Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận lịch sử văn minh thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.02 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TIỂU LUẬN

LỊCH SỬ VĂN MINH NHÂN LOẠI
Giảng viên: TS. Nguyến Thị Hạnh
Học viên:
Lớp: Cao học LL&PPDH Lịch sử – K10

Hà Nội 06/2015


PHẦN NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......

ĐIỂM
Bằng số

Bằng chữ

Hà Nội, ngày …. tháng …. Năm 2015


Giảng viên

TS . Nguyến Thị Hạnh


Đề bài: Anh(chị) hãy lựa chọn những thành tựu tiêu biểu của
nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp. Phân tích nó trong cái
nhìn đối sánh đối với nền văn minh thời cổ trung đại.
BÀI LÀM
Phần I: MỞ ĐẦU
Loài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã
sáng tạo ra những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Nhưng mãi đến
cuối thiên kỉ IV TCN, xã hội nguyên thủy bắt đầu tan rã ở Ai Cập, nhà
nước bắt đầu ra đời, từ đó loài người mới bắt đầu bước vào thời kì văn
minh.

Người ta thường chia quá trình tiến hoá văn minh nhân lọai làm 3

thời kỳ: 1. văn minh nông nghiệp (cuộc cách mạng khoa học công nghệ
lần thứ nhất) từ 8000 TCN tới thế kỷ XVII( tương ứng với thời kì cổ,
trung đại); 2. Văn minh công nghiệp (cách mạng khoa học công nghệ lần
thứ hai) từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX; 3. Văn minh trí tuệ
(cuộc cách mạng công nghệ lần thứ ba) từ giữa thế kỷ XX tới nay. Mỗi
một thời kỳ lại có những nét đặc trưng trong tư duy, lối sống.
Đặc trưng của văn minh nông nghiệp là kinh tế tự cung tự cấp,
là sự lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên, mối liên hệ huyết thống và mối liên
hệ giữa cá nhân và cộng đồng rất mật thiết. Quan hệ người với người
mang tính truyền thống.
Đặc trưng của văn minh công nghiệp là sức máy thay sức người
thông qua phân công lao động, cơ giới hoá, điện khí hoá, chuyên môn hoá,

vì vậy năng suất cao. Kinh tế là kinh tế công nghiệp, thương mại.
Đặc trưng của văn minh tri thức - trí tuệ là điều khiển học thông
qua tự động hoá, chương trình hoá. Động lực phát triển là những bước đại


nhảy vọt về năng suất lao động thông qua sức sáng tạo “thần kỳ” của trí
tuệ. Đời sống vật chất cao, xã hội thoáng cởi mở, con người xa rời truyền
thống để sống độc lập hơn, tự do hơn.
Chúng ta có thể nhận thấy, ngày nay, trong nền văn minh hậu công
nghiệp, những giá trị vật chất và tinh thần mà con người có được là rất to
lớn, đồ sộ hơn rất nhiều so với thời kì văn minh cổ trung đại. Đó là thành
quả của con người trong việc chinh phục, cải tạo tự nhiên, xã hội để phục
vụ và nâng cao đời sống của mình. Nói cách khác, những thay đổi từ thời
cổ trung đại cho tới ngày nay đều nhằm phục vụ những yêu cầu của đời
sống con người. Ở mỗi thời kì, những đòi hỏi của đời sống con người là
khác nhau nên những thành tựu con người có được cũng khác nhau. Cuộc
sống con người càng hiện đại, những đòi hỏi của con người ngày càng cao
và cũng chính vì vậy, những cải tiến về khoa học, kĩ thuật…sẽ không bao
giờ dừng lại.
Chúng ta hãy tìm hiểu một số thành tựu tiêu biểu của nền văn minh
công nghiệp và hậu công nghiệp và đối sánh chúng với nền văn minh cổ,
trung đại để thấy được: sự thay đổi về mục tiêu, hoàn cảnh, nhu cầu của
cuộc sống con người đã khiến con người sáng tạo nên những giá trị vật
chất và tinh thần ngày càng nhiều và nâng cao.
Phần II: NỘI DUNG
I. Các nền văn minh lớn trên thế giới
Trong thời cổ đại, tức là từ cuối thiên kỉ IV, đầu thiên kỉ III TCN,
đến những thế kỉ trước sau CN, ở phương Đông tức là ở châu Á và ở Đông
Bắc châu Phi có bốn trung tâm văn minh lớn, đó là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn
Độ và Trung Quốc. Có một tình hình chung nổi bật là cả bốn trung tâm



văn minh này đều nằm trên những vùng chảy qua của những con sông lớn.
Đó là sông Nin ở Ai Cập, sông Ơphrat và sông Tigrơ ở Tây Á, sông Ấn
(Indus) và sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang ở
Trung Quốc. Chính nhờ sự bồi đắp của những dòng sông lớn ấy nên đất
đai ở những nơi này trở nên màu mỡ, nông nghiệp có điều kiện phát triển
trong hoàn cảnh nông cụ còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của nhà
nước, do đó cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh, và hơn thế nữa
đã sáng tạo nên những nền văn minh vô cùng rực rỡ.
Muộn hơn một ít, ở phương Tây đã xuất hiện nền văn minh của Hy
Lạp cổ đại. Nền văn minh Hy Lạp có cơ sở đầu tiên từ thiên kỉ III TCN,
nhưng tiêu biểu cho nền văn minh Hy Lạp là những thành tựu từ khoảng
thế kỉ VII TCN trở về sau.
Đến thế kỉ VI TCN, nhà nước La Mã bắt đầu thành lập. Kế thừa và
phát triển văn minh Hy Lạp, La Mã trở thành trung tâm văn minh thứ hai
ở phương Tây. Đến thế kỉ II TCN, La Mã chinh phục Hy Lạp và tiếp đó
chinh phục các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp ở phương Đông, trở
thành đế quốc rộng lớn, hùng mạnh, duy nhất ở phương Tây. Văn minh La
Mã vốn chịu ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp, vốn có cùng một phong
cách, giờ đây lại hòa đồng làm một, nên hai nền văn minh này được gọi
chung là văn minh Hy-La.
Văn minh Hy-La vô cùng xán lạn, là cơ sở của văn minh châu Âu
sau này. Nhưng sau khi đế quốc Tây La Mã diệt vong, nền văn minh đó bị
lụi tàn, mãi đến thế kỉ VI, văn minh phương Tây mới bắt đầu được phục
hưng và từ đó mới phát triển mạnh mẽ và liên tục cho đến ngày nay.


Như vậy, trên thế giới có hai khu vực văn minh lớn: phương Đông
và phương Tây. Thời cổ đại, phương Đông có bốn trung tâm văn minh là

Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc.
Thời trung đại, cả Tây Á và Ai Cập đều nằm trong bản đồ đế quốc
Arập nên ở phương Đông chỉ còn lại ba trung tâm văn minh lớn ở Arập,
Ấn Độ và Trung Quốc. Trong các nền văn minh ấy, văn minh Ấn Độ và
Trung Quốc được phát triển liên tục trong tiến trình lịch sử. Ngoài những
trung tâm văn minh lớn còn có những nền văn minh của các quốc gia nhỏ
và của từng thời kì lịch sử như nền văn minh sông Hồng, nền văn minh
Đại Việt...
Ở phương Tây, thời cổ đại chỉ có nền văn minh Hy-La, đến thời
trung đại cũng chỉ có một trung tâm văn minh mà chủ yếu là Tây Âu.
Ngoài những nền văn minh ở lục địa Á, Âu, Phi, ở châu Mỹ, trước
khi bị người da trắng chinh phục, tại Mêhicô và Pêru ngày nay đã từng tồn
tại nền văn minh của người Maya (Mayas), Adơtec (Aztèque) và Inca
(Incas).
Đến thời cận đại, do sự tiến bộ nhanh chóng về khoa học kĩ thuật,
nhiều nước phương Tây đã trở thành những quốc gia phát triển về kinh tế
và hùng mạnh về quân sự. Dựa vào ưu thế đó, các nước này đua nhau
chinh phục thế giới. Cùng với việc biến hầu hết các nước ở châu Á, châu
Phi và Mỹ La tinh thành thuộc địa của các cường quốc châu Âu, văn minh
phương Tây đã truyền bá khắp thế giới.
Tuy trong lịch sử, trên thế giới đã tồn tại những nền văn minh như
vậy, nhưng những nền văn minh ấy không phải hoàn toàn biệt lập với
nhau. Thông qua các hoạt động như chiến tranh, buôn bán, truyền giáo...,


các nền văn minh ấy đã được tiếp xúc với nhau, do đó đã học tập lẫn nhau.
Nhiều thành tựu của văn minh Trung Quốc, Ấn Độ và Arập không những
đã truyền bá cho nhau mà còn truyền sang Tây Âu. Ngược lại, Ấn Độ và
Tây Á cũng đã tiếp thu nhiều yếu tố của văn minh Hy Lạp. Đến thời trung
đại, trước thế kỉ XVI, phương Tây vẫn lạc hậu hơn phương Đông, do đó

phương Tây đã học tập rất nhiều phát minh quan trọng của phương Đông
như chữ số, toán học, y học, kĩ thuật làm giấy, nghề in, thuốc súng, la bàn,
thậm chí cả phong cách giao tiếp và nếp sống văn minh. Chính những
thành tựu đó đã góp phần rất quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển rất
nhanh chóng của nền văn minh phương Tây.
II. Khái quát những thành tựu của nền văn minh công nghiệp
và hậu công nghiệp.
1.1. Những thành tựu của nền văn minh công nghiệp.
1.1.1. Những phát minh về kĩ thuật trong cách mạng công
nghiệp.
Cuộc cách mạng công nghiệp với những phát minh về kĩ thuật nhằm
nâng cao năng suất lao động nổ ra đầu tiên ở nước Anh, sau đó lan sang
các nước châu Âu khác đã tạo ra bước tiến lớn về kĩ thuật, làm thay đổi cơ
bản bộ mặt của Châu Âu và thế giới. Đây được coi là cuộc cách mạng
khoa học công nghệ lần thứ hai của con người ( Văn minh nông nghiệp
được coi là cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ nhất). Khác với
cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ nhất ( diễn ra trong lĩnh vực
nông nghiệp là chủ yếu), cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ hai
chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực công nghiệp mà thành tựu của nó đã tạo ra
bước ngoặt trong lịch sử con người. Con người đã chuyển sang một thời


đại mới: Văn minh công nghiệp. Những thành tựu căn bản của cuộc cách
mạng công nghiệp này như:
Năm 1733 John Kay đã phát minh ra "thoi bay". Phát minh này đã
làm người thợ dệt không phải lao thoi bằng tay và năng suất lao động lại
tăng gấp đôi.
Năm 1765 James Hagreaves đã chế được chiếc xa kéo sợi kéo được
8 cọc sợi một lúc. Ông lấy tên con mình là Jenny để đặt cho máy đó.
Năm 1769, Richard Arkwright đã cải tiến việc kéo sợi không phải

bằng tay mà bằng súc vật, sau này còn được kéo bằng sức nước.
Năm 1785, phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải của
linh mục Edmund Cartwright. Máy này đã tăng năng suất dệt lên tới 40
lần.
Phát minh trong ngành dệt cũng tác động sang các ngành khác. Lúc
bấy giờ, các nhà máy dệt đều phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy,
điều đó bất tiện rất nhiều mặt.Năm 1784, James Watt phụ tá thí nghiệm
của trường Đại học Glasgow (Scotland) đã phát minh ra máy hơi
nước.Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào.Không
những thế phát minh này còn có thể coi là mốc mở đầu quá trình cơ giới
hóa.
Ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784 Henry
Cort đã tìm ra cách luyện sắt "puddling".Mặc dù phương pháp của Henry
Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu về độ bền của máy móc.Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh
ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép.Phát minh này đã đáp
ứng được về yêu cầu cao về số lượng và chất lượng thép hồi đó.


Cách mạng cũng diễn ra trong ngành giao thông vận tải. Năm 1804,
chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước đã ra đời. Đến năm
1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng
nổ hệ thống đường sắt ở châu Âu và châu Mĩ.
Năm 1807, Robert Fulton đã chế ra tàu thủy chạy bằng hơi nước
thay thế cho những mái chèo hay những cánh buồm.
1.1.2. Phát minh khoa học kỹ thuật.
Vào thế kỉ XVII và XVIII, khoa học đã đạt được những thành tựu
lớn đặc biệt trong các ngành thiên văn, vật lí, hóa học, y học.
Người phát triển và ủng hộ tính đúng đắn của học thuyết
Copernicus là nhà bác học Đức, Johannes Kepler.Kepler đã đưa ra 3 định

luật về sự chuyển động của các thiên thể.Định luật thứ nhất, ông khẳng
định Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời, không những thế ông còn xác
định được quĩ đạo chuyển động của nó không phải là đường tròn mà là
hình elíp.Định luật thứ hai, Kepler chứng minh vận tốc chuyển động của
hành tinh tăng lên khi đang tới gần Mặt Trời và giảm dần khi nó chuyển
động xa Mặt Trời.Định luật thứ ba, ông đã xác lập được công thức toán
học giữa thời gian cần để hành tinh chuyển động hết một vòng quanh Mặt
Trời và khoảng cách giữa nó với Mặt Trời.
Galileo Galilei, một nhà thiên văn học người Ý đã chế tạo ra kính
thiên văn để quan sát bầu trời. Galilei cũng là người ủng hộ nhiệt tình học
thuyết Copernicus. Ông còn là người trực tiếp làm thực nghiệm về sự rơi
tự do trên tháp nghiêng Piza. Có thể nói Galilei là người tiến hành hàng
loạt thí nghiệm một cách có hệ thống.Vì vậy, sau này người ta coi Galilei
là cha đẻ của phương pháp thực nghiệm khoa học.


Một nhà vật lí người Anh, William Gilbert trong một quyển sách
xuất bản năm 1600 đã giải thích Trái Đất như một cục nam châm khổng lồ
tạo ra một từ trường (nhưng không mạnh), điều đó làm kim la bàn chỉ
xoay về hướng Bắc. Ông còn nghiên cứu về hiện tượng tĩnh điện. Ông
thấy rằng không chỉ có hổ phách khi bị chà xát mới hút các vật nhẹ mà có
những thứ khác như thủy tinh... cũng có tính chất như vậy. Ông gọi đó là
"hiện tượng hổ phách" - electric (từ electron theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là
"hổ phách").
Isaac Newton là một nhà bác học người Anh, ông được coi là nhà
vật lí vĩ đại nhất của thế kỉ 18. Đóng góp vĩ đại nhất của Newton nằm
trong 3 định luật mang tên ông mà nổi bật là định luật Vạn vật hấp dẫn. Có
thể coi Newton là hòn đá tảng của nền vật lí cổ điển. Tác phẩm vĩ đại của
Newton là Các nguyên lí toán học của triết học tự nhiên.
Về hóa học, Joseph Priestley là một luật sư người Anh đã khám phá

ra ôxy.
Y học cũng có nhiều tiến bộ. Adreas Vesalius, một nhà khoa học
người Bỉ đã cho in cuốn sách về cấu trúc cơ thể người. Để viết được cuốn
sách này, ông đã phải nghiên cứu rất nhiều tử thi.Ông phê phán những
người chỉ biết vùi đầu vào những cuốn sách của các nhà y học thời cổ đại.
William Harvey, một nhà sinh lí người Anh đã nghiên cứu rất nhiều
về hệ tuần hoàn của chim, cá, ếch. Ông đã mô tả về hệ tuần hoàn máu
trong cơ thể người qua quyển sách Tiến hành giải phẫu đối với sự chuyển
động của tim và máu trong cơ thể loài vật.
Vào thế kỉ XIX, cuộc cách mạng tri thức trong thế kỉ XVIII đã tạo
điều kiện cho những tiến bộ ở những thế kỉ sau đó.


John Dalton, một giáo viên người Anh cho rằng mọi vật chất đều
cấu tạo bởi các nguyên tử. Nguyên tử của các chất khác nhau thì có khối
lượng khác nhau. Các nguyên tử hợp thành từng đơn vị (bây giờ ta gọi là
phân tử). Ông còn miêu tả chúng bằng những công thức hóa học.
Một phát minh vĩ đại về mặt hóa học là Bảng hệ thống tuần hoàn
năm 1869 của Dmitri Mendeleev, một nhà hóa học Nga. Ông đã xắp xếp
các chất hóa học thành từng nhóm theo khối lượng riêng, tính chất riêng
của chúng. Ông còn dự đoán một số chất mà loài người sẽ phát hiện ra để
lấp vào chỗ trống trong bảng tuần hoàn của ông với một sự chính xác đáng
kinh ngạc.
Năm 1800, Alessandro Volta (Ý) đã chế tạo ra pin do tác động của
hoạt động hóa học. Năm 1831, Michael Faraday đã chứng minh dòng điện
sẽ xuất hiện khi ta di chuyển ống dây qua một từ trường.Phát minh của
Faraday đã tạo cơ sở cho việc chế tạo ra máy phát điện sau này.
Năm 1860 James Clerk Maxwell, một nhà khoa học người Scotland,
đã đưa ra lí thuyết giải thích ánh sáng bản chất cũng là một dạng của sóng
điện từ mà trong khoảng mắt người nhìn thấy được. Tới năm 1885,

Heinrich Hertz đã chứng minh được tốc độ khác nhau của các loại sóng
điện từ khác nhau. Sau này người ta lấy tên Hertz để đặt cho đơn vị đo chu
kì.
Năm 1895, một nhà khoa học người Đức khác là Wilhelm Röntgen
đã tạo ra một loại tia có thể đâm xuyên qua các vật thể rắn, ánh sáng
không thể xuyên qua được. Ông gọi đó là tia X.
Năm 1898, hai ông bà Pierre Curie và Marie Curie đã tinh chế được
chất radium và phát hiện ra tính phóng xạ của nó.


Về mặt thông tin, phát minh quan trọng phải kể tới là năm 1876
Alexander Graham Bell đã phát minh ra máy điện thoại đầu tiên. 1879
Thomas A. Edison đã làm cho điện phát sáng để phục vụ cuộc sống.
Về mặt kĩ thuật, đầu thế kỉ 19 khí đốt và gas đã được người Anh và
Pháp đưa vào phục vụ cuộc sống.1897 một kĩ sư người Đức là Rudolf
Diesel đã chế ra một loại động cơ đốt trong không cần bugi, sử dụng dầu
cặn nhẹ.Động cơ Diesel chính là mang tên ông.
Về y học, phát minh quan trọng của thế kỉ 19 phải kể tới Louis
Pasteur, ông đã đế ra cách ngừa bệnh mới là sử dụng vaccin.
Về sinh học, phát minh quan trọng của thế kỉ 19 phải kể tới Charles
Darwin.Năm 1859 Darwin đã cho ra đời tác phẩm Nguồn gốc các loài qua
con đường chọn lọc tự nhiên. Trong tác phẩm đó ông trình bày 3 ý tưởng
chủ yếu: đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên, sự tồn tại của giống thích
ứng với môi trường tốt nhất đã trở thành cơ sở của học thuyết tiến hóa cổ
điển.
Về di truyền học, Gregor Mendel (Áo) đã đưa ra học thuyết chứng
minh sự di truyền những phẩm chất của thế hệ trước cho thế hệ sau qua
những phân tử cực nhỏ, mà sau này được gọi là gen.
Về tâm lí học, cuối thế kỉ XIX có hai phát minh quan trọng là của
Ivan Pavlov và Sigmund Freud.Pavlov đã phát hiện ra phản xạ có điều

kiện. Thử nghiệm của Pavlov đã giải thích nhiều hành vi của con người
không giải thích được bằng lí trí, thực tế chỉ là sự phản ứng máy móc
trước các kích thích đã trở thành tập tính. Còn học thuyết của Freud thì
giải thích nhiều hành động của con người xuất phát từ những nhu cầu, ước
muốn tiềm ẩn.Freud đã tạo ra ngành phân tâm học.


1.1.3. Phát minh học thuyết chính trị.
Vào thế kỉ XIX ra đời học thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc
gia dân tộc.
Những cuộc cách mạng tư sản đã tạo điều kiện giải phóng con
người khỏi những sự kiềm chế độc đoán của chế độ phong kiến. Con
người ngày càng có ý thức về quyền tự do của các cá nhân và quyền bình
đẳng giữa các dân tộc. Trong điều kiện như vậy, những học thuyết về
quyền tự do cá nhân và quyền của các dân tộc đã được hình thành.
Về quyền tự do cá nhân phải kể tới những tư tưởng của John Stuart
Mill qua tác phẩm Luận về tự do. Mill đã nêu lên nguyên tắc là cá nhân có
thể làm bất cứ điều gì miễn là không hại tới người khác, không ảnh hưởng
tới quyền tự do của người khác. Trong thực tế cuộc sống, việc thực hiện
nguyên tắc này còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí và sự nghiêm
minh của pháp luật.
Alexis de Tocqueville thì viết tác phẩm Nền dân chủ Hoa Kì.Qua
tác phẩm này, ông cho rằng trào lưu dân chủ đang lên là không thể nào
ngăn cản được. Ông ca ngợi tinh thần dân chủ, sự thành công và sức mạnh
vật chất của nước Mĩ, nhưng ông cũng đồng thời phê phán tính cách thiếu
tế nhị, ngạo mạn, thực dụng của nền văn hóa Mỹ theo cách nhìn của người
Pháp.
Về quyền của các dân tộc thì lại có hai xu hướng trái ngược
nhau.Xu hướng thứ nhất cho rằng mỗi dân tộc đều có quyền chọn cách
sống riêng cho dân tộc mình, không dân tộc nào khác có quyền xâm phạm.

Nhà ái quốc người Ý Giuseppe Mazzini đã để cả cuộc đời mình kiên quyết
đấu tranh bảo vệ quan điểm này.


Xu hướng thứ hai thì ngược lại, một số nhà lí luận của các dân tộc
lớn thì cho là dân tộc mình siêu đẳng hơn, có sứ mệnh phải giúp các dân
tộc khác khai hóa văn minh, chỉ bảo cho các dân tộc kém hơn cách sống
hợp lí. Họ còn lợi dụng học thuyết của Darwin về cạnh tranh sinh tồn để
áp dụng vào xã hội.Lí luận này được giới thực dân rất ủng hộ vì nó chứng
minh cho sự "cần thiết" của các cuộc chiến tranh xâm lược các vùng đất
chưa phát triển.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện từ thế kỉ XVI với tác
phẩm về Utopia của Sir Thomas More, tư tưởng này phản ánh ước mơ một
xã hội công xã nông thôn thanh bình dựa trên nền sản xuất nông nghiệp
kết hợp với thủ công nghiệp. Các nhà tư tưởng chủ nghĩa xã hội của thế kỉ
XIX đã thấy sự tất yếu của một xã hội công nghiệp.Từ đó họ nảy sinh tư
tưởng xây dựng một hạn chế bóc lột, hạn chế sự cách biệt giàu nghèo,
khắc phục những mặt tiêu cực của xã hội tư bản.Tiêu biểu cho các nhà xã
hội chủ nghĩa không tưởng của thế kỉ XIX là Saint Simon, Charles
Fourrier và Robert Owen.
Saint Simon nhận thấy mâu thuẫn giữa các nhà một bên là các nhà
tư sản giàu có và một bên là những người làm thuê rất nghèo khổ. Ông
chủ trương xây dựng một xã hội mới do "những nhà công nghiệp sáng
suốt" điều hành, trong đó mọi người đều lao động theo kế hoạch và được
hưởng thụ bình đẳng. Để xây dựng một xã hội như vậy, ông chủ trương
thuyết phục các nhà tư bản chứ không theo con đường bạo lực cách mạng.
Charles Fourrier cũng phê phán sự bất công của xã hội tư bản, ông
vạch rõ "sự nghèo khổ sinh ra từ bản thân sự thừa thãi". Ông vạch ra dự án
xây dựng các công xã Falange trong đó mọi người đều lao động, coi lao



động là nguồn vui. Trong các công xã có sự kết hợp giữa công nghiệp với
nông nghiệp. Sự hưởng thụ sản phẩm được chia theo tỉ lệ: 5/12 cho lao
động, 4/12 cho tài năng, 3/12 cho những người góp vốn xây dựng Falange.
Ông kêu gọi những người giàu có góp vốn xây dựng Falange, nhưng lời
kêu gọi của ông chẳng được ai đáp lại.
Học thuyết của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng đầy tính nhân
đạo nhưng đều thất bại khi đem ra thi hành.Nói như chúng ta ngày nay là
thiếu tính khả thi. Tuy vậy, những tư tưởng của họ đã ảnh hưởng quan
trọng tới sự ra đời học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học sau này do
Karl Marx xây dựng.
Kark Marx và Friedrich Engels đã xây dựng về học thuyết chủ
nghĩa xã hội khoa học qua tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất
bản tháng 2 năm 1848.
Trong Tuyên ngôn Marx và Engels đã chứng minh lịch sử loài
người là lịch sử của sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội nối tiếp
thay thế nhau, xã hội sau sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn xã hội
trước. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển trong xã hội có giai
cấp.Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản sẽ dẫn tới sự xuất hiện một xã
hội mới công bằng hơn, tiến bộ hơn. Giai cấp công nhân, tổ chức ra chính
đảng của mình lãnh đạo một cuộc cách mạng vô sản, tiến lên xây dựng
chính quyền của mình và thiết lập mối quan hệ giữa công nhân các nước
theo tinh thần quốc tế vô sản.
Đầu thế kỉ XX, Vladimir Ilyich Lenin đã phát triển thêm lí luận của
Marx và Engels và vận dụng lí luận đó vào hoàn cảnh nước Nga, chỉ đạo


phong trào đấu tranh ở Nga đi tới thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917.
1.1.4. Thành tựu văn học nghệ thuật.

* Văn học
Lịch sử thời cận đại đã được văn học châu Âu phản ánh một cách
sinh động, đặc biệt là văn học Pháp.
Sau thất bại của Napoléon Bonaparte và sự phục hồi tạm thời của
các thế lực bảo hoàng, ở Pháp đã xuất hiện một dòng văn học lãng mạn thể
hiện sự nuối tiếc một thời vàng son đã qua của giới quí tộc.
Victor Hugo là một nhà văn tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tiến
bộ.Ông thể hiện sự thông cảm với những người nghèo khổ qua các tác
phẩm Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức bà Paris.Qua các tác phẩm,
Hugo thể hiện lòng khát khao muốn vươn tới một xã hội tốt đẹp, công
bằng và chan chứa tình nhân đạo.
Xã hội tư bản khắc nghiệt, tàn bạo cũng đã được phản ánh qua dòng
văn học hiện thực mà tiêu biểu là Honoré de Balzac.Những tác phẩm tiêu
biểu của ông như Eugénie Grandet, Miếng da lừa... và nhiều tác phẩm
khác.Những tác phẩm đó của Balzac đã được tập hợp trong bộ Tấn trò
đời.Những tác phẩm như Đỏ và Đen của Stendhal, Viên mỡ bò của Guy
de Maupassant cũng phản ánh xã hội tư bản đầy bất công, tàn bạo.
Văn học Nga của thế kỉ XIX cũng có những đóng góp quan trọng
với các tác phẩm như Chiến tranh và hoà bình của Lev Nikolayevich
Tolstoy. Những nhà văn tên tuổi khác của nền văn học Nga thế kỉ 19 phải


kể tới là Ivan Sergeyevich Turgenev, Nikolai Vasilevich Gogol, Fyodor
Mikhailovich Dostoevsky, Bielixki...
* Nghệ thuật
Âm nhạc thời cận đại thế kỉ XVIII với sự đóng góp của những nhạc
sĩ lớn như Johann Sebastian Bach, Wolfgang Amadeus Mozart, thì đế thế
kỉ XIX có sự đóng góp vĩ đại của Ludwig van Beethoven, Frédéric
Chopin...
Hội họa theo xu hướng lãng mạn thường đi tìm những phương trời

xa lạ. Danh họa Eugène Delacroix) thường vẽ những kị sĩ Ả Rập, những
cuộc đi săn.Đến cuối thế kỉ XIX, danh họa người Tây Ban Nha Francisco
Goya đã vẽ những cảnh tàn khốc trong cuộc chiến tranh chống Napoléon.
Điêu khắc thế kỉ XIX không để lại nhiều tác phẩm như thời Phục
Hưng. Nhà điêu khắc Frédéric Bartholdi đã hoàn thành bức tượng Nữ thần
Tự do để chính phủ Pháp gửi tặng nước Mỹ. Một phiên bản nhỏ, cao gấp
1,5 lần người thật của bức tượng này cũng được đặt tại Hà Nội ở một công
viên Vườn hoa Bà Đầm, tiếc rằng phiên bản này ngày nay không còn nữa.
Chúng ta chỉ còn thấy dấu vết qua đồng 50 xu tiền Đông Dương xưa kia.
Khải Hoàn Môn ở Paris và nhiều dinh thự ở Paris cũng còn giữ lại được
một số tác phẩm điêu khắc giá trị của thế kỉ XIX.
Kiến trúc Âu-Mỹ của thế kỉ XIX rất đa dạng, thể hiện một sự giao
lưu văn hóa rộng mở. Nét mới về kiến trúc giai đoạn này là quan điểm
hiện thực xâm nhập vào kiến trúc qua các vật liệu mới như thép, bê tông,
kính dày. Một nhà kiến trúc Louis Sulivan đã đưa vào các công trình kiến
trúc tư tưởng công năng.Theo ông, các công trình kiến trúc phải được thiết
kế phù hợp với chức năng của chúng.Chẳng hạn một ngân hàng hiện đại


không thể giống một đền đài tôn giáo, một thương xá không thể giống một
lâu đài trung cổ. Đặc biệt là kiến trúc hành chính thời kì này thể hiện một
phong cách rõ rệt mà tiêu biểu là tòa nhà Quốc hội Mỹ (1793-1851) và tòa
nhà Quốc hội Anh (1840-1865).
Thế kỉ XIX đã đánh dấu bước ngoặt căn bản chuyển từ lao động
bằng tay sang lao động bằng máy. Loài người đã chuyển từ nền văn minh
nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. Nền văn minh công nghiệp
đã tạo ra cách nhìn mới, kéo theo những biến đổi lớn về chính trị, văn hóa,
xã hội. Loài người bước vào một giai đoạn mới của văn minh nhân loại.
1.2. Những thành tựu của nền văn minh hậu công nghiệp.
Văn minh hậu công nghiệp còn được gọi với cái tên “ Văn minh trí

tuệ”, tương ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba. Cũng
như cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ hai, cuộc cách mạng
khoa học công nghệ lần thứ ba đã tạo ra bước nhảy vọt trong đời sống con
người. Những thành tựu cơ bản con người đạt được trong cuộc cách mạng
lần này gồm:
1.2.1. Khoa học cơ bản
Đạt được những thành tựu to lớn đánh dấu bước nhảy vọt chưa từng
có trong lịch sử ở các ngành: toán, lí, hoá, sinh
- Toán học: quá trình toán học hoá khoa học được đẩy mạnh
- Hoá học: Sản xuất những vật liệu hoá học
- Vật lí: Sản xuất vật liệu mới, công cụ mới, năng lượng mới...
- Sinh học: cuộc cách mạng xanh, phỏng sinh học, công nghệ sinh
học, sinh học phân tử


1.2.2. Công cụ sản xuất mới.
- Chế tạo ra máy điện tử, máy tự động và hệ thống máy tự động
- Máy tính cổ xưa và máy tính hiện đại
- Máy hàn tự động, dây chuyền sản xuất tự động.
1.2.3. Nguồn năng lượng mới.
- Tìm ra những nguồn năng lượng mới hết sức phong phú, vô tận:
năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử, năng lượng nhiệt hạch, năng
lượng thuỷ triều, năng lượng gió....Pin năng lượng mặt trời, nhà sử dụng
năng lượng mặt trời, nhà máy điện nguyên tử
Năng lượng mới được ứng dụng rộng rãi đem lại hiệu quả kinh tế
cao, thay thế các nguồn năng lượng đang có nguy cơ cạn kiệt và bảo vệ
môi trường.
1.2.4. Vật liệu mới.
- Chế tạo ra nhiều loại vật liệu mới đáp ứng nhu cầu của sản xuất:
Polime, caosu nhân tạo, titan,

- Vật liệu tổng hợp (siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn...)
- Titan dùng trong công nghiệp vũ trụ
- Chất siêu dẫn dùng trong các vi mạch điện tử.
1.2.5. Cách mạng xanh trong nông nghiệp
- Cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, thuỷ lợi hoá… Lai tạo
giống mới với những đặc tính ưu việt hơn -> Năng suất cao, khắc phục
được nạn đói, sử dụng máy móc hiện đại
- Các phương pháp lai tạo giống mới trong phòng thí nghiệm


1.2.6. Giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Đạt nhiều tiến bộ thần kì
- Máy bay hành khách siêu âm khổng lồ, tàu hoả siêu tốc, tàu thuỷ
có tọng tải lớn, máy bay không người lái, vệ tinh nhân tạo...
- Vệ tinh nhân tạo để phát triển công nghệ thông tin ( thông tin liên
lac, vô tuyến truyền hình, mạng internet...)
-> Phục vụ cho sự phát triển của xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của con người
1.2.7. Cuộc chinh phục vũ trụ.
- 1957 phóng thành công vệ tinh nhân tạo
- 1961 bay vào vũ trụ
- 1969 thám hiểm mặt trăng
- Ngày nay đã có những phát hiện kì diệu về những hành tinh ngoài
trái đất.
1.2. Một số thành tựu tiêu biểu của văn minh công nghiệp và
hậu công nghiệp đối sánh với nền văn minh cổ, trung đại.
1.2.1. Thành tựu tiêu biểu của văn minh công nghiệp.
Như trên đã nói, những thành tựu của nền văn minh công nghiệp rất
nhiều và đã làm thay đổi căn bản bộ mặt của thế giới. Trong những thành
tựu đó phải kể đến những thành tựu như: phát minh ra máy hơi nước,

những thay đổi trong kĩ thuật luyện thép, hệ thống chính trị dân chủ…
* Máy hơi nước.


Máy hơi nước được James Watt, phụ tá thí nghiệm của trường Đại
học Glasgow (Scotland) phát minh ra năm 1784. Máy hơi nước ra đời
trong hoàn cảnh trước đó đã có nhiều phát minh về máy móc làm tăng
năng suất lao động, tuy nhiên, các máy móc đó mặc dù đã làm tăng năng
suất lao động lên khá cao nhưng lại phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện tự
nhiên. Đó là những chiếc máy sử dụng sức nước. Để có thể sử dụng
chúng, các nhà máy phải đặt cạnh các con sông; mặt khác về mùa đông,
nước đóng băng, những cỗ máy này sẽ không hoạt động được. Yêu cầu đặt
ra là: làm sao để có một chiếc máy có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh.
Trong bối cảnh đó, máy hơi nước đã ra đời.
Máy hơi nước ra đời không chỉ khắc phục được sự phụ thuộc vào
kiện tự nhiên, mà nó còn làm tăng năng suất lao động bởi công suất lớn và
úng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác, đặc biệt trong lĩnh vực giao
thông vận tải. Năm 1804, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng máy
hơi nước đã ra đời. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ.
Với những công dụng to lớn của máy hơi nước, việc phát minh ra
máy hơi nước có ý nghĩa không khác gì việc con người tìm ra lửa ở thời kì
nguyên thủy.
Những gì con người làm được với máy hơi nước thời kì này là hiện
thực hóa những ước mơ, những ý tưởng…ở thời kì cổ trung đại.
Ở thời kì cổ đại, con người cũng có những mong muốn làm sao tạo
ra được những cỗ máy để phục vụ đời sống và họ cũng đã chế tạo được
một số cỗ máy đơn giản như: Rôbốt chim bay: robot đầu tiên được tạo ra
bởi một nhà toán học Hy Lạp cổ đại tên là Archytas (400-350 tr.CN). Ông
còn được mệnh danh là “cha đẻ của kỹ thuật cơ khí” với phát minh ra một



chim bồ câu bằng gỗ sử dụng hơi nén để làm cho nó có thể bay được. Đặc
biệt con chim này có thể bay từ 200-300m trước khi hết hơi nước. Dù có
thể con chim được ông tạo ra với mục đích khác nhưng rõ ràng nó đã đem
lại cho nhân loại một con robot đầu tiên;
Cối xay gạo bằng nước: Từ thế kỷ 16 trước Công nguyên, cối xay
gạo bằng tay đầu tiên đã được tìm thấy. Nhưng cối xay sử dụng lực nước
đầu tiên được tìm thấy vào khoảng thế kỷ 3 trước Công nguyên thuộc về
người Hy Lạp. Sau đó một số chiếc cối khác tương tự cũng được tìm thấy
ở Athens. Tuy nhiên các nhà sử học cho rằng, việc sử dụng cối xay gạo
như vậy có trước ở Hy Lạp rồi mới được du nhập sang La Mã. Các bằng
chứng cho thấy loại cối này đến từ kỹ sư Hy Lạp có tên là Philo;
Cỗ pháo sử dụng thủy động lực: Hiện nay các nhà khoa học đã tìm
thấy bằng chứng người Hy Lạp cổ đại là tác giả của cỗ pháo đầu tiên. Đó
chính là khẩu pháo hơi nước do Archimedes thiết kế trong cuộc Bao vây
Syracuse. Vũ khí này được đánh giá thuộc loại tiên tiến ở thời đại đó và có
thể bắn quả pháo có trọng lượng khoảng 2,6 kg, bay xa khoảng 1.100 m.
Nó cũng được coi là khẩu súng đầu tiên trên thế giới hoạt động bằng thủy
động lực.
Cửa tự động: Cửa tự động đầu tiên được phát minh ở Hy Lạp cổ đại
để đáp ứng cho một xã hội đa thần ở đây. Khi mọi người đến dâng cúng
thần linh thì các cánh cửa của bàn thờ tự động mở ra nhờ vào một đốt lửa
trong bàn thờ.


Ý tưởng này cũng được sử dụng để di chuyển các bức tượng trong
nơi thờ tự. Người ta tin Heron thuộc Alexandria là người đầu tiên thiết kế
cửa tự động, làm việc dựa trên khí nén hoặc hơi nước.
Những gì con người làm được thời cổ dại như đã nói trên cho thấy
sức sáng tạo của con người là rất lớn. Song con người chưa thể có máy hơi

nước thời kì này bởi những điều kiện tự nhiên và xã hội chưa cho phép.
Nói cách khác, họ chưa hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết để có thể chế
tạo ra một chiếc máy như vậy chứ không phải năng lực của con người hạn
chế.
* Những thay đổi trong kĩ thuật luyện thép.
Kim khí được con người tìm thấy và sử dụng từ rất sớm, khoảng
5500 năm TCN. Chính sự xuất hiện của kim khí là nguyên nhân sâu xa
dẫn đến sự tan rã của xã hội nguyên thủy, thay vào đó là xã hội có giai cấp
và nhà nước đầu tiên – xã hội cổ đại – đưa con người bước vào thời kì văn
minh. Với vai trò to lớn của mình, kim khí ngày càng được con người sử
dụng phổ biến để chế tạo công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt… Theo đó
kĩ thuật luyện kim từng bước được cải tiến.
Ở thời kì cách mạng công nghiệp, kĩ thuật luyện kim đã có bước cải
tiến rất lớn. Ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784
Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt "puddling".Mặc dù phương pháp của
Henry Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu về độ bền của máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã
phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép. Phát minh
này có ý nghĩa vô cùng to lớn: đã đáp ứng được về yêu cầu cao về số


lượng và chất lượng thép hồi đó. Trong thời đại công nghiệp, người ta cần
rất nhiều thép để chế tạo máy móc, làm cầu đường, đóng tàu, xây dựng các
công trình kiến trúc. Về chất lượng, các lĩnh vực trên cũng đòi hỏi chất
lượng thép phải tốt.
Phát minh luyện thép bằng lò cao đã thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa ở châu Âu và thế giới sau này. Góp phần quan trọng đưa con
người bước vào thời đại công nghiệp.
Thuật luyện kim ra đời cùng với việc con người phát hiện và sử
dụng kim khí. Có nghĩa là nó có từ thời cổ đại. Theo thời gian, kĩ thuật

luyện kim ngày một cải tiên để đáp ứng yêu cầu của con người trong việc
cải tiến công cụ sản xuất. Thời cổ đại,kĩ thuật luyện kim còn nhiều hạn
chế. Sản phẩm làm ra còn lẫn nhiều tạp chất vì vậy con người phải trải qua
quá trình rèn đi rèn lại nhiều lần mới có được sản phẩm như ý. Sự hạn chế
đó kéo theo sự phát triển chậm chạp của xã hội, mặc dù từ khi sử dụng
công cụ bằng kim khí đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt của con người.
Thời cổ, trung đại con người chưa thể có lò cao bởi những yêu cầu của
cuộc sống chưa bức thiết như thời kì cách mạng công nghiệp. Nhu cầu chế
tạo máy móc, làm cầu đường, xây dựng… đòi hỏi phải có nhiều sắt với
chất lượng tốt, từ đó buộc con người phải tìm cách để đáp ứng yêu cầu
trên.
* Hệ thống chính trị dân chủ tư sản.
Là một biến đổi lớn, cũng chính là một thành tựu tiêu biểu của thời
kì công nghiệp đó chính là sự ra đời và thiết lập một hệ thống chính trị
mới – hệ thống chính trị dân chủ tư sản. Đây là kết quả của cuộc đấu tranh


lâu dài, là kết quả của các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại. Cách mạng
tư sản nổ ra ở các nước châu Âu từ thế kỉ XVI, kéo dài sang đầu thế kỉ XX
đã lật đổ chế độ phong kiến cùng những tàn tích của nó, thiết lập chế độ
mới: Tư bản chủ nghĩa; tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
Cùng với đó nền dân chủ tư sản được thiết lập. Mặc dù còn nhiều hạn chê,
song thể chế dân chủ tư sản đã tiến bộ hơn hẳn so với chế độ quân chủ
thời kì phong kiến cũng như các chế độ chính trị trước nó. Điểm khác biệt
cơ bản thể hiện ở quyền con người. Dưới chế độ dân chủ, quyền và các giá
trị của con người được đề cao. Điều này không tồn tại trong chế độ phong
kiến thời trung đại ở cả phương Đông và phương Tây.
Nhìn lại lịch sử thời cổ đại, chế độ dân chủ đã từng tồn tại ở các nhà
nước Hi Lạp và Rô Ma cổ đại. Tuy nhiên, ở thời Hi Lạp và Rô ma cổ đại
thể chế dân chủ là “ dân chủ chủ nô”, chứa đựng nhiều hạn chế như: tính

dân chủ chỉ ở một số ít người có quyền công dân đó là chủ nô và bình dân
thành thị; còn phần lớn người dân còn lại, chủ yếu là nô lệ thì không được
hưởng quyền công dân, thậm chí họ còn bị coi như những công cụ biết
nói.
Như vậy, ở thời đại văn minh công nghiệp, với việc nền dân chủ
được thiết lập cùng với các quyền của con người được công nhận đã khiến
cho con người như được cởi trói, từ đó con người ta có thể thoải mái phát
huy trí tuệ và không ngừng cho ra đời những phát minh, sáng chế vĩ đại
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của loài người trên mọi lĩnh vực.
1.2.2. Thành tựu tiêu biểu của văn minh hậu công nghiệp.
1.2.2.1. Nguồn gốc.


×