Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Phân tích điểm mới của BLDS 2015 về biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.95 KB, 35 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường Việt Nam hội nhập ngày càng sâu
rộng với nền kinh tế quốc tế thì các giao dịch dân sự, thương mại được xem như
một công cụ hữu hiệu giúp cho các chủ thể tìm kiếm được lợi ích của mình. Một
nền kinh tế năng động luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro và việc nhận biết chúng,
khắc phục và ngăn chặn những rủi ro ngay từ chính những giao dịch được ký kết là
một cách làm khôn ngoan và chủ động mà các nhà làm luật đã dự phòng thông qua
việc thiết kế kế quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sư. Và Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Thực tiễn xét xử các vụ án dân sự, kinh tế tại tòa án cũng thể hiện sự bất nhất
trong áp dụng cácqui định pháp luật về bảo đảm. Nhiều bản án sơ thẩm về các giao
dịch vay mượn trong dân sự, tín dụng ngân hàng có liên quan đến bảo lãnh, thế
chấp, cầm cố bị kháng cáo, kháng nghị để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, bản án
đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong số đó
không ít các vụ án bị Toà phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm; Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm chấp nhận kháng cáo kháng nghị, tuyên huỷ, trả lại cấp sơ thẩm xét xử lại.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra những suy nghĩ về các qui
định pháp luật liên quan đến các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong sự .
Trên cơ sở đó đề cập đến một vài vấn đề cần xem xét, nghiên cứu để sửa đổi bổ
sung BLDS.
2. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu các quy định hiện hành về những vấn đề
chung và những điểm mới của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
năm 2015. Bên cạnh đó còn một mục tiêu hướng đến là tìm ra những điểm chưa
hợp lý và đề xuất, kiến nghị ý kiến điều chỉnh.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

• Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những điểm mới của các biện
pháp thực hiện nghĩa vụ dân sự 2015.

• Phạm vi
2


Do đây là một đề tài khá rộng lại được thực hiện cá nhân nên phạm vi nghiên
cứu cũng chỉ tập trung chủ yếu vào những vấn đề liên quan đến các biện pháp thực
hiện nghĩa vụ.
4. Bố cục của bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận bài tiểu luận của em được chia thành 02
chương như sau:
+ Chương I: Quy định của pháp luật về các biện pháp thực hiện nghĩa vụ.
+ Chương II: Những điểm mới của bộ luật dân sự năm 2015 về các biện
pháp thực hiện nghĩa vụ.

3


CHƯƠNG 1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUÂT VỀ BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
1.1. Những vấn đề chung
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ

• Khái niệm
Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể hiểu theo hai phương diện:


- Về mặt khách quan là sự quy định của pháp luật, cho phép các chủ thể trong giao
dịch dân sự hoặc các quan hệ dân sự khác áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho
phép để bảo đảm cho một nghĩa vụ chính được thực hiện đồng thời xác định và đảm

-

bảo quyền, nghĩa vụ của các bên trong các biện pháp đó.
Về mặt chủ quan là việc thỏa thuận giữa các bên nhằm qua đó đặt ra các biện pháp
tác động mang tính chất dự phòng để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ đồng
thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.
• Đặc điểm
- Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đều có những đặc điểm chung
như sau:
+ Các biện pháp bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính: Các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự không tồn tại độc lập mà luôn phụ
thuộc và gắn liền với một nghĩa vụ nào đó. Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ: khi có
quan hệ nghĩa vụ chính thì các bên mới cùng nhau thiết lập một biện pháp bảo đảm.
+ Các biện pháp bảo đảm đều có mục đích nâng cao trách nhiệm của các bên
trong quan hệ nghĩa vụ dân sự. : Thông thường khi đặt ra biện pháp bảo đảm, các
bên hướng tới mục đích nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của người có
nghĩa vụ. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, các bên còn hướng tới mục đích nâng
cao trách nhiệm trong giao kết hợp đồng của cả hai bên.
+ Các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa
vụ.: Thông thường trong một quan hệ nghĩa vụ dân sự, bên có nghĩa vụ tự giác thực
hiện nghĩa vụ của họ đối với người có quyền và nếu đến thời hạn mà bên có nghĩa
vụ đã thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của mình thì biện pháp bảo đảm nghĩa vụ đó
cũng được coi là chấm dứt. Chức năng dự phòng của các biện pháp bảo đảm cho


4


thấy các biện pháp bảo đảm chỉ được áp dụng khi nghĩa vụ chính không được thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nhằm qua đó bảo đảm quyền lợi cho bên có quyền.
+ Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ sự thỏa thuận giữa
các bên: Nếu các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ khác nhau thì biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể phát sinh thông qua sự thỏa thuận của
các bên trong một giao dịch dân sự. Tuy nhiên, cách thức và toàn bộ nội dung của
một biện pháp bảo đảm đều là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên.
1.1.2. Đối tượng và phạm vi

a. Đối tượng của các biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất.: Lợi ích của các bên
trong nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất. Quy luật
ngang giá trong các quan hệ tài sản cho chúng ta thấy rằng chỉ có lợi ích vật chất
mới bù đắp được các lợi ích vật chất . Vì vậy các bên trong quan hệ nghĩa vụ không
thể dùng quyền nhân thân làm đối tượng của biện pháp bảo đảm. Lợi ích vật chất là
đối tượng của các biện pháp bảo đảm thường là một tài sản. Các đối tượng này phải
có đủ các yếu tố mà pháp luật đã yêu cầu đối với một đối tượng của nghĩa vụ dân sự
nói chung.
b. Phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã
được xác định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ chính: Điều 319 BLDS 2005
quy định: “Nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thoả thuận và pháp luật
không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả
nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại”. Như vậy về nguyên tắc phạm vi bảo đảm là
toàn bộ nghĩa vụ khi các bên không thỏa thuận và pháp luật không quy định khác
nhưng cũng có thể chỉ là một phần nghĩa vụ.
1.2. Những quy định về các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ

1.2.1. Nguyên tắc thực hiện biện pháp bảo đảm
Khoản 2 Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định nguyên tắc thực hiện
biện pháp bảo đảm, đó là nguyên tắc dựa trên quy định của pháp luật hoặc căn cứ
vào thảo thuận của các bên. Điều đó có nghĩa là, trong trường hợp pháp luật có quy
định về việc các bên phải quy định biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,thì các
bên buộc phải thực hiện nghĩa vụ đó.Trong trường hợp pháp luật không quy định

5


các bên có nghĩa vụ quy định biện pháp bảo đảm khi giao kết hợp đồng, v.v., thì
việc có quy định biện pháp bảo đảm hay không là tuỳ thuộc vào ý chí của các bên.
Trong trường hợp các bên không quy định về biện pháp bảo đảm và luật pháp cũng
không quy định về biện pháp bảo đảm,thì không bên nào có nghĩa vụ thực hiện bất
kỳ biện pháp bảo đảm nào.
1.2.2. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
BLDS quy định 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ lần lượt bao gồm:
cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp.

• Về biện pháp cầm cố tài sản
- Khái niệm
Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, quy định pháp luật và các phân
tích liên quan đến vấn đề cầm cố tài sản, cụ thể như sau:
Theo quy định của luật dân sự hình thức cầm cố tài sản: Việc cầm cố tài sản
phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp
đồng chính.

- Thời hạn cầm cố tài sản:
Thời hạn cầm cố tài sản do các bên thoả thuận. Trong trường hợp không có

thoả thuận thì thời hạn cầm cố được tính cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ được bảo
đảm bằng cầm cố.

- Đối tượng:
Đối tượng của biện pháp cầm cố là động sản hay nói cách khác là các tài sản
có thể chuyển giao được. Do đó, bất động sản sẽ không thể trở thành đối tượng của
giao dịch cầm cố. Đây là điểm khác với biện pháp bảo đảm thế chấp, tài sản dùng
để thế chấp có thể là cả động sản hoặc bất động sản. Các bên của giao dịch cầm cố
cần phải lưu ý đến đối tượng cầm cố vì nếu sai về đối tượng, giao dịch có thể sẽ bị
tuyên vô hiệu.

- Cầm cố nhiều tài sản:
Trong trường hợp cầm cố nhiều tài sản để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ
dân sự thì mỗi tài sản được xác định bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Các bên
cũng có thể thoả thuận mỗi tài sản bảo đảm thực hiện một phần nghĩa vụ.

6


- Huỷ bỏ việc cầm cố tài sản:
Việc cầm cố tài sản có thể bị huỷ bỏ, nếu được bên nhận cầm cố đồng ý.

- Xử lý tài sản cầm cố:
Trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không
thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thoả thuận thì tài sản cầm cố được
xử lý theo phương thức do các bên đã thoả thuận hoặc được bán đấu giá theo quy
định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán
từ số tiền bán tài sản cầm cố.

- Xử lý tài sản cầm cố trong trường hợp có nhiều tài sản cầm cố:

Trong trường hợp tài sản được dùng để cầm cố có nhiều vật thì bên nhận
cầm cố được chọn tài sản cụ thể để xử lý, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Bên
nhận cầm cố chỉ được xử lý số tài sản cần thiết tương ứng với giá trị của nghĩa vụ
được bảo đảm; nếu xử lý quá số tài sản cần thiết và gây ra thiệt hại cho bên cầm cố
thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố.

- Thanh toán tiền bán tài sản cầm cố:
Tiền bán tài sản cầm cố được sử dụng để thanh toán nghĩa vụ cho bên nhận
cầm cố sau khi trừ chi phí bảo quản, bán tài sản và các chi phí cần thiết khác có liên
quan để xử lý tài sản cầm cố; trong trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm là khoản vay
thì thanh toán cho bên nhận cầm cố theo thứ tự nợ gốc, lãi, tiền phạt, tiền bồi
thường thiệt hại nếu có; nếu tiền bán còn thừa thì phải trả lại cho bên cầm cố; nếu
tiền bán còn thiếu thì bên cầm cố phải trả tiếp phần còn thiếu đó.

- Chấm dứt cầm cố tài sản
Việc cầm cố tài sản chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
+ Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt;
+ Việc cầm cố tài sản được huỷ bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo
đảm khác;
+ Tài sản cầm cố đã được xử lý;
+ Theo thoả thuận của các bên.

- Trả lại tài sản cầm cố
Khi việc cầm cố tài sản chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
339 của Bộ luật Dân sự 2005 thì tài sản cầm cố, giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu

7


được trả lại cho bên cầm cố. Hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố cũng được

trả lại cho bên cầm cố, nếu không có thoả thuận khác.
Như vậy, việc cầm cố tài sản thường được đặt ra bên cạnh một hợp đồng dân
sự nhưng cũng có thể được đặt bên cạnh một nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Trong mọi
trường hợp, cầm cố tài sản đều là sự thỏa thuận từ các bên về tài sản và nghĩa vụ
của các bên, bên có nghĩa vụ phải giao cho bên có quyền một tài sản thuộc sở hữu
của mình để đảm bảo nghĩa vụ dân sự.
Khi cầm cố tài sản, người cầm cố phải chuyển tài sản đó để cho người nhận
cầm cố quản lý và sử dụng. Còn đối với thế chấp tài sản thì người thế chấp được giữ
lại tài sản thế chấp, chỉ dùng quyền sở hữu tài sản đó để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ.

• Về biện pháp thế chấp
- Chủ thể của thế chấp tài sản: (Điều 342 BLDS)
Trong quan hệ thế chấp tài sản, bên có nghĩa vụ phải dùng tài sản để bảo đảm
cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình được gọi là bên bảo đảm hay bên chế chấp.
Ngược lại, bên có quyền được gọi là bên được bảo đảm, hay bên nhận thế chấp.
Chủ thể của thế chấp tài sản phải có đủ điều kiện mà pháp luật quy định đối với
người tham gia giao dịch dân sự nói chung.

- Đối tượng của thế chấp tài sản: (Điều 342 BLDS)
a) Tài sản thế chấp là bất động sản thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp. Tùy
từng trường hợp, các bên có thể thỏa thuận để dùng toàn bộ hay một phần bất động
sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
b) Đối tượng là động sản: bên thế chấp có thể dùng toàn bộ hoặc một phần
tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân
sự. Trong trường hợp bên thế chấp đã dùng toàn bộ một tài sản là động sản để thế
chấp mà động sản đó có cả vật chính, vật phụ thì thì vật chính, vật phụ đề là đối
tượng của thế chấp. Nếu bên thế chấp chỉ dùng vật chính hoặc chỉ dùng vật phụ của
một tài sản để thế chấp thì đối tượng của thế chấp chỉ là phần tài sản đã được xác
định.


8


c) Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất: theo quy định của pháp luật nước
ta, cá nhân không có quyền sở hữu đối với đất đai nhưng có quyền sử dụng đất và
họ được dùng quyền sử dụng đất để thế chấp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
d) Tài sản thế chấp là tài sản sẽ hình thành trong tương lai ( khoản 1, điều
342 BLDS) ngoài việc dùng các tài sản hiện có để thế chấp, bên có nghĩa vụ còn
được dùng các tài sản sẽ hình thành trong tương lai để thực hiện thế chấp đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ dân sự.

- Xử lí tài sản thế chấp và chấm dứt việc thế chấp: (Điều 35, 357 BLDS)
+ Nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên thế chấp không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì tài sản thế chấp được xử lí để thực hiện
nghĩa vụ
+ Về nguyên tắc, việc xử lí tài sản thế chấp được thực hiện thông qua việc
bán đấu giá. Tuy nhiên nếu có thỏa thuận của các bên trước khi đến thời hạn thực
hiện nghĩa vụ thì các bên thực hiện theo thỏa thuận đó về việc xử lí tài sản thế chấp
+ Trong trường hợp phải xử lí tài sản thế chấp để thực hiện một nghĩa vụ đến
hạn mà tài sản đó được dùng thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ thì các nghĩa vụ khác
dù chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn. Quyền được ưu tiên thanh toán của
những người nhận thế chấp được xác định theo thứ tự đăng kí thế chấp.
+ Nếu nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp thế chấp đã được thực hiện
xong thì biện pháp thế chấp đó đương nhiên được coi như chấm dứt.

• Về biện pháp đặt cọc
- Khái niệm
Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí,
đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để

bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.

- Đối tượng của đặt cọc
Trong quan hệ đặt cọc, hành vi của các bên chủ thể sẽ tác động vào một tài
sản cụ thể nào đó. Những tài sản này chính là đối tượng của biện pháp đặt cọc. Theo
quy định tại Khoản 1 Điều 358 BLDS 2005 thì đối tượng của đặt cọc là “một khoản
tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác”, tức là những vật có giá trị
hoặc các vật thông thường khác mà một bên giao trực tiếp cho bên kia. Tuy nhiên

9


để trở thành đối tượng của biện pháp đặt cọc, các tài sản theo quy định phải đáp ứng
điều kiện luật định.

- Chủ thể của đặt cọc
Chủ thể của một quan hệ pháp luật nói chung là những người tham gia quan
hệ pháp luật đó. Chủ thể của bất kì quan hệ pháp luật nào cũng phải đáp ứng các
điều kiện theo quy định tại Điều 122 BLDS 2005 thì: “người tham gia giao dịch có
năng lực hành vi dân sự... Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”. Như
vậy, nếu các bên muốn tham gia vào giao dịch đặt cọc cũng phải đáp ứng hai điều
kiện trên.

- Mục đích của đặt cọc
Việc đặt cọc có thể chỉ mang mục đích bảo đảm việc giao kết hợp đồng, có
thể chỉ mang mục đích bảo đảm việc thực hiện hợp đồng nhưng cũng có thể mang
cả hai mục đích đó.
Khác với các biện pháp bảo đảm khác, thời điểm phát sinh thỏa thuận đặt cọc
không những là cùng hoặc sau khi kí kết hợp đồng chính thực được thiết lập, tức là
khi các chủ thể đã có quan hệ nghĩa vụ, mà còn có thể phát sinh ngay cả khi giữa

các chủ thể chưa có quan hệ nghĩa vụ.
Mục đích của đặt cọc do các bên chủ thể thỏa thuận. Việc chỉ ra mục đích
của đặt cọc có ý nghĩa quan trọng để xác định hiệu lực của đặt cọc.
Trường hợp thỏa thuận đặt cọc được phát sinh trước khi các bên thiết lập
nghĩa vụ mà các bên không thỏa thuận về mục đích của đặt cọc thì biện pháp đặt
cọc đó sẽ đảm bảo giao kết hợp đồng. Khi thỏa thuận đặt cọc có hiệu lực pháp lý
nó sẽ ràng buộc các bên trong quan hệ buộc phải giao kết hợp đồng. Nếu các bên vi
phạm thỏa thuận này thì sẽ phải chịu chế tài. Trường hợp này, thỏa thuận đặt cọc
mặc nhiên chấm dứt hiệu lực pháp luật khi hợp đồng đã được giao kết bởi mục đích
của biện pháp đặt cọc đã đạt được.
Trường hợp thỏa thuận đặt cọc được phát sinh sau khi hợp đồng đã được
giao kết thì mục đích của đặt cọc là nhằm thực hiện hợp đồng.
Đối với trương hợp các bên chủ thể thỏa thuận mục đích của đặt cọc là vừa
nhằm giao kết hợp đồng, vừa nhằm thực hiện hợp đồng thì hiệu lực của thỏa thuận
đặt cọc kéo dài từ khi các bên giao kết thỏa thuận đặt cọc đến khi giao kết hợp đồng

10


và hoàn thành việc thực hiện hợp đồng. Trong quá trình này tài sản đặt cọc có thể
được đem ra xử lý bất cứ lúc nào khi có hành vi vi phạm xảy ra.

- Xử lý tài sản đặt cọc
Thông thường có hai phương thức xử lý tài sản đặt cọc nói riêng và tài sản
bảo đảm nói chung là do các bên thỏa thuận hoặc bán đấu giá. Theo đó nếu các bên
có thỏa thuận thì tài sản đặt cọc được xử lý theo thỏa thuận; nếu các bên không có
thỏa thuận hoặc có nhưng trái pháp luật thì tài sản đặt cọc xử lý theo quy định của
pháp luật:
+ Nếu hợp đồng được giao kết, thực hiện theo đúng thỏa thuận: tài sản đặt
cọc hoặc sẽ được trở về cho bên đặt cọc hoặc được trừ vào để thực hiện nghĩa vụ trả

tiền.
+ Nếu hợp đồng không được giao kết, thực hiện như thỏa thuận: trường hợp
do lỗi của bên đặt cọc thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; trường hợp do
lỗi của bên nhận đặt cọc thì bên nhận đặt cọc phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc
và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc.
Hậu quả như trên sẽ được áp dụng trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác. Hiện nay pháp luật không quy định tỷ lệ tối đa giữa giá trị tài sản đặt cọc và
giá trị hợp đồng giao kết, thực hiện. Như vậy, các bên được quyền thỏa thuận về giá
trị tài sản đặt cọc, thông thường không vượt quá 50% giá trị hợp đồng. Tuy nhiên,
nếu các bên có thỏa thuận giá trị tài sản đặt cọc cao hơn và thỏa thuận mức phạt cao
hơn so với quy định nêu trên của pháp luật thì vẫn được chấp nhận.

• Về biện pháp ký cược
- Khái niệm: Ký cược là một trong những biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân
sự. khoản 1 Điều 359, Bộ luật dân sự 2005 quy định: “ký cược là việc bên thuê tài
sản là động sản giao cho bên thuê một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật
có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc
trả lại tài sản thuê”.
- Đối tượng:
- Nội dung : Ký cược bao gồm những đặc điểm sau:
Biện pháp này được áp dụng để đảm bảo cho việc trả lại tài sản trong hợp
đồng thuê tài sản. Tài sản thuê có tính chất của động sản, có sự chuyển giao từ bên

11


cho thuê sang bên thuê. Ký cược cũng mang đặc tính có khả năng thanh khoản cao
như: tiền, kim khí quý, đá quý, các tài sản có giá trị khác. Giá trị của tài sản ký cược
ít nhất phải tương đương với giá trị tài sản thuê, vì nó bao gồm cả giá trị tài sản thuê
và khoản tiền thuê để bồi thường cho bên thuê nếu tài sản thuê không được trả lại.

Do vậy, những biện pháp này cũng chủ yếu được áp dụng đối với những hợp đồng
thuê tài sản có giá trị nhỏ, hay việc sử dụng tài sản dễ bị hư hỏng.
- Mục đích: Ký cược có mục đích nhằm đảm bảo:
+ Bên nhận ký cược lấy tiền thuê tài sản;
+ Bên ký cược lấy lại toàn bộ tài sản hay một phần giá trị tài sản cho thuê
trong trường hợp tài sản cho thuê không còn hoặc trong trường hợp bên thuê không
trả lại tài sản thuê.
Vì vậy khi ký cược, hai bên phải thoả thuận về thời hạn khi nào bên thuê
phải giao lại tài sản. Thời hạn ký cược là thời hạn cho thuê tài sản. Về hình thức ký
cược, Bộ luật dân sự 2005 không quy định phải được thành lập văn bản, do đó việc
ký cược không nhất thiết phải được thành lập văn bản mà có thể thoả thuận bằng
miệng cũng có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, đối với trường hợp tài sản
có đăng ký quyền sở hữu thì văn bản ký cược là chứng cứ để bên cho thuê tài sản
thực hiện đăng ký chuyển quyền sở hữu tài sản ký cược từ bên thuê sang bên cho
thuê.
- Hậu quả pháp lý đối với ký cược: Nếu đến hạn bên thuê trả lại tài sản thuê
theo đúng thoả thuận thì tài sản kí cược được trả lại cho bên thuê sau khi trừ tiền
thuê; nếu đến hạn bên thuê không trả lại tải sản thuê thì tài sản ký cược thuộc sở
hữu của bên cho thuê. Khi đó bên thuê phải có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp
lý cần thiết để sang tên, chuyển quyền sở hữu tài sản ký cược.
Với hậu quả pháp lý như trên ta sẽ thấy rằng trong việc xử lý tài sản ký cược
có các trường hợp sau:
+ Bên thuê trả lại tài sản thuê. Khi bên thuê trả lại tài sản thì bên cho thuê
phải trả lại tài sản ký cược, nhưng được trừ tiền thuê chưa trả. Để thực hiện được
việc trả lại tài sản ký cược và tài sản thuê thì bên thuê phải có nghĩa vụ giữ gìn tài
sản thuê và sử dụng đúng mục đích đã thuê, đúng công dụng của tài sản đã thuê, và
bên cho thuê (bên nhận ký cược) có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản ký cược;

12



không được khai thác, sử dụng tài sản đó, không được xác lập giao dịch đối với tài
sản ký cược, trừ trường hợp bên ký cược đồng ý. Nếu bên ký cược không đồng ý
cho bên nhận ký cược sử dụng tài sản ký cược thì bên ký cược có quyền yêu cầu
bên nhận ký cược ngừng việc sử dụng tài sản ký cược, nêu do sử dụng tài sản ký
cược có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị.
+ Bên thuê cố tình không trả lại tài sản thuê. Trường hợp bên thuê cố tình
không trả lại tài sản thuê thì bên cho thuê có thể yêu cầu toà án buộc bên thuê phải
trả lại tài sản thuê và việc trả tài sản thuê và tài sản ký cược được thực hiện cùng
lúc.
+ Tài sản thuê không còn để trả lại vì lý do mất mát hay tiêu huỷ hoặc bị mất
không phải do lỗi cố ý của bên thuê. Trường hợp này tài sản ký cược thuộc về bên
cho thuê và khi đó chấm dứt nghĩa vụ của bên thuê đối với bên cho thuê. Nếu tài
sản thuê hoặc tài sản ký cược có sự thay đổi về giá trị theo bất cứ hướng nào thì các
bên không có yêu cầu thanh toán chênh lệnh.

• Về biện pháp ký quỹ
- Khái niệm: Ký quỹ là một trong những biện pháp bảo đảm việc thực hiện
nghĩa vụ dân sự, bồi thường thiệt hại cho bên có quyền khi bên bảo đảm không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Được quy định tại điều 360 Bộ luật dân
sự 2005 về ký quỹ như sau: “1. Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền
hoặc kim khí quí, đá quí hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong toả tại một
ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.”
- Nội dung : Với biện pháp ký quỹ 2 bên có thể mở một tài khoản tại ngân
hàng nhưng không được dùng tài khoản khi chưa chấm dứt hợp đồng. Mặc dù vẫn
là chủ của tài khoản đó nhưng bên có nghĩa vụ không được thực hiện bất kỳ một
giao dịch rút tiền nào từ tài khoản đó bởi số tài khoản ký quỹ đó được xác định để
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trước bên có quyền.
Tài sản dùng để ký quỹ cũng tương tự như tài sản dùng để đặt cọc, ký cược
đó là tiền, kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá được bằng tiền. Khác với cầm cố tài

sản đối với ký quỹ, quyền tài sản không thể được dùng để ký quỹ.
Trong khi đặt cọc và ký cược thì tài sản bảo đảm được giao cho bên nhận bảo
đảm còn đối với ký quỹ, tài sản không được giao cho bên nhận bảo đảm. Việc ký

13


quỹ có thể được thực hiện trước khi xác định được bên có quyền. Hướng dẫn về
giao dịch bảo đảm ký quỹ, Điều 34 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định: Tài sản
ký quỹ theo quy định tại khoản 1 Điều 360 Bộ luật Dân sự được gửi vào tài khoản
phong toả tại ngân hàng thương mại để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bên ký
quỹ có thể thực hiện việc ký quỹ tài sản một lần hoặc nhiều lần tùy theo thỏa thuận
của các bên hoặc pháp luật quy định.
Theo Nghị định 83/2010/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm, điều 3 liệt
kê các giao dịch bảo đảm yêu cầu phải đăng ký không liệt kê biện pháp bảo đảm ký
quỹ, vì vậy ký quỹ là giao dịch bảo đảm không bắt buộc phải đăng ký nếu không có
yêu cầu của các bên, vẫn có hiệu lực nếu các bên tuân thủ đúng các quy định của
pháp luật.
- Mục đích: Trong ký quỹ bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ cam kết bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự, bên nhận bảo đảm là bên có quyền được ngân hàng
thanh toán bồi thường thiệt hại khi bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ của mình.
- Hậu quả pháp lý: Điều 37 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định về nghĩa
vụ của bên ký quỹ như sau:
1. Thực hiện ký quỹ tại ngân hàng mà bên có quyền được ngân hàng thanh
toán, bồi thường thiệt hại chỉ định hoặc chấp nhận.
2. Nộp đủ tài sản ký quỹ theo đúng thoả thuận với bên có quyền được ngân
hàng thanh toán, bồi thường thiệt hại.
3. Thoả thuận với ngân hàng nơi ký quỹ về điều kiện thanh toán theo đúng
cam kết với bên có quyền được ngân hàng thanh toán, bồi thường thiệt hại.


• Về biện pháp bảo lãnh
- Khái niệm:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền
(gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là
bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên
bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình. Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập

14


thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có
quy định thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng, chứng thực.

- Do vậy biện pháp bảo lãnh làm xuất hiện các mối quan hệ sau:
+ Quan hệ giữa bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) và bên có quyền (bên
nhận bảo lãnh) làm xuất hiện nghĩa vụ cần bảo đảm và cam kết về nghĩa vụ cần bảo
đảm.
+ Quan hệ giữa bên thứ ba (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhậ bảo
lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) nếu
như đến hạn nghĩa vụ bị vi phạm;
+ Quan hệ giữa người thứ ba (bên nhận bảo lãnh) với bên có nghĩa vụ (bên
được bảo lãnh) cam kết về việc bên có nghĩa vụ phải hoàn lại cho bên bảo lãnh giá
trị phần nghĩa vụ mà bên bảo lãnh đã thực hiện thay mình. Thông thường, trong bảo
lãnh, cả ba mối quan hệ trên cùng tồn tại song song, nhưng cũng có thể chỉ là hai
quan hệ trên thôi. Quan hệ thứ ba không cùng tồn tại vì có thể quan hệ đó được tách
thành cam kết riêng giữa hai bên căn cứ vào một văn bản pháp luật cụ thể nào đó
hay thực hiện đường lối chính sách của nhà nước mà không nhất thiết phải lập hợp

đồng riêng; hoặc có thể bên bảo lãnh tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không biết và bên bảo lãnh cũng không yêu cầu bên
được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ hoàn lại. Do vậy, bảo lãnh là quan hệ pháp lý,
theo đó bên thứ ba cam kết trước bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
có nghĩa vụ nếu đến hạn mà nghĩa vụ bị vi phạm.

• Về biện pháp tín chấp
- Khái niệm:
Tín chấp là việc Tổ chức chính trị - xã hội được pháp luật cho phép bảo đảm
(bằng tín chấp) cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng
hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ. Việc cho vay có
bảo đảm bằng tín chấp phải được lập thành văn bản có ghi rõ số tiền vay, mục đích
vay, thời hạn vay, lãi suất, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người vay, ngân
hàng, tổ chức tín dụng cho vay và tổ chức bảo đảm.

- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết

15


Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức tín dụng và tổ chức chính trị – xã hội
kiểm tra việc sử dụng vốn vay
Trả nợ đầy đủ cả gốc và lãi vay đúng hạn cho tổ chức tín dụng
Hiện nay BLDS chưa quy định rõ về vai trò cụ thể của tổ chức đứng ra bảo
đảm tín chấp. Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định chi tiết hơn về quyền và nghĩa
vụ của tổ chức chính trị – xã hội đứng ra tín chấp. Ở đây, những tổ chức này có
nghĩa vụ:
Xác nhận theo yêu cầu của tổ chức tín dụng về điều kiện, hoàn cảnh của cá
nhân, hộ gia đình nghèo khi vay vốn tại tổ chức tín dụng đó
Chủ động hoặc phối hợp chặt chẽ với tổ chức tín dụng giúp đỡ, hướng dẫn,

tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn; giám sát việc sử dụng vốn
vay đúng mục đích, có hiệu quả; đôn đốc trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho tổ chức tín
dụng
Những tổ chức tín dụng này có quyền từ chối bảo đảm tín chấp, nếu xét thấy
cá nhân, hộ gia đình nghèo không có khả năng sử dụng vốn vay để sản xuất, kinh
doanh, làm dịch vụ và trả nợ cho tổ chức tín dụng.
Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự sinh ra để phục vụ cho nghĩa
vụ dân sự. Do đó, nó tồn tài bên cạnh nghĩa vụ dân sự được bảo đảm. Tín chấp là
một biện pháp mang tính dự phòng. Nghĩa là chỉ áp dụng khi nghĩa vụ được bảo
đảm không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng.
1.2.3. Hình thức và hiệu lực

• Hình thức
Theo quy định của BLDS 2005, hình thức của các biện pháp bảo đảm phải
được thể hiện bằng văn bản. Hình thức văn bản đóng vai trò quan trọng trong việc
tạo căn cứ để các bên thực hiện hợp đồng, là căn cứ để xác định trách nhiệm của các
bên nếu có tranh chấp xảy ra.
Bên cạnh việc lập văn bản thì các giao dịch bảo đảm cũng cần phải công
chứng, chứng thực nếu các bên có thỏa thuận hoặc trái pháp luật về thủ tục công
chứng, chứng thực, vì đây là một trong các điều kiện làm phát sinh hiệu lực của
giao dịch bảo đảm. Thông thường đối tượng của các giao dịch bảo đảm thuộc loại
tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì khi giao kết các bên phải công chứng, chứng

16


thực. Phòng công chứng chứng thực để bảo đảm giá trị pháp lý của giao dịch thông
qua xác định các điều kiện về tư cách chủ thể, ý chí tự nguyện của các bên và mục
đích, nội dung của giao dịch, tính pháp lý của tài sản giao dịch.
Trong một số trường hợp nhất định thì biện pháp bảo đảm cũng phải được

đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì mới phát sinh hiệu lực pháp luật.

• Hiệu lực
BLDS 2015 có sự phân định rõ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng với thời
điểm phát sinh hiệu lực của biện pháp bảo đảm đối với người thứ ba (hay “hiệu lực
đối kháng với người thứ ba” – một cách gọi khác được sử dụng trong BLDS 2015).

- Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng:
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết
hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc luật
có quy định khác (Điều 401 BLDS 2015).
Một trong những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 đó
là một số trường hợp, các quy định của Luật là các quy định ưu tiên áp dụng. Điều
này phần nào tránh được các vướng mắc khi áp dụng pháp luật bao gồm các quy
định chồng chéo của Luật, Nghị định, thông tư.

- Thời điểm đối kháng với người thứ ba:
Khác với BLDS năm 2005 khi chưa có quy định cụ thể về cách xác định thời
điểm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba, BLDS 2015 đã quy định thời
điểm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba cũng như
phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba là: đó là: (i) Nắm
giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm và (ii) Đăng ký biện pháp bảo đảm (Điều 297
BLDS năm 2015).
Việc quy định rõ thời điểm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba giúp bên nhận bảo đảm có căn cứ xác định thời điểm được quyền
truy đòi TSBĐ và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 BLDS năm
2015.

17



1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên thực hiện trong biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ

• Biện pháp cầm cố
 Nghĩa vụ của bên cầm cố tài sản
Bên cầm cố tài sản có các nghĩa vụ sau đây:
+ Giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố theo đúng thoả thuận;
+ Báo cho bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm
cố, nếu có; trong trường hợp không thông báo thì bên nhận cầm cố có quyền huỷ
hợp đồng cầm cố tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và
chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố;
+ Thanh toán cho bên nhận cầm cố chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài
sản cầm cố, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

 Quyền của bên cầm cố tài sản
Bên cầm cố tài sản có các quyền sau đây:
+

Yêu cầu bên nhận cầm cố đình chỉ việc sử dụng tài sản cầm cố trong

trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 333 của Bộ luật Dân sự 2005, nếu do sử dụng
mà tài sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị;
+ Được bán tài sản cầm cố, nếu được bên nhận cầm cố đồng ý;
+ Được thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu có thỏa thuận;
+ Yêu cầu bên nhận cầm cố giữ tài sản cầm cố trả lại tài sản cầm cố khi
nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt;
+ Yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản cầm
cố.


 Nghĩa vụ của bên nhận cầm cố tài sản
Bên nhận cầm cố tài sản có các nghĩa vụ sau đây:
+ Bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản cầm
cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố;
+ Không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản cầm cố;
không được đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác;
+ Không được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm
cố, nếu không được bên cầm cố đồng ý;

18


+ Trả lại tài sản cầm cố khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt
hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.

 Quyền của bên nhận cầm cố tài sản
Bên nhận cầm cố tài sản có các quyền sau đây:
+ Yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài
sản đó;
+ Yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo
quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ;
+ Được khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản cầm cố, nếu có thoả thuận;
+ Được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản
cho bên cầm cố.

• Biện pháp thế chấp tài sản
 Nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản
Bên thế chấp tài sản có các nghĩa vụ sau đây:
1. Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp;

2. Áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục, kể cả phải ngừng việc
khai thác công dụng tài sản thế chấp nếu do việc khai thác đó mà tài sản thế chấp có
nguy cơ mất giá trị hoặc giảm sút giá trị;
3. Thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với
tài sản thế chấp, nếu có; trong trường hợp không thông báo thì bên nhận thế chấp có
quyền huỷ hợp đồng thế chấp tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì
hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp;
4. Không được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, trừ trường hợp quy
định được quy định riêng.

 Quyền của bên thế chấp tài sản
Bên thế chấp tài sản có các quyền sau đây:
1. Được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trừ trường
hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế chấp theo thoả thuận;
2. Được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp;

19


3. Được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân
chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá
trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu
được hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp thay thế
cho số tài sản đã bán.
4. Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân
chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý.
5. Được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho bên
thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp
và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết;

6. Nhận lại tài sản thế chấp do người thứ ba giữ, khi nghĩa vụ được bảo đảm
bằng thế chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.

 Nghĩa vụ của bên nhận thế chấp tài sản
Bên nhận thế chấp tài sản có các nghĩa vụ sau đây:
1. Trong trường hợp các bên thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ về tài
sản thế chấp thì khi chấm dứt thế chấp phải hoàn trả cho bên thế chấp giấy tờ về tài
sản thế chấp;
2. Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm
xoá đăng ký trong các trường hợp được quy định.

 Quyền của bên nhận thế chấp tài sản
Bên nhận thế chấp tài sản có các quyền sau đây:
1. Yêu cầu bên thuê, bên mượn tài sản thế chấp trong trường hợp theo quy
định phải chấm dứt việc sử dụng tài sản thế chấp, nếu việc sử dụng làm mất giá trị
hoặc giảm sút giá trị của tài sản đó;
2. Được xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp, nhưng không được cản
trở hoặc gây khó khăn cho việc sử dụng, khai thác tài sản thế chấp;
3. Yêu cầu bên thế chấp phải cung cấp thông tin về thực trạng tài sản thế
chấp;

20


4. Yêu cầu bên thế chấp áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản,
giá trị tài sản trong trường hợp có nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của
tài sản do việc khai thác, sử dụng;
5. Yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản
đó cho mình để xử lý trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa
vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;

6. Giám sát, kiểm tra quá trình hình thành tài sản trong trường hợp nhận thế
chấp bằng tài sản hình thành trong tương lai;
7. Yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo quy định tại Điều 355 hoặc khoản 3
Điều 324 của Bộ luật này và được ưu tiên thanh toán.

• Biện pháp đặt cọc
 Nghĩa vụ của bên nhận đặt cọc:
Bảo quản, giữ gìn tài sản đặt cọc; không được khai thác, sử dụng tài sản đó,
trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Không được xác lập giao dịch đối với tài sản đặt cọc, trừ trường hợp bên đặt
cọc, bên ký cược đồng ý. (Điều 32 Nghị định số 163/2005/NĐ-CP)

 Quyền của bên nhận đặt cọc:
Bên nhận đặt cọc có quyền sở hữu tài sản đặt cọc, nếu bên đặt cọc từ chối
giao kết, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thoả thuận khác. (Điều 33 Nghị
định 163/2006/NĐ-CP)

 Người đặt cọc có nghĩa vụ:
Thanh toán cho bên nhận đặt cọc, bên nhận ký cược chi phí hợp lý để bảo
quản, giữ gìn tài sản đặt cọc, tài sản ký cược, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản đặt cọc cho bên nhận đặt cọc,
bên nhận ký cược đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu
trong trường hợp tài sản đó được chuyển quyền sở hữu cho bên nhận đặt cọc cược
theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả thuận. (Điều 30 Nghị định
163/2006/NĐ-CP)

 Người đặt cọc có quyền:

21



Bên đặt cọc có quyền yêu cầu bên nhận đặt cọc ngừng việc sử dụng tài sản
đặt cọc nếu do sử dụng mà tài sản có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị.
( Điều 31 Nghị định 163/2006/NĐ-CP)

• Về biện pháp ký cược
 Nghĩa vụ của bên ký cược
Thanh toán cho bên nhận ký cược chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài sản
ký cược, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản ký cược cho bên nhận ký cược
đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu trong trường hợp
tài sản đó được chuyển quyền sở hữu cho bên nhận ký cược theo quy định của pháp
luật hoặc theo thoả thuận.

 Quyền của bên ký cược.
Bên ký cược có quyền yêu cầu bên nhận ký cược ngừng việc sử dụng tài sản
ký cược, nếu do sử dụng mà tài sản có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị.

 Nghĩa vụ của bên hý cược
Bảo quản, giữ gìn tài sản ký cược; không được khai thác, sử dụng tài sản đó,
trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Không được xác lập giao dịch đối với
tài sản ký cược, trừ trường hợp bên ký cược đồng ý.

 Quyền của bên nhận ký cược
Bên nhận ký cược có quyền sở hữu tài sản ký cược trong trường hợp tài sản
thuê không còn để trả lại cho bên nhận ký cược, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

• Về biện pháp tín chấp
 Quyền của tổ chức chính trị - xã hội:
Tổ chức chính trị - xã hội có quyền từ chối bảo đảm bằng tín chấp, nếu xét

thấy cá nhân, hộ gia đình nghèo không có khả năng sử dụng vốn vay để sản xuất,
kinh doanh, làm dịch vụ và trả nợ cho tổ chức tín dụng.

 Nghĩa vụ của tổ chức chính trị - xã hội:
+ Xác nhận theo yêu cầu của tổ chức tín dụng về điều kiện, hoàn cảnh của cá
nhân, hộ gia đình nghèo khi vay vốn tại tổ chức tín dụng đó.
+ Chủ động hoặc phối hợp chặt chẽ với tổ chức tín dụng giúp đỡ, hướng dẫn,
tạo điều kiện cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn; giám sát việc sử dụng vốn

22


vay đúng mục đích, có hiệu quả; đôn đốc trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho tổ chức tín
dụng.

 Quyền của tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm bằng
tín chấp phối hợp trong việc kiểm tra sử dụng vốn vay và đôn đốc trả nợ.

 Nghĩa vụ của tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng có nghĩa vụ phối hợp với tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm
bằng tín chấp trong việc cho vay và thu hồi nợ.

 Nghĩa vụ của bên vay vốn
Bên vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết, tạo điều kiện
thuận lợi cho tổ chức tín dụng và tổ chức chính trị - xã hội kiểm tra việc sử dụng
vốn vay. trả nợ đầy đủ gốc và lãi vay đúng hạn cho tổ chức tín dụng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua việc khái quát chung về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ở
trên, ta dễ dàng có thể nhận thấy rằng đặc thù của pháp luật Việt Nam có sự phân

định về quan hệ dân sự và quan hệ kinh tế nên các biện pháp bảo đảm ghi nhận
trong BLDS chỉ áp dụng đối với các nghĩa vụ dân sự mà không phải là nghĩa vụ tài
sản nói chung, bao hàm cả trong lĩnh vực kinh tế, vì vậy cần có các giải pháp mới
nhằm thay đổi để giúp BLDS Việt nam phát huy được hiệu quả tốt nhất.

23


CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ BIỆN
PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
2.1. Những điểm mới của BLDS 2015 về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Bổ sung thêm hai biện pháp bảo đảm mới, đó là “cầm giữ tài sản” và “bảo
lưu quyền sở hữu”
2.1.1. Cầm giữ tài sản

• Xác lập cầm giữ tài sản
- Cầm giữ tài sản phát sinh từ thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên
có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
- Cầm giữ tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời
điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản.
(Căn cứ Điều 347 Bộ luật dân sự 2015)

• Quyền của bên cầm giữ
- Yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng song vụ.
- Yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán chi phí cần thiết cho việc bảo
quản, giữ gìn tài sản cầm giữ.
- Được khai thác tài sản cầm giữ để thu hoa lợi, lợi tức nếu được bên có
nghĩa vụ đồng ý.
Giá trị của việc khai thác tài sản cầm giữ được bù trừ vào giá trị nghĩa vụ của

bên có nghĩa vụ.
(Căn cứ Điều 348 Bộ luật dân sự 2015)

• Nghĩa vụ của bên cầm giữ
- Giữ gìn, bảo quản tài sản cầm giữ.
- Không được thay đổi tình trạng của tài sản cầm giữ.
- Không được chuyển giao, sử dụng tài sản cầm giữ nếu không có sự đồng ý
của bên có nghĩa vụ.
- Giao lại tài sản cầm giữ khi nghĩa vụ đã được thực hiện.
- Bồi thường thiệt hại nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản cầm giữ.
(Căn cứ Điều 349 Bộ luật dân sự 2015)

• Chấm dứt cầm giữ
24


Cầm giữ tài sản chấm dứt trong trường hợp sau:
- Bên cầm giữ không còn chiếm giữ tài sản trên thực tế.
- Các bên thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm khác để thay thế cho cầm
giữ.
- Nghĩa vụ đã được thực hiện xong.
- Tài sản cầm giữ không còn.
- Theo thỏa thuận của các bên.
(Căn cứ Điều 350 Bộ luật dân sự 2015)
2.1.2. Bảo lưu quyền sở hữu
- Trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu
cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ.
- Bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn bản riêng hoặc được ghi
trong hợp đồng mua bán.
- Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ

thời điểm đăng ký.
(Căn cứ Điều 331 Bộ luật dân sự 2015)

• Quyền đòi lại tài sản
Trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán
theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua
số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường
hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu BTTH.
(Căn cứ Điều 332 Bộ luật dân sự 2015)

• Quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản
- Sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu
quyền sở hữu có hiệu lực.
- Chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp
có thoả thuận khác.
(Căn cứ Điều 333 Bộ luật dân sự 2015)

• Chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu
Bảo lưu quyền sở hữu chấm dứt trong trường hợp sau:
- Nghĩa vụ thanh toán cho bên bán được thực hiện xong.

25


×