Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cả cuộc đời phụng sự Tổ quốc, phụng
sự nhân dân, Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản tinh thần
vô giá; đó là tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng ấy chứa đựng những chân lý bền vững mang tính định hướng đó
được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm. Tư tưởng đó của Người không
chỉ có ý nghĩa định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta trong đấu tranh giải phóng
dân tộc; mà còn có giá trị mang tính định hướng bền vững cho toàn Đảng, toàn dân
ta trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng
của Người về cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó là kết quả của sự nhận thức sâu
sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng
thân dân truyền thống ở phương Đông và những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về dân chủ. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn,
Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa
học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Nền dân chủ
mà chúng ta đang xây dựng là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là nhu
cầu khát khao, nguyện vọng của cả Dân tộc Việt Nam; đồng thời nó cũng là mục
tiêu, động lực to lớn cho những thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta những
năm vừa qua. Ở nước ta cùng với quá trình xây dựng CNXH; Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đã từng bước tạo lập những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của
nền dân chủ XHCN; quyền lực xã hội của nhân dân được xác định trong Hiến pháp
và pháp luật; nhu cầu dân chủ của nhân dân ngày càng phát triển; ý thức và năng
lực thực hành dân chủ của nhân dân ngày càng được nâng cao... Bên cạnh những
1
mặt mạnh trên, trong đời sống dân chủ xã hội còn tồn tại một số hạn chế như: Còn
biểu hiện dân chủ hình thức trên một số lĩnh vực, hiện tượng vi phạm dân chủ, vi
phạm công bằng xã hội, quan liêu, chuyên quyền, độc đoán... chậm được khắc
phục. Những hiện tượng trên là do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước còn thấp; vai trò, chức năng của các thành tố trong hệ thống chính trị chưa
thực sự phát huy cao; tệ quan liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn; trình độ văn
hóa dân chủ và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân còn thấp... Vì vậy, nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và sự vận dụng của Đảng ta vào xây dựng
nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay là vấn đề quan trọng và cấp thiết.
2
Chng 1
T TNG H CH MINH V DN CH
1.1. Bn cht ca dõn ch trong t tng H Chớ Minh
K tha v tip thu nhng tinh hoa vn húa nhõn loi, giỏ tr truyn thng
tt p ca dõn tc v nhng quan im ca ch ngha Mỏc - Lờnin v dõn ch, H
Chớ Minh khng nh bn cht ca dõn ch tc l dõn l ch v dõn lm ch. T ú
ngi ch rừ a v ca nhõn dõn l ngi ch i vi xó hi v nhõn dõn l ch th
ca quyn lc xó hi. õy l ni dung ct lừi trong t tng H Chớ Minh v dõn
ch, phn ỏnh giỏ tr cao nht, chung nht ca dõn ch l quyn lc thuc v nhõn
dõn, Ngi núi Nc ta l nc dõn ch, a v cao nht l dõn, vỡ dõn l ch 1
ch ta l ch dõn ch, tc l dõn lm ch 2. Vn ny ó khng nh giá
trị xã hội đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số nhân dân
những quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng
xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân dân. ú l quyn dõn ch,
quyn t do, cụng bng, bỡnh ng thc s ca qun chỳng nhõn dõn. Chớnh vỡ vy
trong sut cuc i hot ng chớnh tr ca mỡnh t khi ra i tỡm ng cu nc
n khi phi t gió cừi i, H Chớ Minh ch cú mt ham mun, ham mun tt bc
l lm cho nc nh c c lp, nhõn dõn c t do, ng bo ai cng cú cm
n ỏo mc, ai cng c hc hnh. Ngi ó lm tt c thc hin c lp - T
do - Hnh phỳc cho T quc, cho dõn tc v nhõn dõn. Ngi ó rỳt ra mt chõn lý
vnh hng khụng ch cho dõn tc m cũn cho c nhõn loi "khụng cú gỡ quý hn c lp
t do".
Trong "Tuyờn ngụn c lp" khai sinh ra nh nc Vit Nam dõn ch cng
ho ngy 2-9-1945, Ngi ó th hin ý chớ v quyt tõm ca c dõn tc trong cuc
u tranh vỡ c lp t do: "Nc Vit Nam cú quyn hng t do v c lp, v s
. H Chớ Minh, Ton tp, Nxb CTQG, H. 1995, tp. 6, tr. 515.
. H Chớ Minh, Ton tp, Nxb CTQG, H. 1995, tp.7, tr.499.
1
2
3
tht ó thnh mt nc c lp. Ton dõn tc Vit Nam quyt em tt c tinh thn v
lc lng, tớnh mng v ca ci gi vng quyn t do c lp y" 3. ú chớnh l
tuyờn ngụn v dõn ch gn lin vi t do, bỡnh ng v cụng bng xó hi. Nú th
hin khỏt vng chớnh ỏng v quyn dõn ch v lm ch ca nhõn dõn Vit Nam,
khng nh thnh qu v i trong cuc u tranh vỡ dõn ch m nhõn dõn Vit Nam
ó ginh c.
Bn cht ca dõn ch theo t tng H Chớ Minh cũn c th hin vn
thc hin quyn lc ca nhõn dõn thụng qua ch dõn c. Do ú, dân chủ phải trở
thành một hình thức tổ chức nhà nớc, thông qua tổ chức và quản lý của nhà nớc mà
nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối với xã hội. Theo quan im ca ch
ngha Mỏc - Lờnin, dõn ch l mt ch chớnh tr - xó hi, dõn ch tt yu tn ti
gn vi mt nh nc, mt ch chớnh tr - xó hi nht nh. Vỡ vy, dõn ch luụn
mang tớnh giai cp. Dõn ch t c n õu ph thuc vo bn cht ca nh nc
v bn cht ca giai cp thng tr. Nh nc chớnh l c quan quyn lc c nhõn
dõn y quyn t chc qun lý xó hi v thc hin quyn lm ch ca nhõn dõn.
Thm nhun quan im ca ch ngha Mỏc - Lờnin, H Chớ Minh c bit
nhn mnh s cn thit phi xõy dng ch dõn ch, th ch chớnh tr v th ch
nh nc dõn ch. Trit lý c bn ca Ch tch H Chớ Minh khi t chc xõy dng
mt ch chớnh tr cỏch mng u tiờn nc ta c túm tt trong hai t dõn ch.
Cú th núi, Tuyờn ngụn c lp khai sinh ra nc Vit Nam dõn ch cng hũa,
õy l Tuyờn ngụn v quyn lc chớnh tr v bn cht ca ch chớnh tr dõn ch
ca nc ta. ú l t tng ht sc quan trng ca Ch tch H Chớ Minh, Ngi ó
khng nh bn cht nn dõn ch XHCN l nh cao ca nn dõn ch.
i vi H Chớ Minh, trong xõy dng ch dõn ch thỡ vic xõy dng mt
Nh nc phỏp quyn ca dõn, do dõn, vỡ dõn l mt nhim v cc k quan trng,
bi ú l c s phỏp lý cho vic bo m quyn lm ch ca nhõn dõn trong thc
. H Chớ Minh, Ton tp, Nxb CTQG, H. 1995, tp.4, tr.56.
3
4
tế. Trước hết, Hồ Chí Minh luôn khẳng định Nhà nước của ta là Nhà nước của dân.
Quan điểm xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nhân dân là chủ thể quyền
lực, nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh
của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung, chứ Nhà nước không phải là nơi để "thăng
quan, phát tài", chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Người khẳng định: "Bao
nhiêu quyền hạn đều là của dân… chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do
dân cử ra"4. Thấu suốt quan điểm đó, ngay sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu
tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân
lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà; có như thế
dân mới thực hiện được nguyện vọng và ý chí của mình. Lần đầu tiên trong lịch sử,
tất cả công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử, đó quả là điều hết sức mới
mẻ đối với nhân dân lao động Việt Nam. Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra thành công
vào ngày 6 tháng 1 năm 1946 và sau đó Quốc hội chính thức tổ chức ra bộ máy nhà
nước. Sự kiện này đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trên thực tế nhằm huy động
toàn thể nhân dân tham gia quản lý đất nước, nhân dân đóng vai trò làm chủ đất nước.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, đã là Nhà nước của dân thì chính quyền ấy nhất
thiết phải do dân quyết định, tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực,
hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu của mình. Đó là những hình
thức cơ bản của nền dân chủ. Dân chủ vừa là thành quả đấu tranh cách mạng của
dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do đó theo Người Nhà nước phải phát triển quyền
dân chủ sinh hoạt chính trị toàn dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực
sự tham gia vào công việc của Nhà nước. Chính quyền của nhân dân phải do nhân
dân tự tay mình thực hiện. Như vậy nền tảng xã hội mới sâu và rộng, ý thức chính
trị và khả năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân mới trở thành yếu tố
đảm bảo cho nền dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là có việc gì
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 5, tr. 698.
4
5
thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn; khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều
người theo hơn thì được, ấy là dân chủ. Phương châm chúng ta đang thực hiện "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN chính là thể hiện tư tưởng của Người về dân chủ và thực hành dân chủ.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh không chỉ chủ trương xây dựng
Nhà nước của dân mà còn chủ trương xây dựng Nhà nước do dân. Điều đó có nghĩa là
dân không chỉ lập ra Nhà nước mà còn phải tham gia vào công việc quản lý Nhà nước.
xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân, dân bầu ra người đại diện cho mình và sử
dụng cơ quan quyền lực thông qua người đại diện đó, đồng thời dân có quyền kiểm
soát, giám sát người mình bầu ra và bãi miễn khi họ không làm tròn sự ủy thác.
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tức là dân phải tham gia vào
công việc của Nhà nước; là dân tự làm, tự lo việc chứ không phải Nhà nước bao
cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng: Làm việc gì
cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ dàng và
làm được tốt. Chính vì vậy, Nhà nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự
kiểm tra và giám sát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là Nhà nước tin
dân, mọi lực lượng đều ở nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành. Nhà nước tin dân,
dân tin ở sự lãnh đạo của Nhà nước thì việc gì cũng làm được.
Nhà nước của dân, do dân xây dựng nên xét đến cùng phải là một Nhà nước
vì dân - một Nhà nước tồn tại và hoạt động vì lợi ích của toàn thể nhân dân, không
vì một nhóm hay một tập đoàn người nào trong xã hội. Nhà nước của ta ngoài lợi
ích phục vụ dân chúng không còn có lợi ích nào khác, đó là bản chất giai cấp công
nhân của Nhà nước ta. Người đòi hỏi mọi việc làm của Nhà nước phải thể hiện rõ
bản chất đó: "Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải
6
hết sức tránh"5. Người nhắc nhở chính quyền các cấp phải tránh cho được các lầm
lỗi, khuyết điểm, những thói hư tật xấu, những chứng bệnh vốn dễ tập nhiễm trong
các cơ quan quyền lực Nhà nước như: Cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo...
Mọi cán bộ Nhà nước đều vì dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Cao hơn nữa, một Nhà nước vì dân phải đảm bảo
cho dân có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Người đã chỉ ra một cách rõ
ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của Đảng, của Nhà nước đối với dân. "Nếu dân đói,
Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu dân rét Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu dân dốt là
Đảng và Chính phủ có lỗi"6.
Nhà nước vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ biết làm lợi cho dân
mà còn phải kính dân. Người nhắc nhở, chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân
mới yêu ta, kính ta. Trong lời dạy của Người thể hiện rõ sự kế thừa có sáng tạo các
tư tưởng của những bậc tiền bối: Dân là gốc, là quý và phải đối đãi dân như thế nào
thì dân mới kính mến, yêu nhà cầm quyền. Trong tư tưởng của Người, Nhà nước vì
dân còn là nhà nước sống trong lòng dân, tạo sự công bằng cho dân, đặt lợi ích của
Nhà nước gắn chặt với lợi ích của quần chúng nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân, vì dân phải là một
Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh; là Nhà nước được cai trị bằng pháp luật và
phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một Nhà nước dân chủ, dân
chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm được
cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, pháp luật
là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa
bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền
tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Xây dựng một nền pháp
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 4, tr.56-57.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập.7, tr.572.
5
6
7
chế XHCN đảm bảo được việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm
suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ năm 1919, khi đưa ra bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân
chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp cải cách nền
pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế
bằng các đạo luật. Người đã khẳng định vai trò của pháp luật: Trăm điều phải có
thần linh pháp quyền.
Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hồ Chí Minh cũng
là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Người đã hai lần
đứng đầu ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố
16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác. Một mặt chăm lo hoàn
thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước ta, mặt khác Người hết sức chăm
lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành,
cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan Nhà nước và trong
nhân dân. Người nói: “Công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà
còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt”7
Xây dựng và củng cố hà nước pháp quyền, yêu cầu mọi người sống và làm
việc tuân thủ pháp luật là nội dung chủ đạo trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước. Người chỉ rõ: Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ
quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động; Nhân dân ta hiện nay có tự
do, tự do trong kỷ luật; Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do
của người khác; Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến
tự do của người khác là phạm pháp.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập.9, tr.524.
7
8
Đặc biệt, trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh còn có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”. Người nói không xử phạt là không đúng, song
cái gì cũng xử phạt là không đúng; nhà nước phải vừa giáo dục vừa sử dụng pháp
luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên lương thiện. Trong việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật, phải khẩn trương xây dựng đồng
bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân
dân; song không vì thế mà đề cao một chiều vai trò của pháp luật, coi pháp luật là
tối thượng, bỏ qua vai trò hỗ trợ của các nhân tố khác, trong đó có vấn đề giáo dục
đạo đức. Đạo đức và pháp luật đều là hai hình thái ý thức xã hội, thuộc hai lĩnh vực
khác nhau nhưng lại kết hợp và bổ sung cho nhau trong thực tế trị nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, Người còn chỉ rõ mối quan hệ
giữa chuyên chính với dân chủ: “chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là ai
chuyên chính với ai?...Như cái hòm đựng của cải thì phải có cái khóa. Nhà thì phải
có cửa…Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái
cửa để đề phòng kẻ phá hoại…Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để
giữ gìn lấy dân chủ ”8.
1.2. Vai trò của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Đối với Hồ Chí Minh, Người luôn xác định, dân chủ là động lực của tiến bộ
xã hội, của phát triển. Vai trò của dân chủ gắn liền với vai trò của quần chúng nhân
dân. Hồ Chí Minh - nhà lý luận và thực hành dân chủ tiêu biểu, là Người đã nhìn
thấy rõ sức mạnh của dân "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"9. Vì vậy, Người đã huy
động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, góp phần to lớn
đưa dân tộc Việt Nam từ địa vị nô lệ làm thuê lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập.8, tr.279.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập.6, tr.276.
8
9
9
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng kiến thiết chế độ mới cách làm tốt nhất
là dựa vào dân, đem tài dân, sức dân, làm lợi cho dân; đây thực chất là con đường
thực hiện dân chủ. Thực tế đó chứng minh lời căn dặn của Người : "Bất cứ việc gì
đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế
hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân
ra thi hành"10. Dựa vào dân, làm theo lợi ích của dân đó là nguyên tắc bất di bất
dịch trong chủ trương, đường lối cũng như trong chỉ đạo thực hiện. Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ : "Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra"11.
Trọng dân, tin dân, học dân, tổ chức và giáo dục để phát huy sức mạnh vô bờ
của dân là điều nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động, là điều sáng rõ trong
tư duy của Hồ Chí Minh. Người khẳng định: Tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề
cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước
khi làm bất cứ việc gì, Đảng và chính quyền cũng phải bàn bạc với nhân dân, hỏi ý
kiến và kinh nghiệm của họ, cùng với họ đặt kế hoạch cho phù hợp với hoàn cảnh
địa phương, rồi động viên và tổ chức họ thi hành. Trong lúc thi hành lại phải theo
dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích nhân dân; thi hành xong phải cùng với họ kiểm
thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng.
Hồ Chí Minh luôn ý thøc s©u s¾c r»ng, d©n chñ kh«ng chØ lµ "d©n lµ
chñ" mµ cßn lµ "d©n lµm chñ". Dân có thực sự làm chủ thì mới tiếp tục bắt tay vào
xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới, thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều
kiện để tiến đến CNXH. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấy rõ dân chủ là động lực, là
sức mạnh để xây dựng một xã hội ấm no, hạnh phúc, tự do và bình đẳng. Chính vì
vậy, Người luôn nhắc nhở những người lãnh đạo rằng: Có phát huy dân chủ đến
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập.5, tr.295, tr.294.
1010.11
11
10
cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân, đưa cách mạng tiến
lên. Bằng cách đó, CNXH hiện thực ở Việt Nam mới có thể tồn tại và phát triển.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để
giải quyết mọi công việc khó khăn của cách mạng. Thực hành dân chủ chính là
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế. Vì vậy, muốn thực hành
dân chủ, phải đẩy mạnh dân chủ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước và trong mọi cán
bộ, đảng viên để làm gương cho dân chủ trong xã hội. Đồng thời Người cũng chỉ rõ
vai trò phát huy động lực dân chủ trước hết thuộc về trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước.
Trong suốt quá trình sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luôn quan
tâm đặc biệt đến vấn đề thực hiện dân chủ trong nội bộ Đảng. Để có thể đưa sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi tới thắng lợi hoàn toàn thì nhất định Đảng
phải được tổ chức một cách dân chủ. Mọi đảng viên đều phải quán triệt sâu sắc
nguyên tắc tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ nhưng phải dưới sự chỉ đạo
tập trung; vì thế nhất định không được tự do hành động, dân chủ quá trớn. Theo Hồ
Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc của lãnh đạo, quản lý
không chỉ trong Đảng mà còn trong nhà nước và của bất cứ tổ chức nào trong hệ
thống chính trị. Nguyên tắc này chỉ ra hai mối quan hệ giữa tập trung với dân chủ
và dân chủ với tập trung. Tập trung theo nguyên tắc tập trung dân chủ là tập trung
trên cơ sở dân chủ - đối lập với tập trung độc đoán, quan liêu , mất dân chủ. Dân
chủ theo nguyên tắc tập trung dân chủ là dân chủ hướng tới tập trung, đoàn kết,
thống nhất ý chí và hành động. Dân chủ trong nội bộ Đảng theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn là tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để mỗi đảng viên làm chủ công
việc mà mình được giao phó, làm cho họ tự ý thức và phát huy được vai trò người
làm chủ của mình, tránh được tình trạng: Nội bộ Đảng âm u, cán bộ trở nên những
cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán
11
nản. Với Hồ Chí Minh, dân chủ trong Đảng đồng nghĩa với “không khi nào được
dùng mệnh lệnh” và phải chú ý để kiểm tra công tác đảng của các tổ chức cấp dưới.
Phát huy dân chủ trong Đảng không chỉ là yêu cầu nội tại của công tác xây
dựng chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh mà còn là
quy chế bắt buộc để xây dựng và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng;
khắc phục bệnh độc đoán, chuyên quyền; bảo đảm tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân. Dân chủ thực chất là một biện pháp có tính nguyên tắc để xây
dựng Đảng ta thành một Đảng Cộng sản luôn trong sạch, vững mạnh. Theo Hồ Chí
Minh: Làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ, mở rộng phê bình và tự phê bình.
Đối với Nhà nước, người yêu cầu phải chống các tật bệnh, phải chống quan
liêu, tham nhũng. Muốn chống quan liêu, tham nhũng phải phát triển dân chủ, phải
thực hành rộng rãi dân chủ, phải dựa vào nhân dân. Trong cuộc đấu tranh chống quan
liêu, lãng phí, tham ô thì phải dựa vào lực lượng quần chúng mới thành công.
Về vấn đề giáo dục và thực hành dân chủ trong xã hội, với cách tiếp cận về
mặt cơ cấu xã hội và quan điểm không bỏ sót đối tượng nào nhưng chú ý trọng tâm,
trọng điểm, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đảm bảo gắn liền giáo dục, nhận thức với
rèn luyện bằng hành động, bằng phong trào. Thực hành dân chủ bao gồm cả ý thức,
năng lực, đạo đức cách mạng trong công việc, bằng hiệu quả công việc. Người
nhấn mạnh những người có chức có quyền từ Trung ương đến địa phương phải nêu
gương thực hành dân chủ, phải củng cố mối quan hệ Dân – Đảng, làm cho dân tin,
ủng hộ, yêu mến, giúp đỡ, bảo vệ Đảng.
Một vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đó là làm thế nào để dân thực
hiện được quyền làm chủ của mình? Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay nhân dân bao
giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh cho rằng, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi
họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu
là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt bản thân người
12
dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên
khuyến khích họ. Người nói: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và nếu nhân dân
không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được
vai trò làm chủ.
Trong những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về dân chủ ta còn thấy sự công phu tỷ
mỉ của Người hướng vào việc nâng cao nhận thức, nâng cao trình độ học vấn, trình
độ dân trí, hiểu biết pháp luật, thi hành pháp luật, giữ nghiêm kỷ cương phép nước;
bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân,
khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của nhà nước, khắc phục mọi
thứ dân chủ hình thức. Người thường nhắc nhở cán bộ phải lo: “Làm sao cho nhân
dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám
làm”12. Người chỉ rõ: Lúc dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã
biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân chủ hóa khá cao. Người dân chỉ có
thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của
họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với
hệ thống luật pháp lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu; xây
dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân.
Nhờ có dân chủ mà những tiềm năng sáng tạo, những sáng kiến của nhân
dân được khai thác và phát huy. Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ quan điểm và niềm tin
của mình về sức mạnh làm chủ của nhân dân, Người nói: Dễ mười lần không dân
cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong. Bí quyết để động viên và phát huy sức
mạnh của nhân dân đó là dân chủ: "Phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân
là vô cùng vô tận. Tuyên truyền, giáo dục, đoàn kết, tổ chức được trí tuệ và lực
lượng đó thì việc gì khó mấy cũng làm được" 13. Đồng thời phải thật sự tôn trọng
12
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập.12, tr.223.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập.8, tr.506.
13
13
quyền làm chủ của nhân dân, phải mở rộng dân chủ, phải thực hành dân chủ rộng
rãi... để thực hiện và phát huy dân chủ.
Theo Hồ Chí Minh, muốn có lực lượng quần chúng phải vận động quần
chúng làm cách mạng, tổ chức quần chúng làm cách mạng và lãnh đạo quần chúng
làm cách mạng, đó chính là dân vận. Có thể nói, tư tưởng dân vận và cách làm dân
vận thể hiện rõ nhất quan niệm của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ. Người nói:
"Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì
cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"14.
Người làm công tác dân vận phải biết "dân vận là vận động tất cả lực lượng
của mỗi người dân, không để sót một người nào" 15. Đây vừa là sự thể hiện tình
cảm, tin tưởng, tôn trọng con người, tôn trọng nhân cách của từng người một; vừa
là sự thể hiện ý tưởng phát huy nội lực toàn dân hợp sức, hợp lực từ mỗi con người,
không quên, không sót một ai.
Đề cao dân, tôn trọng dân, tin cậy dân, học hỏi dân, đó là tinh thần dân chủ
trong dân vận. Đảng, chính phủ, mặt trận, đoàn thể đều phải coi dân vận là công việc
của mình đồng thời toàn dân phải chủ động tích cực tham gia vào công tác dân vận
cho mình, cho người khác. Theo Người, dân chúng có rất nhiều sáng kiến, thực hành
dân chủ thực chất là gần gũi dân và học dân, vì vậy phải tôn trọng dân thì dân mới
dám bày tỏ ý kiến. Thảo luận dân chủ, xây dựng kế hoạch cho đúng, cho sát; phối
hợp đồng bộ gắn liền giáo dục vận động, thúc đẩy hành động, gây dựng phong trào,
kiểm tra, điều chỉnh, đó là cả một hệ thống những nhiệm vụ mà công tác dân vận
phải làm cho đúng, cho khéo, cho tốt. Giúp đỡ dân, bày vẽ cách làm cho dân, làm
gương mẫu, kiểu mẫu cho dân noi theo đó là yêu cầu của công tác dân vận đối với
mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ chức quần chúng.
14.15
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập.5, tr.700, tr. 698.
15
14
Tựu trung lại những luận điểm về thực hành dân chủ của Hồ Chí Minh thể
hiện ở những điểm nổi bật, đó là: Mục đích của thực hành dân chủ là để làm cho
dân ai cũng được hưởng quyền tự do, dân chủ; Thực hành dân chủ cũng có nghĩa là
phát huy dân chủ ngày càng đầy đủ, đúng đắn, thực chất hơn; Thực hành dân chủ
có tác dụng giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của dân chúng, động viên được tất
cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Nhờ vậy, dân chủ trở thành động
lực của tiến bộ, của phát triển. Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng có thể giải
quyết mọi khó khăn.
Tóm lại, Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là một trong những giá trị nổi
bật trong di sản tư tưởng mà Người để lại. Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ đã thể hiện sâu sắc trong tư duy của Người về dân chủ đó
là: Vì cuộc sống ấm no, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; là mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, của cách mạng; là mục tiêu, động lực phát triển của đất nước. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ không chỉ được thể hiện trong các tác phẩm, bài viết của Người
mà ý nghĩa to lớn hơn, có sức cảm hóa hơn đó là sự thể hiện của tư tưởng đó trong
hành động thực tiễn. Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực trong thực hành dân
chủ, càng ở cương vị cao bao nhiêu Hồ Chí Minh càng thể hiện dân chủ bấy nhiêu.
15
Chương 2
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Quán triệt và thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định rõ phát huy dân chủ
trong xã hội là một nội dung lớn quan trọng của đường lối cách mạng nhằm phát
huy sức mạnh của toàn dân tộc, khẳng định phát huy dân chủ trong quá trình đổi
mới ở nước ta là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Đảng ta coi việc xây dựng nền
dân chủ XHCN là một trong những nội dung thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ
XHCN.
Trải qua 30 năm đổi mới, Đảng ta đã có những phát triển mới, quan trọng
trong nhận thức về vị trí và vai trò của dân chủ. Quan niệm về dân chủ được mở
rộng, được xem xét nhiều khía cạnh: Dân chủ là chế độ chính trị; dân chủ là giá trị;
dân chủ là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung đối với xã hội
và dân chủ đối với mỗi cá nhân; dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Dân chủ phản ánh một bước chuyển từ thể chế chính trị dựa trên
áp lực, tuân thủ mệnh lệnh sang thể chế hợp tác, đồng thuận đầy trách nhiệm. Với
việc xác định “dân chủ” – một mục tiêu của xã hội XHCN, Đảng ta đã quán triệt
sâu sắc và hoàn thiện hơn hệ mục tiêu xã hội XHCN: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể, Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) được xem là đại hội của trí tuệ, dân chủ,
đoàn kết và đổi mới. Tại Đại hội này, nội dung dân chủ hết sức được coi trọng. Dân
chủ đã được đặt là một trong những mục tiêu của con đường đi lên CNXH ở nước
16
ta, đó là: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh" 16. Đại hội X (4/2006), Đảng ta không những
khẳng định dân chủ là một nội dung trong đặc trưng đầu tiên của CNXH mà nước
ta xây dựng, mà còn khẳng định dân chủ còn là mục tiêu, là động lực của công cuộc
đổi mới đất nước: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây
dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân
dân làm chủ... Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công
cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân…Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân
dân”17. Đại hội XI (1/2011), Đảng ta lại một lần nữa khẳng định dân chủ là một nội
dung trong đặc trưng đầu tiên của CNXH mà nước ta xây dựng, đồng thời còn
khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ ta: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ... Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong
thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật,
kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm…Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện ” 18. Đến Đại hội XII
của Đảng (1/2016), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Dân chủ phải được thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân
tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi
ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.22.
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr. 17,125.
18
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr. 70,84.
16
17
17
giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên
quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”19
Như vậy, dân chủ XHCN nằm trong hệ mục tiêu của đổi mới, thể hiện bản
chất ưu việt của CNXH. Để đi lên CNXH, cùng với phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhất thiết phải xây dựng thành
công nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh...Khẳng định dân chủ là
xu hướng khách quan của tiến bộ xã hội như thế cũng đồng thời đã khẳng định tính
tất yếu của công cuộc xây dựng CNXH, vì mục tiêu của CNXH không gì khác hơn
là giành dân chủ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, khẳng định quyền
lực chính trị thuộc về nhân dân. Tiến lên CNXH là tiến tới một xã hội "nhân đạo
hoàn bị", một xã hội không còn tha hóa, áp bức, bóc lột.
Qua thực tiễn đổi mới, tư duy lý luận của Đảng cũng đã vươn tới những quan
điểm mới, mở ra một khả năng và triển vọng tốt đẹp để xây dựng xã hội ta thành
một xã hội dân chủ, trong đó nhân dân là người chủ chân chính của Nhà nước và xã
hội, là chủ thể quyền lực. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân được Đảng ta tổng kết là một trong năm bài
học lớn của quá trình đổi mới: “Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” 20. Đảng ta nhận thức rằng,
dân chủ XHCN thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Phấn đấu cho quyền làm chủ thật sự của nhân dân được thực hiện, nhân dân là chủ
thể của quyền lực, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, Nhà nước là người nhận
quyền lực xã hội do nhân dân giao phó để tổ chức và thực hiện đường lối chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG - ST, H. 2016, tr 168
. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG - ST, H. 2016, tr. 70.
19
20
18
của Đảng. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà
còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân có
quyền làm chủ thì đồng thời cũng có nghĩa vụ của người chủ.
Đảng ta cũng đã chỉ rõ các điều kiện để xây dựng và phát huy dân chủ
XHCN. Để phát huy dân chủ về kinh tế phải thực hiện nhất quán chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần. Để phát huy dân chủ về chính trị phải nâng cao hiệu
quả hoạt động của cơ quan Nhà nước các cấp, bảo đảm Nhà nước thực sự của dân,
do dân, vì dân, phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Điều kiện quyết
định nhất để xây dựng nền dân chủ XHCN là Đảng nêu gương về dân chủ và lãnh
đạo tốt quá trình đổi mới hoạt động của Nhà nước. Dân chủ trong Đảng quyết định
dân chủ trong tổ chức hoạt động của Nhà nước, gắn liền với dân chủ trong xã hội.
Bởi lẽ, sự phát triển lành mạnh dân chủ trong Đảng chẳng những làm tăng sức
mạnh của Đảng, mà còn nêu gương, thúc đẩy dân chủ trong xã hội. Đảng lãnh đạo
quá trình dân chủ hóa tất yếu phải lãnh đạo Nhà nước thực hiện dân chủ, lãnh đạo
nhân dân tham gia giám sát cơ quan, công chức nhà nước trong bảo đảm quyền dân
chủ của nhân dân.
Một nền dân chủ chân chính, tiến bộ và hiện đại bao giờ cũng gắn liền quyền
với nghĩa vụ, lợi ích với trách nhiệm. Đó là quan hệ mật thiết không thể tách rời, nó
thấm nhuần trong các quan hệ giữa công dân với Nhà nước, cá nhân với xã hội,
thành viên với cộng đồng. Tất cả được luật pháp điều chỉnh, điều tiết, chi phối để
dân chủ không biến dạng thành các hành vi phản dân chủ. Đảng ta khẳng định
“Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân
chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân
chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được
pháp luật bảo đảm”21. Đảng ta cũng khẳng định, để xây dựng nền dân chủ XHCN ở
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 85.
21
19
nước ta nhất thiết phải “ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”22. Bởi lẽ, Nhà nước pháp quyền XHCN là công cụ
hiệu lực để bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát triển
quyền con người. Pháp luật không tách rời dân chủ, cũng như không có dân chủ
nào ở bên ngoài pháp luật, đó là một chỉnh thể toàn vẹn. Sự vận động và phát triển
lành mạnh của dân chủ đòi hỏi sự hiện diện của Nhà nước pháp quyền XHCN,
trong đó pháp luật là giới hạn, là hành lang vận động của dân chủ. Với quan điểm
đó, Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ phương hướng “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta
thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”23.
2.2. Thực trạng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Qua 30 năm đổi mới, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, quyền làm chủ của
nhân dân ngày càng được mở rộng và phát huy, nhờ vậy mà tiềm năng to lớn về vật
chất, tinh thần và trí tuệ của nhân dân được khơi dậy. Dân chủ đã đem lại cho nhân
dân không phải những giá trị dân chủ trừu tượng, mà bằng những kết quả cụ thể
trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Dân chủ đã trở thành nhu cầu
khách quan đi liền với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, là yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể:
Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị không ngừng được đổi mới theo
hướng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân. Các Cấp uỷ Đảng xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy
chế làm việc, thể hiện tinh thần dân chủ. Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân các cấp phát huy dân chủ, đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách
hành chính, tăng cường đối thoại, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân.
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 72.
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 246.
22
23
20
Năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan Nhà nước và trách nhiệm của
đội ngũ cán bộ, công chức trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở không
ngừng nâng cao. Các cơ quan Nhà nước đã xây dựng các quy chế, quy định thực
hiện công khai, dân chủ gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ
chế "một cửa", "một cửa liên thông" được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Các yêu cầu và nội dung của nền dân chủ XHCN bước đầu được thể chế hoá
thành pháp lệnh, nghị định và được tổ chức thực hiện nghiêm túc. Công tác dân vận
đã có một số đổi mới về nội dung và hình thức.
Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
của các tổ chức chính trị xã hội, dân chủ trong xã hội có bước phát triển. Quyền
ứng cử, lựa chọn trong bầu cử, giám sát đại biểu được thực hiện có hiệu quả hơn.
Quyền của công dân tham gia xây dựng các quyết định quan trọng của Đảng và
Nhà nước, tham gia vào các công việc Nhà nước và xã hội được mở rộng và có tiến bộ.
Việc thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân được
tiến hành dưới nhiều cấp độ, nhiều hình thức. Trong đó, việc thực hiện dân chủ ở cơ
sở nói chung, ở phường, xã nói riêng được chú trọng. Trình độ văn hóa dân chủ và
năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên. Thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở hiệu quả đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng và chất lượng đảng viên, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công
chức đối với nhân dân; đồng thời khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng, giám
sát các hoạt động của các cơ quan Nhà nước, góp ý cho cán bộ, công chức về phong
cách, trách nhiệm, đạo đức, lối sống và tôn trọng nhân dân.
Tuy nhiên, với ý thức tự phê bình và phê bình nghiêm túc, nhìn thẳng vào sự
thật, chúng ta thấy rằng việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay còn
có những hạn chế, thiếu sót, đó là:
21
Một số tổ chức và cấp ủy đảng còn có biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, quan liêu, mất dân chủ; hoặc dân chủ hình thức, không chấp hành
nghiêm nghị quyết, không thực hiện tốt việc phê bình và tự phê bình trong Ðảng.
Hoạt động của hệ thống chính trị, của Nhà nước chưa hiệu quả, có mặt dân chủ
còn hình thức. Tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước còn cồng kềnh, nặng nề; hệ
thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ; thực hiện cải cách hành chính còn chậm
trễ gây nhiều phiền hà cho nhân dân. Chưa quy định rõ ràng, hợp lý chức năng, nhiệm
vụ, cơ chế vận hành của tổ chức bộ máy dẫn đến tình trạng vừa chồng chéo, vừa sơ
hở, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau; một số bộ, ngành không thực hiện đúng chức năng
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được giao phó.
Các tổ chức đoàn thể nhìn chung chưa khắc phục tốt tình trạng hành chính
hóa trong hoạt động dẫn đến không nắm chắc được tâm tư, nguyện vọng và vướng
mắc của quần chúng để kịp thời giải quyết hoặc báo cáo với tổ chức Đảng, chính
quyền phối hợp giải quyết.
Một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ của Ðảng, Nhà nước và các
đoàn thể còn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém so với yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn
cách mạng mới. Tình trạng quan liêu, không thực sự tôn trọng dân chủ và thực
hành dân chủ còn khá nặng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức; làm
cho quyền lực của nhân dân ủy quyền bị biến dạng trở thành quyền lực cá nhân.
Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm.
Không ít trường hợp, việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức hoặc lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự,
an toàn xã hội.
Trình độ dân trí, năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của quần chúng
nhân dân trong những năm đổi mới, tuy đã được nâng lên một bước, nhưng vẫn còn
nhiều hạn chế. Sự hiểu biết về các quy định của pháp luật, về quyền lợi, nghĩa vụ
và trách nhiệm công dân, nhìn chung còn chưa đầy đủ, còn cảm tính, xuôi chiều.
Tình trạng coi thường pháp luật, kỷ cương, kỷ luật, quy tắc sinh hoạt xã hội vẫn
22
còn tiếp tục diễn ra. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn chưa thực
sự đi vào cuộc sống, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” còn mang
tính hình thức.
Công tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức; nội dung, phương thức vận
động, tập hợp quần chúng vẫn mang nặng tính hành chính. Công tác kiểm tra, phát
hiện và uốn nắn những sai lầm, hạn chế trong thực hành dân chủ của các cấp chưa
chặt chẽ và thường xuyên.
Ðứng trước tình hình đó, việc xây dựng và phát huy dân chủ XHCN nhằm
phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, tự giác, giải phóng năng lực sáng tạo của
con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay đang
là một nhiệm vụ to lớn hết sức cần thiết và cấp bách đặt ra cho cả hệ thống chính
trị, tất cả các cấp, các ngành. Để làm tốt được nhiệm vụ đó, cần phải nắm vững
phương hướng và thực hiện tốt các giải pháp xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước
ta hiện nay.
2.3. Phương hướng và giải pháp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay
Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta khẳng định phương hướng: Tiếp tục
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,
được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để thực hiện tốt phương hướng trên, cần phải phải quán triệt và thực hiện
đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp sau:
Thứ nhất: Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị XHCN.
Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng nhằm xây dựng và phát huy dân chủ
XHCN ở nước ta hiện nay. Bởi lẽ, hệ thống chính trị XHCN ở nước ta bao gồm
23
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội khác là công cụ, phương tiện
nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân. Khâu mấu chốt trong đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay là phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
thành tố trong hệ thống chính trị; giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
các đoàn thể xã hội. Thực chất và mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện
nay chính là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ và thúc đẩy dân chủ hóa xã hội. Do vậy,
phải thực hiện dân chủ trong Ðảng, trong bộ máy Nhà nước và các đoàn thể nhân
dân đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả vận hành của cả hệ thống chính trị.
Trong hệ thống chính trị XHCN ở nước ta, Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Muốn tránh nguy cơ
độc đoán chuyên quyền, những biểu hiện thường thấy của mất dân chủ, thì Đảng
phải luôn đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị, mà
trong đó cơ bản nhất là đối với Nhà nước. Sự lãnh đạo của Ðảng bảo đảm cho Nhà
nước mang bản chất giai cấp công nhân, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Đối với Nhà nước, phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân
chủ của công dân.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phải hoàn
thành tốt vai trò trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; thực hiện dân chủ và
xây dựng xã hội lành mạnh; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và
nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Hoạt động của các thành viên trong hệ thống chính trị có chức năng, nhiệm
vụ riêng nhưng cùng nhau tạo ra một sức mạnh tổng hợp để nhằm đạt mục tiêu của
24
CNXH, khẳng định trên thực tế quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực thật sự thuộc về
nhân dân.
Thứ hai: Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước theo hướng mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, dựa trên ý kiến của
nhân dân.
Đây là giải pháp hết sức quan trọng nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
tự giác, giải phóng năng lực sáng tạo của nhân dân trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Bởi lẽ, dân chủ XHCN thể hiện mối quan hệ gắn bó máu thịt
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, Nhà
nước là người nhận quyền lực xã hội do nhân dân giao phó để tổ chức và thực hiện
đường lối chính trị của Đảng; nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân
không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nói như Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân có quyền làm chủ thì đồng thời cũng có nghĩa vụ của người chủ.
Thứ ba: Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ,
tham gia quản lý xã hội của nhân dân.
Đây cũng là giải pháp quan trọng nhằm xây dựng và phát huy dân chủ
XHCN ở nước ta hiện nay. Bởi vì, dân chủ là mọi quyền lực thuộc về nhân dân,
phải do nhân dân tự tay mình thực hiện, đó là nguyên lý và nội dung của nền dân
chủ XHCN. Nền dân chủ đó vì vậy sẽ phụ thuộc vào nền tảng xã hội, ý thức chính
trị của nhân dân và khả năng của nhân dân tham gia vào đời sống chính trị của đất
nước. Các yếu tố bảo đảm đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi mà trình độ văn hóa
chính trị của nhân dân đạt được ở những mức độ nhất định và ngày càng được nâng
cao. Thực tế là, chỉ khi nào người dân tự giác nhận thức được quyền và nghĩa vụ của
mình, tự giác tham gia công việc Nhà nước, công việc xã hội, hoạt động với tư cách là
người chủ lúc đó mới có điều kiện thực hiện dân chủ.
25