuộc, tham gia của mỗi quốc gia
trên thế giới từ đó có những chính sách thích hợp.
Như vậy, với mỗi một công trình nghiên cứu, khảo sát về vai trò và vị
thế người phụ nữ ở một địa bàn cụ thể, một góc nhìn cụ thể đã dựng nên một
bức chân dung tổng quát nhất về phụ nữ, thực trạng và các nguyên nhân hạn
chế phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa. Các đề tài đó đã góp
phần giúp cho mọi người có cái nhìn bao quát và rõ rệt nhất về giới, sự phát
triển qua nhiều giai đoạn lịch sử những cuộc đấu tranh đòi quyền công bằng
của phụ nữ. Tuy vậy, đề tài “Phát triển cộng đồng với việc nâng cao nhận
thức về bình đẳng giới cho phụ nữ dân tộc Sán Chay (Cao Lan) tại xã
Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ” được nghiên cứu một cách
chi tiết cụ thể hơn, sâu sắc hơn so với các đề tài đã nghiên cứu trước đó. Đặc

biệt đề tài còn đi sâu tìm hiểu tình hình địa bàn người phụ nữ dân tộc Cao Lan
sinh sống, việc tham gia vào bộ máy chính quyền của họ và đề xuất mô hình
hỗ trợ cụ thể để cải thiện vị thế người phụ nữ dân tộc trong cộng đồng. Đề tài
được thực hiện trong phạm vi nhỏ, cụ thể là thôn 10, xã Ngọc Quan, huyện
Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ vì thế ta sẽ có cái nhìn chi tiết, tìm hiểu những điều
kiện thuận lợi, khó khăn, từ đó có phương hướng trợ giúp phù hợp. Khác với
những đề tài đi trước mới chỉ mang tính khái quát, tính lí luận cao thì đây là
một đề tài rất thiết thực và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực trạng vị thế phụ nữ dân tộc Cao Lan tại xã
Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, từ đó vận dụng phương pháp
phát triển cộng đồng nhằm đẩy mạnh sự tham gia, tăng cường vai trò trên mọi
lĩnh vực từ đó nâng cao nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ người dân tộc
Cao Lan trong các hoạt động xã hội tại xã Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng,
tỉnh Phú Thọ.
- Nhiệm vụ nghiên cứu


7



Đánh giá thực trạng sự tham gia, vai trò và nhận thức về bình đẳng

giới của người phụ nữ dân tộc Cao Lan tại xã Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng,
tỉnh Phú Thọ
• Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng để xây dựng dự án
”Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ dân tộc Cao Lan trong các
hoạt động xã hội ” .

4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng mà đề tài tập trung nghiên cứu đó
là nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ dân tộc Cao Lan tại xã Ngọc Quan,
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
- Khách thể nghiên cứu: phụ nữ dân tộc Cao Lan , nam giới và cán
bộ chính quyền cơ sở
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi thôn 13, xã
Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ bao gồm phụ nữ trong đó phụ
nữ dân tộc Cao Lan đang sinh sống trên địa bàn xã Ngọc Quan, huyện Đoan
Hùng, tỉnh Phú Thọ là đối tượng chính, cán bộ xã đang công tác trên địa bàn.
Khoảng 100 người sẽ được nghiên cứu trong đó 70% số phụ nữ dân tộc Cao
Lan, 20% số nam giới tại địa bàn, 10% cán bộ đang công tác. Thời gian
nghiên cứu từ 20/12/2015 đến 20/4/2015
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ dân tộc Cao Lan
và cộng đồng tại xã Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ hiện nay
như thế nào ?
- Sinh viên vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng như thế nào
để hỗ trợ đối tượng giải quyết vấn đề ?
6. Giả thuyết nghiên cứu
Do người phụ nữ dân tộc Cao Lan rất ít tham gia vào các hoạt động
phát triển kinh tế cũng như bộ máy quản lý chính quyền mà chủ yếu là làm
nông nghiệp, nội trợ tại gia đình. Ngoài ra, người phụ nữ lại ít có cơ hội được
tiếp xúc với các chính sách an sinh xã hội và sự quan tâm của chính quyền.
Nếu phát triển đề tài này thì người phụ nữ dân tộc Cao Lan sẽ được tạo
điều kiện tham gia phát triển nâng cao vị thế xã hội. Đồng thời việc phát triển


8


dự án “Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ dân tộc Cao Lan
trong các hoạt động xã hội” cũng thúc đẩy người phụ nữ - chủ thể chính của
vấn đề nhận thức được vai trò từ đó chủ động hơn trong việc tham gia vào quá
trình phát triển xã hội.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong điều tra nghiên cứu về nâng cao nhận thức về bình đăng giới cho
phụ nữ dân tộc Cao Lan tại xã Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
sinh viên đã sử dụng các phương pháp điều tra, nghiên cứu như điều tra bảng
hỏi, phỏng vấn sâu, phân tích tài liệu, quan sát, công tác xã hội đặc thù để có
những thông tin thực tiễn cũng như lý luận, so sánh lý luận với thực tiễn, áp
dụng lý luận trong thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu theo nhiều khía
cạnh. Cụ thể :
7.1. Các phương pháp thu thập thông tin
 Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
- Mục đích: Sử dụng phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
nhằm có được những ý kiến, quan điểm, thực trạng của người phụ nữ, nam
giới dân tộc Cao Lan và cán bộ đang công tác trên địa bàn về sự tham gia, vai
trò, vị thế của người phụ nữ tại đây.
- Nội dung: Trong bảng hỏi có các nội dung khác nhau liên quan tới
vai trò và vị thế của phụ nữ dân tộc Cao Lan tại xã Ngọc Quan, huyện Đoan
Hùng, tỉnh Phú Thọ
- Cách tiến hành:
+ Số lượng mẫu: 100 mẫu
+ Cách chọn mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên
+ Cách tiến hành: Số mẫu được phát được phát cho ba đối tượng trong đó
70% là phụ nữ dân tộc Cao Lan, 20% nam giới, 10% cán bộ tại địa phương.
 Phương pháp phỏng vấn sâu
- Mục đích: Phỏng vấn sâu được sử dụng nhằm thu nhập những ý kiến
chủ quan của người phụ nữ dân tộc Cao Lan về việc tăng quyền và tham gia vào
xây dựng dự án tăng quyền cho chính bản thân trong các hoạt động xã hội.

- Nội dung: Tìm hiểu về sự tham gia, vai trò của những người phụ nữ
tại địa phương; tâm tư, nguyện vọng của họ với mục đích hỗ trợ nâng cao
nhận thức về bình đẳng giới của người phụ nữ trong các hoạt động xã hội.


9

- Cách tiến hành:
+ Số lượng đơn vị phỏng vấn: 10 người
+ Đối tượng: là phụ nữ đang tham gia vào các hoạt động xã hội một
cách tích cực, cán bộ đang công tác trên địa bàn xã.
+ Cách chọn mẫu: Từ một phụ nữ được chọn ta sẽ nhờ phụ nữ đó giới
thiệu cho một phụ nữ khác cũng tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội,
ngoài ra ta có thể liên hệ với một cán bộ chủ chốt nắm tình hình văn hóa – xã
hội tại địa phương cứ như vậy cho tới khi chọn đủ 5 đơn vị nghiên cứu.
+ Cách tiến hành: Sau khi đã lựa chọn được, sinh viên sẽ tiến hành
phỏng vấn và ghi chép lại những thông tin thu thập được (trên cơ sở sự đồng
ý của người được phỏng vấn) dưới các hình thức: ghi âm, ghi chép nhanh
bằng sổ tay cá nhân,...
Những thông tin thu thập được sẽ được tổng hợp và phân tích để thấy
được các quan điểm cá nhân của người phụ nữ về vấn đề nghiên cứu. Để phục
vụ cho việc nghiên cứu của đề tài, sinh viên đã lựa chọn mẫu để nghiên cứu
như sau:
Bảng 1: Mẫu nghiên cứu đề tài “ Phát triển cộng đồng với việc nâng
cao nhận thức về bình đẳng giới cho phụ nữ dân tộc Sán Chay ( Cao Lan ) tại
xã Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ”.


10


Khách thể nghiên cứu

Khảo sát qua

Khảo sát qua phỏng

Tổng

của đề tài
Cán bộ chính quyền

bảng hỏi
10

vấn sâu
3

13

địa phương
Phụ nữ tại địa

75

4

79

phương
Nam giới tại địa


20

3

23

phương
Tổng cộng

105

10

115

Tôi đã xử lý các số liệu thu được từ bảng hỏi và khái quát, phân tích
trong chương 2 về thực trạng vị thế phụ nữ dân tộc Cao Lan tại xã Ngọc
Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.
 Phương pháp phân tích tài liệu
- Mục đích: Phương pháp này được áp dụng để thu thập, phân tích
những vấn đề có liên quan
- Nội dung: Tiến hành thu thập các thông tin có liên quan đến cơ sở lý
luận của đề tài và các thông tin phục vụ cho nghiên cứu thực trạng nhận thức
về bình đẳng giới phụ nữ dân tộc Cao Lan
Cách tiến hành: Thu thập và tiến hành tham khảo, nghiên cứu các tài
liệu, sách báo chuyên ngành Giới và Công tác xã hội; tham khảo một số bài
báo, báo cáo khoa học của những người đã từng nghiên cứu vấn đề liên quan
đến đề tài sau đó hệ thống hóa thành cơ sở lý luận của đề tài.
 Phương pháp quan sát

- Mục đích: Nhằm thu thập các thông tin cụ thể, khách quan liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
- Nội dung: Tìm hiểu về thực tế điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội tại
địa phương, thực trạng tham gia vào các hoạt động xã hội của người phụ nữ
dân tộc Cao Lan.
- Cách tiến hành:
+ Khách thể quan sát: Vì điều kiện hạn hẹp tôi chỉ tiến hành quan sát
người phụ nữ dân tộc Cao Lan trong các hoạt động xã hội tại địa phương.
+ Phương tiện hỗ trợ: máy ảnh, điện thoại...


11

+ Phương pháp quan sát: Trong quá trình quan sát tùy thuộc vào tình
huống quan sát có thể sử dụng linh hoạt các phương pháp như: quan sát tham
dự, quan sát không tham dự, quan sát công khai, quan sát bí mật,....
 Phương pháp công tác xã hội đặc thù
- Phương pháp: Phát triển cộng đồng
- Mục đích: Xây dựng dự án “Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới
cho phụ nữ dân tộc Cao Lan trong các hoạt động xã hội”.
- Cách tiến hành: Thực hiện xây dựng kế hoạch từ đó tiến hành thiết
kế và triển khai dự án phát triển cộng đồng.
7.2. Phương pháp xử lý thông tin bằng thống kê toán học:
Mục đích: Phương pháp này được sử dụng nhằm tổng hợp và xử lý
những thông tin đã thu thập được từ dạng tổng thể sang những thông tin cá
biệt phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài.
- Nội dung: xử lý thông tin được tiến hành bằng chương trình
Microsoft excel
8. Đóng góp về khoa học của đề tài
Về mặt khoa học: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người phụ nữ

đồng thời nâng cao nhận thức về bình đẳng giới của họ là yêu cầu bức thiết từ
rất lâu của mọi quốc gia trên thế giới không chỉ Việt Nam. Nghiên cứu về vấn
đề này sẽ giúp ta có cái nhìn tổng quát và rõ rệt nhất về vai trò và vị thế của
người phụ nữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam mà cụ thể là phụ nữ dân tộc Cao
Lan. Từ đó vận dụng kiến thức lý thuyết đã có được áp dụng vào thực tiễn.
Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng thuận lợi,
khó khăn của người phụ nữ dân tộc Cao Lan ở xã Ngọc Quan, huyện Đoan
Hùng, tỉnh Phú Thọ từ đó đề xuất một số giải pháp và mô hình cụ thể nhằm
giúp họ nâng cao nhận thức về bình đẳng giới không chỉ tại địa phương mà
còn với đông đảo người dân trong cộng đồng.
Ý nghĩa đối với bản thân:
Thông qua quá trình nghiên cứu đề tài, sinh viên nghiên cứu có thêm cơ
hội học hỏi, trau dồi kỹ năng nghiên cứu khoa học.


12

Quá trình tìm hiểu, khai thác thông tin phục vụ đề tài sẽ giúp sinh
viên thực hành các kỹ năng, kiến thức đã được học ở trên lớp. Đồng thời,
đây cũng là cơ hội tốt để sinh viên tích lũy thêm các kiến thức, thông tin về
một số hoạt động hỗ trợ của Công tác xã hội.
9. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
mục lục. Phần nội dung khóa luận có kết cấu 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung
Chương 2: Thực trạng nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ dân tộc
Cao Lan tại xã Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Dự án ” Nâng cao nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ
dân tộc Cao Lan trong các hoạt động xã hội ” tại xã Ngọc Quan, huyện Đoan
Hùng, tỉnh Phú Thọ.



13

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.Khái niệm dân tộc thiểu số
Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước
khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ
thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,
trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất.
Một là: dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý
thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính
trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong cuộc
suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc
là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó- Quốc gia dân tộc.
Hai là: dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc
thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc
gia - Quốc gia có nhiều dân tộc.
Hiện nay chúng ta sử dụng thuật ngữ dân tộc đa số và các dân tộc thiểu
số. Dân tộc Việt Nam hoặc cộng đồng các dân tộc Việt Nam được dùng để chỉ
tất cả các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, có quốc tịch Việt
Nam, không phân biệt nguồn gốc.
Như vậy, trong đề tài này tôi chỉ xin đề cập khái niệm dân tộc theo ý
thứ hai đó là dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những nét đặc thù về

văn hoá; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát triển cao hơn những nhân
tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của
dân cư tộc người đó.


14

Khái niệm dân tộc thiểu số: thuật ngữ này không đồng nghĩa với dân
tộc kém phát triển, càng không phải là dân tộc lạc hậu, khái niệm đó là chỉ
những dân tộc có số người ít hơn so với dân tộc đa số.
1.1.2.Công tác xã hội và phương pháp phát triển cộng đồng
Công tác xã hội:
Công tác xã hội là hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên
nên tảng khoa học chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội ( cá
nhân, nhóm, cộng đồng ) giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh vươn
lên hòa nhập xã hội theo hướng tích cực bền vững.
Phương pháp phát triển cộng đồng:
Định nghĩa của Liên Hợp Quốc: Phát triển cộng đồng là những tiến
trình qua đó nỗ lực của dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính quyền để cải
thiện các điều kiện của kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng và giúp
cộng đồng này hội nhập và đồng thời đóng góp vào điều kiện quốc gia.
Định nghĩa của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam: phát triển cộng đồng là một
phương thức phát triển, dựa trên giả thuyết rằng nhân viên có thể hoạt động
trong một địa phương hoặc cộng đồng để giúp họ phát triển tiềm năng sẵn có
của họ. Trong quá trình này, nhân viên đóng vai trò xúc tác để giúp cộng
đồng nhận định mục tiêu, tiềm năng và các nguồn lực hỗ trợ để đạt mục tiêu.
Như vậy, phát triển cộng đồng có thể hiểu là một tiến trình làm chuyển
hóa cộng đồng nghèo, thiếu tự tin thành cộng đồng tự lực thông qua việc giáo
dục giúp người dân trong cộng đồng nhận thức rõ tình hình, vấn đề hiện tại
của họ, phát huy các khả năng và tài nguyên sẵn có của họ, tổ chức các hoạt

động chung tự giúp, bồi dưỡng và củng cố tổ chức, mở rộng các mối liên kết
tiến tới tự lực phát triển.
Phương pháp tiếp cận dựa vào nội lực để phát triển cộng đồng (ABCD
– Assets Based for Community Developements ) là phương pháp nghiên cứu
phát triển dựa vào nội lực của cộng đồng .
1.1.3.Giới, bình đẳng giới
- Giới: Là phạm trù chỉ đặc điểm vị trí, vai trò và mối quan hệ xã hội
giữa nam giới và phụ nữ.


15

- Giới tính: Là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ.
Giới tính là những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và
không thể thay đổi được.
- Quan hệ giới: Là các mối quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới,
đặc biệt là cách thức phân chia quyền lực giữa nam và nữ.
- Trách nhiệm giới: Là việc nhận thức được các vấn đề giới, sự khác
biệt giới và nguyên nhân của nó, từ đó đưa ra biện pháp tích cực nhằm giải
quyết và khắc phục mọi bất bình đẳng trên cơ sở giới.
- Định kiến giới: là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực
về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.
- Phân biệt đối xử về giới : là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận
hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa
nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
- Phân công lao động trên cơ sở giới: Là sự phân công việc và trách
nhiệm khác nhau giữa phụ nữ và nam giới
- Bất bình đẳng giới: Là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế,
điều kiện và cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong việc thực hiện quyền con người,
đóng góp và hưởng lợi từ sự phát triển của gia đình, của đất nước.

Ngân hàng thế giới đưa ra định nghĩa về bình đẳng giới cụ thể như sau:
“Bình đẳng giới theo nghĩa bình đẳng về luật pháp, về cơ hội – bao gồm sự
bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn nhân lực, vốn và các nguồn lực sản xuất
khác, bình đẳng trong thù lao công việc và trong tiếng nói”. Cách tiếp cận này
không định nghĩa bình đẳng giới theo sự bình đẳng về thành quả.
Một cách hiểu khác đầy đủ hơn và tương đối phổ biến thì bình đẳng
giới là “sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau
giữa nữ giới và nam giới. Nam giới và nữ giới đều có vị thế bình đẳng và
được tôn trọng như nhau.
Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại Điều 5 Luật bình đẳng
giới: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo


16

điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển
đó”.[13; tr.11]
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước, chủ tịch Hồ Chí Minh và
một số chính sách bảo vệ phụ nữ, vấn đề bình đẳng giới của người phụ
nữ trong xã hội
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phụ nữ, bình
đẳng giới của người phụ nữ Việt Nam
Về cơ sở pháp lý, Hiến pháp năm 1946 có quy định: "Tất cả quyền
bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt nam không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo" và "Đàn bà ngang quyền với
đàn ông về mọi phương diện" hay "Tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở
lên không phân biệt gái trai đều có quyền bầu cử …" [ 6; tr.2]. Điều 63 Hiến
pháp năm 1992 quy định: "Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi

phân biệt đối xử với phụ nữ" [ 6; tr.21].Từ Điều 53 đến Điều 74 Hiến pháp
năm 1992 quy định các quyền, nghĩa vụ công dân, trong đó, quy định quyền
bình đẳng nam, nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Trong suốt mấy chục năm qua, vấn đề bình đẳng nam, nữ luôn được
thể hiện trong các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Năm 1982, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Xóa bỏ mọi hình thức
Phân biệt đối xử Đối với Phụ nữ (CEDAW). Năm 2006, Việt Nam đã thông
qua Luật Bình đẳng Giới và năm 2007 thông qua Luật Ngăn chặn và Chống
Bạo lực Gia đình. Các quyền bình đẳng giữa nam và nữ gồm có quyền được
làm việc, được hưởng lương như nhau, quyền sở hữu, thừa kế và quyền lựa
chọn bạn đời khi kết hôn hoặc ly hôn được nhiều luật bảo vệ như Bộ luật
Lao động, Luật Đất đai và Luật Hôn nhân Gia đình. Bên cạnh đó, các nghị
quyết và chiến lược quốc gia được đặt ra như Nghị quyết số 11-NQ/TW của
Bộ Chính trị về Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”
(2007), Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới (2011-2020)...


17

Về chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhìn chung đồng tình với
vấn đề bình đẳng giới cụ thể là Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng Cộng sản Việt Nam có nêu: "Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật
pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng
cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào
các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành, chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức
người mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc". Và sau
đó là Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X cũng nêu: "Nâng cao
trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện bình đẳng giới. Tạo
điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động,

người mẹ, người thầy đầu tiên của con người".
Dựa trên các cơ sở pháp lý cao nhất và chủ trương của Đảng Cộng
sản Việt Nam về vấn đề bình đẳng giới, để thể chế hóa thêm một bước các
quyền bình đẳng giới, Quốc hội Việt Nam đã xây dựng và thông qua Luật
Bình đẳng giới.
Ngoài ra, dự thảo nghị định Quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ
thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số
Đề xuất trên được Bộ Y tế đưa ra tại dự thảo Nghị định quy định chính
sách hỗ trợ phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con
đúng chính sách dân số.
Theo đó, phụ nữ thuộc hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số (bao gồm
cả phụ nữ người dân tộc Kinh có chồng là người dân tộc thiểu số) cư trú tại
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, không
thuộc đối tượng tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, sinh con đúng chính
sách dân số là đối tượng được thụ hưởng chính sách này.
1.2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ, bình đẳng giới
của người phụ nữ Việt Nam


18

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, vấn đề giải
phóng con người khỏi sự áp bức, bất công, đảm bảo cho phụ nữ được quyền
bình đẳng với nam giới là vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm.
Tư tưởng nhất quán xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác
Hồ là nhằm mục đích cao nhất giải phóng con người và ra sức tranh đấu để
đòi lại những quyền thiêng liêng của con người. Trong đó, Người đặc biệt
quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ và đấu tranh bảo vệ quyền bình
đẳng cho họ. Những tư tưởng của Người về vấn đề giải phóng phụ nữ vẫn còn
nguyên giá trị.

Với cách nhìn toàn diện, Bác Hồ nhấn mạnh rằng phụ nữ chiếm một
nửa nhân loại: “Nói đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội”, cũng tương tự:
“Phụ nữ Việt Nam chiếm một nửa tổng số nhân dân ta”; Người còn chỉ rõ:
“Phụ nữ là một lực lượng lao động rất quan trọng”. Vì vậy, theo Người, “
Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng”, “ Nếu
không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa ”. Bác Hồ
phân tích có lý, có tình rằng: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, “Nhất định
phải sản xuất thật nhiều. Muốn sản xuất nhiều thì phải có nhiều sức lao động.
Muốn nhiều sức lao động thì phải giải phóng lao động của phụ nữ”.
Tuy Bác Hồ không viết những tác phẩm lớn về vấn đề giải phóng phụ
nữ, nhưng từng nơi, từng lúc những câu nói của Người về bình đẳng nam nữ
thật giản dị và dễ hiểu.
Quyền bình đẳng thực sự của người phụ nữ theo Bác là “người phụ nữ
Việt Nam đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng mọi quyền công dân”. Vấn
đề bình đẳng nam nữ được Bác đề cập trên nhiều lĩnh vực, nhưng nổi rõ nhất
trên hai lĩnh vực sau:
Một là, lĩnh vực quyền và lợi ích: Trong lời kêu gọi chống nạn thất học,
Bác viết “Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm.[…]. Hai
là, lĩnh vực gia đình người phụ nữ phải vất vả nhiều trong công việc gia đình,
Lênin chỉ rõ: “Mặc dù có mọi luật lệ giải phóng phụ nữ, nhưng phụ nữ vẫn


19

cứ là nô lệ trong gia đình vì công việc nội trợ linh tinh cứ đè nặng lên vai họ,
làm cho họ nghẹt thở mụ mẫm, nhọc nhằn, ràng buộc họ vào bếp núc, vào
buồng con cái, lãng phí sức lực của họ vào một công việc cực kỳ tủn mủn,
làm cho họ nhọc nhằn, gò bó’’..[13; tr.31]
Bác Hồ phê phán mạnh mẽ vấn đề bạo hành trong gia đình, nhất là hiện
tượng chồng đánh vợ. Bác viết “Khinh rẻ phụ nữ, và dã man nhất là thói

đánh vợ… Những thói dã man đánh vợ và ép con cần phải chấm dứt. Lợi
quyền của phụ nữ cần được thực sự bảo đảm”.[14; tr.51]
Từ những phân tích về sự bất bình đẳng nam nữ, Bác Hồ cũng nêu
lên các con đường có thể giải phóng phụ nữ và gợi ý từng đối tượng cụ
thể. Đối với cán bộ lãnh đạo, Bác phê phán những tư tưởng mang nặng
định kiến giới, coi thường phụ nữ. Bác khuyên: “Phải thông cảm sâu sắc
với quần chúng, và ra sức giúp đỡ chị em giải quyết những thắc mắc khó
khăn”. Đối với các đoàn thể phải có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục
pháp luật để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Đối với chính bản thân người
phụ nữ, phải tự đấu tranh vì quyền lợi của mình, không có tư tưởng trông
chờ, ỷ lại. Bác khuyên chị em phụ nữ cố gắng học tập văn hóa, chính trị,
nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Trong công tác và cuộc
sống hàng ngày, Bác Hồ rất coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ và quan tâm,
chăm sóc đến cuộc sống của người phụ nữ.
1.3. Các lý thuyết áp dụng
1.3.1. Thuyết nhận thức hành vi
Nhận thức và hành vi về cơ bản là hai khái niệm hoàn toàn ngược nhau.
Lý thuyết hành vi đôi khi không chấp nhận một số mô hình nhận thức dẫn đến
hành vi vì cho rằng đưa những khái niệm về nhận thức vào còn có thể phương
hại cho tính khoa học của lý thuyết và thực hành “hành vi”.
Lý thuyết nhận thức hành vi quan niệm rằng con người không phải là
sinh vật thụ động bị kiểm soát chặt chẽ của môi trường. Các cách thức con
người hành động đều xuất phát từ sự hiểu biết và nhận thức của họ. Có thể
diễn giải quan điểm của tiếp cận nhận thức hành vi như sau: suy nghĩ, cảm


20

xúc và hành vi liên quan mật thiết với nhau. Suy nghĩ, nhận thức quyết định
sự biểu hiện của cảm xúc và hành vi. Những rối loạn cảm xúc có thể xuất hiện

những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực. Nếu thay đổi những suy nghĩ lệch lạc, tiêu
cực sẽ giúp cá nhân cải thiện được những rối loạn cảm xúc của mình.
Để giúp thân chủ thay đổi nhận thức cho hợp lí ta cần thiết lập một mối
quan hệ nồng ấm, không phê phán thân chủ; thu thập bằng chứng hoặc đặt
một loạt các câu hỏi để phát hiên một loạt những suy luận vô lí trong nhận
thức của thân chủ; thức tỉnh những suy nghĩ lạc quan tích cực và thực tế hơn
ở thân chủ, dừng những suy nghĩ vẩn vơ, tiêu cực bằng cách thay thế những ý
nghĩ tốt đẹp, tích cực hơn.
Trong đề tài này sử dụng thuyết nhận thức hành vi nhằm mục đích tìm
hiểu những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực của đối tượng cần trợ giúp từ đó hỗ trợ
họ nhận ra vấn đề và khắc phục nó. Nhân viên công tác xã hội sẽ hỗ trợ thân
chủ để họ hiểu ra vấn đề mà mình đang gặp phải thay đổi nhận thức từ bên
trong từ đó đưa ra các biện pháp hỗ trợ nhằm thay đổi hành vi sao cho phù
hợp. Đối với người phụ nữ dân tộc nói riêng và cộng đồng người Việt Nam
nói chung đã có truyền thống từ xa xưa thì việc thay đổi một thói quen hay
một cách nghĩ mới là rất khó và cần phải có một quá trình thúc đẩy lâu dài,
bền bỉ. Bù lại kết quả thu được sẽ giúp cho cộng đồng ngày một phát triển và
văn minh hơn, để được như vậy đòi hỏi không chỉ là sự nỗ lực của riêng lẻ
một cá nhân nào mà là sự chung tay của toàn xã hội.
1.3.2. Thuyết nữ quyền
Thuyết nữ quyền ra đời vào khoảng thế kỷ 16 – 17, những người khởi
xướng thuyết này là những người phụ nữ da trắng thuộc tầng lớp trung,
thượng lưu trong xã hội do vậy họ có điều kiện tiếp xúc với tư tưởng tự do.
Thuyết nữ quyền chỉ ra sự bị trị của phụ nữ bắt rễ trong những ràng buộc tập
quán và pháp lý. Xã hội tin tưởng sai lầm rằng do bản chất của mình, phụ nữ
kém hơn nam giới về trí tuệ và thể chất nên xã hội ngăn cản phụ nữ tham gia
hoặc thành công trong những công việc công cộng.


21


Quan điểm chính của thuyết này đề cập đến quyền tự do và bình đẳng
của phụ nữ trong đó: tranh luận và vận động xã hội đảm bảo quyền tự do về
chính trị và kinh tế của phụ nữ; Chú ý làm sang tỏ đặc điểm và ranh giới phân
chia lĩnh vực đời sống của họ và quan hệ bình đẳng nam nữ.
Về bản chất con người thuyết nữ quyền phê phán phân biệt đối xử giới
tính trong xã hội. Cho rằng: con người được nhìn nhận với tư cách chủ thể tư
duy duy lý cơ bản giới tính chỉ là một đặc điểm ngẫu nhiên. Giới tính chỉ
được tính đến khi liên quan đến khả năng cá nhân đó thực hiện một nhiệm
vụ, công việc đặc biệt hoặc chiếm lợi thế của cơ hội mới nào đó đang mở ra.
Công nhận ở nhiều xã hội hiện nay, khung bình đẳng giới được cải thiện
nhiều, song sự phân biệt này vẫn tồn tại dai dẳng trong các thiết chế phi
chính thức.
Về ranh giới lĩnh vực công cộng – riêng tư và sự phụ thuộc của phụ nữ:
Các tư tưởng tự do kinh điển phân chia rạch ròi giữa các lĩnh vực công cộng
và riêng tư. Gia đình là một lĩnh vực phi chính trị do vậy không thuộc mối
quan tâm của Nhà nước. Thuyết nữ quyền tự do phê phán sự phân chia tách
biệt giữa hai lĩnh vực này, cho rằng đó là cứng nhắc, giáo điều, là nguyên
nhân dẫn đến hoặc duy trì sự bất lợi về văn hóa – xã hội với phụ nữ.
Trong đề tài này, việc vận dụng thuyết nữ quyền nhằm mục đích nghiên
cứu sự tham gia và đóng góp của phụ nữ trên các lĩnh vực đặc biệt là ở mảng
văn hóa - xã hội. Đồng thời tìm hiểu về nâng cao nhận thức của người dân tại
địa phương nói chung và người phụ nữ dân tộc Sán Chay nói riêng về quyền
tự do và bình đẳng của họ.
1.4. Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ quyền, nâng cao vai trò
và vị thế của phụ nữ Việt Nam hiện nay
1.4.1. Luật Bình đẳng giới
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam đã rất chú trọng tới vấn đề
bình đẳng giới và nó đã được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật mà Hiến
pháp năm 1946 đã nói tới rất rõ. Khi luật Bình đẳng giới ra đời đã càng chứng

tỏ sự quan tâm đặc biệt mà Nhà nước và xã hội dành cho phụ nữ thông qua
việc ban hành các điều luật trên các lĩnh vực. Cụ thể là:


22

Luật số 73/2006/QH11 của Quốc hội : Luật Bình đẳng giới ban hành
ngày 29 tháng 11 năm 2006 qui định về bình đẳng giới bao gồm 6 chương, 44
điều.Trong đó:
Ðiều 4 của Luật bình đẳng giới quy định mục tiêu bình đẳng giới là:
Xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong
phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng
giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa
nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Điều 6 của Luật bình đẳng giới quy định các nguyên tắc cơ bản về bình
đẳng giới, bao gồm: Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình, không bị phân biệt đối xử về giới, biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới, chính sách bảo vệ và hỗ
trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới, bảo đảm lồng ghép vấn
đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật, thực hiện bình đẳng
giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân [8; tr.33].
Quyền bình đẳng trên một số phương diện: chính trị, kinh tế và lao
động, giáo dục và đào tạo, y tế, gia đình được quy định từ điều 11 đến điều
18, chương 2 [17].
1.4.2. Luật Phòng chống Bạo lực gia đình
Phụ nữ là đối tượng rất dễ bị tổn thương do mắc phải các vấn đề có liên
quan tới bạo lực gia đình. Thông qua nghiên cứu thống kê cho thấy hiên nay
có gần 5% phụ nữ thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ trong đó có
nhiều vụ việc thương tâm và gây phẫn nộ dư luận như: vụ người chồng do
bực tức đã bắt vợ cởi quần áo, chui vào cũi chó và khóa lại, sau đó gọi mẹ

vợ sang chứng kiến. Rồi lại vụ người vợ xin ly hôn vì bị bạo hành quá nhiều
lần đã bị người chồng cắt hai núm vú bỏ vào cốc rượu.
Một cuộc điều tra khác cũng cho biết có 21, 2% cặp vợ chồng đã kết
hôn cho biết đã trải qua một trong những hình thức bạo lực gia đình như bị
đánh, mắng, nhục mạ... Cuộc điều tra cho thấy hành vi bạo lực gia đình vẫn
tồn tại ở 1/5 các cặp vợ chồng. Nạn nhân chủ yếu là người phụ nữ và con cái


23

trong gia đình. Tình trạng bạo lực xuất hiện ở các cặp vợ chồng từ 31 đến 40
tuổi phổ biến hơn các nhóm tuổi khác [15; tr.13].
Năm 2010, ở Việt Nam, cứ ba phụ nữ có gia đình hoặc đã từng có gia
đình thì có một người (34%) cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành
thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có hoặc từng có gia đình hiện đang phải
chịu một trong hai hình thức bạo hành này chiếm 9%. Nghiên cứu quốc gia
về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam được Chính phủ Việt
Nam và Liên Hợp Quốc công bố ngày 25/11/2010, có hơn một nửa (58%)
phụ nữ Việt Nam cho biết đã từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức
bạo lực gia đình [13; tr.8].
Ngoài ra, trong luật cũng nêu ra các cơ sở trợ giúp nạn nhân bị bạo lực
gia đình cụ thể ở điều 26, mục 2, chương 3 về bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị
bạo lực gia đình.
1.4.3. Luật Bảo hiểm xã hội
Đảng và Nhà nước đã dành rất nhiều sự quan tâm cho sức khỏe của
người phụ nữ bởi xã hội nhận ra vai trò của người phụ nữ là duy trì sự phát
triển xã hội, phát triển giống nòi. Thiên chức của người phụ nữ là sinh con đẻ
cái, chính vì vậy trong luật bảo hiểm xã hội Chính phủ đã phân tách rất rạch
ròi về quyền lợi của người phụ nữ ở chế độ thai sản tại mục 2, chương 3 như:
Điều 29: Thời gian hưởng chế độ khi khám thai. Điều 30: Thời gian

hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu. Điều 31: Thời gian
hưởng chế độ khi sinh con.
Những điểm trên cho thấy hiện nay chế độ chăm sóc cho phụ nữ ngày
càng được quan tâm hơn. Sự cống hiến của phụ nữ ngoài xã hội và sứ mệnh
lớn lao duy trì nòi giống, bảo đảm quá trình phát triển xã hội đang dần được
Nhà nước và xã hội nhìn nhận một cách khách quan. Tạo điều kiện để người
phụ nữ không cảm thấy bị thệt thòi là trách nhiệm không chỉ của các cấp các
ngành mà còn là nghĩa vụ của cả cộng đồng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1


24

Bất bình đẳng giới đã trở thành một vấn đề toàn cầu bởi nó xảy ra ở
mọi lúc và ở khắp nơi trên thế giới. Các hành vi định kiến giới rất đa dạng
và ảnh hưởng khá nặng nề tới sức khỏe cũng như tâm lý của nạn nhân bị
bạo hành giới. Chính vì thế mà khi còn lâm thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhắc đi nhắc lại vai trò giới, nhấn mạnh đến sứ mệnh của người phụ nữ
trong lịch sử dựng nước và giữ nước khi đấu tranh và chăm sóc gia đình ở
thời đại hiện nay.
Nghiên cứu về bình đẳng giới các nhà khoa học đã vận dụng cũng như
có nhiều công trình tìm hiểu về các lý thuyết chỉ rõ nguyên nhân cũng như
phương pháp hỗ trợ phụ nữ vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Để ngăn chặn và phòng ngừa tình trạng bất bình đẳng giới, nhiều
chính sách được ban hành, cụ thể là Luật Bình đẳng giới có hiệu lực từ
ngày 29 tháng 11 năm 2006. Nhằm triển khai luật này một cách có hiệu quả
đòi hỏi sự đồng thuận của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự tham gia của
những nạn nhân của bất bình đẳng giới, góp phần ngăn ngừa tiến tới loại
trừ bất bình đẳn giới.



25

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHẬN THỨC VỀ BÌNH ĐẲNG
GIỚI CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC CAO LAN TẠI XÃ NGỌC QUAN,
HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ
2.1. Khái quát về xã Ngọc Quan, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Ngọc Quan là một xã trung du miền núi thuộc huyện Đoan Hùng cách
trung tâm huyện khoảng 4km về phía Bắc, tổng diện tích tự nhiên là 1.420,28
ha. Phía Bắc giáp xã Phong Phú, phía Nam giáp xã Sóc Đăng và Yên Kiện,
phía Đông giáp thị trấn Đoan Hùng, phía Tây giáp xã Tây Cốc. Xã có vị trí
địa lý, mạng lưới giao thông thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu, thông thương,
vận chuyển hàng hóa tới các vùng lân cận [12; tr.1].
Về đất đai xã Ngọc Quan có địa hình đồi núi thấp xen kẽ với cánh đồng
bằng phẳng, diện tích đất rừng lớn tạo thế mạnh cho phát triển lâm nghiệp.
Tuy nhiên địa hình đồi núi tạo nên một phần khó khăn trong quá trình
san tạo mặt bằng để xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình hạ tầng và sử
dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Địa bàn xã không có sông hồ
lớn nên lượng nước tưới chủ yếu phụ thuộc vào lượng mưa hằng năm nên khó
chủ động việc cung cấp nước tưới trong sản xuất nông nghiệp. Địa bàn cư trú
của dân tộc Cao Lan nói chung và phụ nữ dân tộc Cao Lan nói riêng nằm tại
thôn 13 của xã Ngọc Quan, có địa hình khá hạn chế bới thôn nằm tách biệt và
cách trung tâm xã khá xã, chỉ có duy nhất một con đường dẫn vào thôn. Ngoài
ra, thôn giáp với đồi núi nên khá hạn chế trong việc giao lưu với các vùng
xung quanh và phát triển kinh tế, chủ yếu là trang trại và trồng cây sản xuất.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế
Trong những năm gần đây, kinh tế xã Ngọc Quan đã có những bước
phát triển tương đối tích cực chủ yếu ở các lĩnh vực : nông – lâm nghiệp –

thủy sản và xây dựng nông thôn mới, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và
thương mại, cơ sở hạ tầng, thủy sản, tài chính – ngân sách. Trong đó, lĩnh vực
lâm nghiệp có diện tích rừng trồng tập trung là 98 ha thuận lợi cho việc thu


×