Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý học văn hóa mối QUAN hệ GIỮA CON NGƯỜI và văn hóa ý NGHĨA TRONG sự PHÁT TRIỂN văn hóa gắn với sự HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.34 KB, 24 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA. Ý GHĨA
TRONG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA GẮN VỚI SỰ HOÀN THIỆN
NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
Văn hóa là phạm trù thuộc về con người, của con người, loài người, do con
người sáng tạo ra, vì cuộc sống và sự phát triển, hoàn thiện của chính mình, làm
cho con người trở thành Người, làm cho con người trở nên Người hơn, là tính
người, chất người. Mục tiêu và nội dung cốt lõi quan trọng nhất trong xây dựng
văn hóa là xây dựng con người - nhân cách. Văn hóa và con người là hai mặt của
cùng một vấn đề. Mục tiêu quan trọng nhất của văn hóa là con người. Mục tiêu
quan trọng nhất của vấn đề con người là văn hóa.
Khi ta nói đến nền văn hóa là nói về cái to lớn, vĩ mô, nhưng vẫn còn trừu
tượng. Trong cái vĩ mô ấy, nhất thiết phải có, phải xuyên suốt, đầu tiên và cuối
cùng, phần cốt lõi quan trọng nhất của văn hóa, là con người, từng con người, từng
cuộc đời, những con người, với nhân cách của họ. Cộng nhiều người lại, với quan
hệ xã hội của họ với nhau, thành một dân tộc, một xã hội. Để đánh giá văn hóa thế
nào thì quan trọng nhất là xem thử con người với nhân cách, đạo đức xã hội ra sao.
Từ khi nước ta tiến hành đổi mới đến nay, về văn hóa và con người, Việt
Nam đã có nhiều mặt tiến bộ đáng kể. Đời sống vật chất và tinh thần có nhiều mặt
khá hơn trước; giáo dục phát triển mạnh về quy mô, số lượng, mạng lưới, trình độ
học vấn của nhân dân cao hơn, đã phổ cập trung học cơ sở và xóa mù chữ trên toàn
quốc; con người ngày càng tiếp cận nhiều hơn với các nguồn thông tin đa dạng và
nhiều chiều, từ đó mà kiến thức và nhận thức nhiều mặt đã nâng lên…Tuy nhiên,
điều đáng lo ngại nhất là đạo đức xã hội có nhiều mặt xuống cấp, trong đó, có mặt
nghiêm trọng đáng báo động. Tiêu cực và tội phạm gia tăng. Nạn cướp của, giết
người, hãm hiếp và buôn bán phụ nữ, trẻ em; sự giả dối, lừa gạt, hàng giả, thuốc
chữa bệnh giả, thực phẩm độc hại; buôn bán ma túy…

1


NỘI DUNG


1. Khái niệm con người và văn hóa
1.1. Khái niệm con người.
Con người là thực thể sinh vật - xã hội, có ý thức, có ngôn ngữ, là chủ thể
của hoạt động lịch sử và hoạt động nhận thức. Khái niệm con người chỉ ra những
đặc tính chung của các cá thể thuộc chủng loại người, phản ánh sự khác biệt về
chất giữa con người và con vật. Như vậy khi nói tới con người có mấy điểm chú ý :
* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội.
Thứ nhất, con người là một thực thể tự nhiên, là sản phẩm của tự nhiên,
nhưng là sản phẩm cao nhất của tự nhiên. Vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của tự
nhiên.
Như vậy, tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự tồn tại của con người là giới tự
nhiên. Con người là động vật cao cấp, là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá
trình tiến hoá lâu dài của giới sinh vật, như thuyết tiến hoá của Đác uyn đã chứng
minh. Vì vậy, con người là bộ phận của giới tự nhiên, giới tự nhiên là thân thể vô
cơ của con người..
Thứ hai, là một thực thể tự nhiên, con người cũng có như động vật khác như
nhu cầu về sinh lý và cũng có các hoạt động bản năng: đói phải ăn, khát phải uống,
sinh hoạt tình dục… Nhưng giải quyết những nhu cầu đó ở con người có bước tiến
xa hơn so với động vật, kể cả so với khi con người mới thoát thai khỏi động vật.
Chính quá trình sinh thành, phát triển và mất đi của con người qui định bản tính
sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người là một sinh vật có đầy đủ
bản tính sinh vật.
2


Thứ ba, mặt tự nhiên và mặt xã hội thống nhất trong con người, mặt tự nhiên
là “nền” cho con người, mặt xã hội nâng mặt tự nhiên của con người lên trên động
vật.
Con người khác động vật ở chỗ có tư duy và hoạt động có mục đích. Mác
không thừa nhận quan điểm cho rằng: cái duy nhất tạo nên bản chất con người là

đặc tính sinh vật. Con người là một sinh vật nhưng có nhiều điểm khác với sinh
vật. Vậy con người khác con vật ở chỗ nào? Theo Mác mặt xã hội của con người,
có điểm nổi bật, hơn hẳn và phân biệt với động vật là con người có hoạt động lao
động sản xuất vật chất. Qua quá trình lao động sản xuất: con người sản xuất ra của
cải vật chất phục vụ cho cuộc sống cho mình và cho đồng loại. Sản xuất ra các giá
trị tinh thần làm phong phú thêm đời sống của mình. Lao động là yếu tố hình thành
bản chất xã hội của con người, hình thành nhân cách ở con người.
Thứ tư, là sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội nên ở con người luôn chịu
sự chi phối của ba hệ thống qui luật: Hệ thống qui luật tự nhiên: qui định sự phù
hợp của cơ thể sống với môi trường, qui luật trao đổi chất, qui luật biến dị, di
truyền. Hệ thống qui luật tâm lý ý thức: như sự hình thành tình cảm, khát vọng,
niềm tin, ý chí… Hệ thống qui luật xã hội: qui định mối quan hệ giữa người với
người, đó là qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, qui luật với cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng…
Tóm lại, con người khác con vật ở cả ba mặt: quan hệ với tự nhiên, quan hệ
với xã hội và quan hệ với bản than. Cả ba mối quan hệ đều mang tính xã hội, trong
đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát mọi hoạt động của con người,
cả trong lao động sinh con đẻ cái và trong tư duy.
* Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã viết:..”Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội".
3


Luận điểm trên chỉ rõ: không có con người trừu tượng thoát ly khỏi điều
kiện cụ thể, con người luôn tồn tại trong điều kiện lịch sử nhất định. Nghĩa là con
người cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý
thức.
Luận điểm đó được biểu hiện trên các góc độ sau:

Bản chất con người được qui định bởi tất cả các mối quan hệ xã hội, tức là
bị qui định bởi mối quan hệ giữa người với người. Đó là các mối quan hệ về vật
chất, quan hệ về tinh thần giữa người với người. Quan hệ giữa người với người
trong xã hội đương đại qui định bản chất của con người thì suy đến cùng quan hệ
vật chất, quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định nhất. Bởi vì đời
sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, động cơ chi phối hoạt động của con
người là lợi ích, trong đó lợi ích kinh tế là quyết định nhất.
Bản chất con người phải đặt trong quan hệ đồng loại (cộng đồng) với cá
nhân trong đó mặt cộng đồng có xu hướng xích lại gần hơn. Con người hoà nhập
vào cộng đồng, mang bản chất của nó vào và thể hiện bản sắc của nó. Bản chất con
người vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại. Con người luôn bị chi phối
bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện sinh hoạt tinh thần của thời đại. Thời đại
nào có con người ấy. Tuy nhiên không được quá nhấn mạnh, đi đến chỗ tuyệt đối
hoá thực tế của con người trong những điều kiện nhất định sẽ dẫn tới sai lầm vì
không thể giải thích nổi những hiện tượng phức tạp của đời sống xã hội.
* Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới
hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của lịch
sử - xã hội. Các Mác đã từng viết “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con
người là sản phẩm của hoàn cảnh và của giáo dục…cái học thuyết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân các nhà giáo dục cũng
cần phải được giáo dục.”
4


Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, qua hoạt động thực tiễn, con người
tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của lịch
sử xã hội. Thế giới động vật dựa vào những điều kiện sẵn có của tự nhiên, với xã
hội loài người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn họ sáng tạo ra thiên nhiên

thứ hai của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Trên cơ sở nắm bắt qui luật của lịch sử xã hội, con
người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp
đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu thực tiễn do con người đặt ra.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ đối
với điều kiện lịch sử xã hội, luôn vận động biến đổi cũng phải thay đổi cho phù
hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà trái lại, là một
hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Có thể nói rằng sự
vận động và tiến lên của lịch sử sẽ qui định tương ứng (mặc dù không trùng khớp)
với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Do đó, để phát triển bản chất người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là môi trường tự nhiên
và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các
giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó
con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên
nhiều phương diện khác nhau.
1.2. Khái niệm văn hóa.
* Khái niệm: Từ "văn hoá" có biết bao nhiêu là nghĩa, nó được dùng để chỉ
những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Tuy được dùng theo nhiều nghĩa
khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm văn hoá bao giờ cũng có thể qui về hai
cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
5


Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng,
theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu
là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới

hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực
(văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo không gian, văn hoá
được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn
hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị
trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…)…
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do
con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [Hồ Chí Minh
1995: 431]. Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số
người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và
sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân
tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín
ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được
cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá
họp năm 1970 tại Venise” [UNESCO 1989].
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên
được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin.
6


Từ góc độ tâm lý học, có thể hiểu: Văn hóa là phức hợp tâm lý mang tính
chỉnh thể được hình thành và phát triển cao độ trong hoạt động và giao tiếp của cá

nhân, phản ánh dấu ấn của một cộng đồng và là một nhân tố quan trọng bậc nhất
góp phần hình thành, phát triển toàn diện nhân cách con người.
Ở một mức độ nhất định, văn hóa là chung cho tất cả các thành viên của
nhóm tạo nên nền văn hóa. Những khác biệt cá nhân về văn hóa của nhiều người
có thể được quan sát theo mức độ họ tiếp nhận và chia sẻ các nguyên tắc, giá trị,
quan niệm và hành vi.
Nếu bạn cư xử phù hợp với mô hình hành vi chung và giá trị thì khi đó văn
hóa tồn tại trong các bạn. Nếu bạn không chia sẻ những giá trị hay mô hình hành vi
chung thì bạn không là một bộ phận của văn hóa. Lịch sử của văn hóa là lịch sử
phát triển của con người và loài người. Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm
cho con người thành người.
Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn
hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của
con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu
hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
* Những đặc điểm của văn hóa
Xét từ góc độ tâm lý học, văn hóa có những đặc điểm cơ bản sau:
Văn hóa là một nhân tố quan trọng bậc nhất tạo ra con người và sự phát
triển tâm lý ở trình độ cao. Sự phát triển đó được coi như kết quả của những sự
tương tác giữa kiểu gen, văn hóa và môi trường hoạt động của con người.

7


Văn hóa luôn mang tính chất kép, tiềm ẩn và tường minh: (tiềm ẩn với người
khác, tường minh với mình). tùy thuộc vào sự phát hiện, tiếp thu những giá trị của

nó. Có thể nói khác đi như M.Herskovits: VH tồn tại không phụ thuộc vào con
người và văn hóa không phải là gì khác, mà là một hiện thực tâm lý tồn tại trong
đâu óc của mỗi cá nhân.
Văn hóa là hệ thống những giá trị chung tồn tại khách quan trong cộng
đồng.
Mỗi cá nhân, nhóm tiếp thu các giá trị đó thông qua hoạt động và giao tiếp.
Các giá trị văn hóa có thể là tường minh hoặc tiềm ẩn đối với cá nhân hoặc
nhóm.
Tính hệ thống:Chỉnh thể, thống nhất, đan xen trên nhiều lĩnh vực
Mọi sự kiện hiện tượng thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết
với nhau. Nếu biết một dân tộc sống ở đâu, ăn như thế nào, có thể nói được
rằng dân tộc đó mặc và ở ra sao, suy nghĩ và ứng xử như thế nào? Văn hóa
thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương
tiện để đối phó với môi trường tự nhiên và xã hội.
Tính giá trị: có giá trị
Văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Văn hóa
thực hiện chức năng điều chỉnh xã hội, định hướng các chuẩn mực, điều chỉnh
các ứng xử của con người.
Tính nhân sinh: do con người sáng tạo ra
Văn hóa là một hiện tượng xã hội, có nguồn gốc tự nhiên. Văn hóa là sản
phẩm hoạt động thực tiễn của con người, là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác
động của con người.
Tính lịch sử: là quá trình hình thành lâu dài...

8


Văn hóa bao giờ cũng được hình thành trong một quá trình và được tích lũy
qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dầy, một chiều sâu. Tính lịch
sử buộc văn hóa tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.

Tính bền vững: Tính ổn định tương đối
Khi một tập quán hay một thói quen nào đó lan ra khá rộng, dù tác động của
những ảnh hưởng khác nhau đối với chúng có thể yếu đi, nhưng chúng vẫn tiếp tục
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa giống như một dòng thác, khi
đã tạo ra được luồng lạch thì tiếp tục chảy trong nhiều thế hệ liền.
Tính đồng nhất văn hóa: sự giống nhau về văn hóa trong nhóm, dân tộc...
Tính đồng nhất văn hóa chỉ đặc điểm tâm lý của các cá nhân trong một nền
văn hóa nhất định. Văn hóa là cấu trúc tâm lý, là hệ thống các quy tắc chung nên rõ
ràng mọi người có thể không chỉ có một sự đồng nhất văn hóa, mà trong một số
trường hợp còn nhiều hơn. Những đồng nhất văn hóa ngày nay càng trở nên phổ
biến khi ranh giới giữa các nền văn hóa càng mờ đi.
Giao tiếp giữa các đại diện của những nền văn hóa khác nhau được mở rộng.
Số lượng các cuộc kết hôn giữa các nền văn hóa không ngừng tăng lên.
Văn hóa là cấu trúc xã hội ở cấp độ vĩ mô, đồng nhất những đặc điểm, thuộc
tính của chúng ta với những người khác. Văn hóa ảnh hưởng tới lối sống của
chúng ta.
Văn hóa hình thành, củng cố kinh nghiệm, hành vi, những nguyên tắc và
tình cảm của chúng ta. Trong công việc, học tập, thời gian rỗi hay giao tiếp với
người khác, chúng ta đều dựa vào nền văn hóa của bản thân .
2. Mối quan hệ giữa con người và văn hóa.
2.1. Biện chứng giữa con người và văn hóa.
Văn hoá và con người là hai khái niệm không tách rời nhau. Con người xuất
hiện từ lúc nào thì văn hoá xuất hiện từ lúc ấy. Con người là chủ thể sáng tạo ra
9


văn hoá. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình, con người luôn sáng
tạo không ngừng để làm nên các giá trị văn hoá. Một trong số những giá trị văn
hoá được con người sáng tạo ra ấy chính là bản thân con người – con người có văn
hoá. Con người sáng tạo ra văn hoá, đồng thời chính con người cũng là sản phẩm

của văn hoá.
Với tư cách là sản phẩm của văn hoá, con người là một vật mang văn hoá
tiêu biểu. Các giá trị văn hoá vật chất có thể mất đi, nhưng nếu con người - vật
mang văn hoá còn thì nền văn hoá vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển. Trong một
ngàn năm Bắc thuộc và 20 năm quân Minh xâm lược, kẻ thù đã chủ ý tàn phá một
cách không thương tiếc các giá trị văn hoá Việt Nam vĩ đại được tạo nên vào các
giai đoạn Văn Lang - Âu Lạc và Lý - Trần, hòng xoá khỏi kí ức người Việt Nam
mọi dấu vết của một nền văn minh rực rỡ. Chùa Diên Hựu vừa độc đáo vừa kì vĩ
với hồ vuông ở trong và hồ tròn Linh Chiểu ở ngoài dựng năm 1049, với quả
chuông đồng nặng vài vạn cân đúc năm 1101 (đúc rồi không treo lên được), qua
biết bao lần tàn phá, các đời sau mỗi lần làm lại mỗi thu nhỏ và giản lược bớt đi,
đến nay chỉ còn là một mô hình nhỏ bé (mà ta quen gọi là “chùa Một Cột”) gây
cho du khách biết mấy ngạc nhiên về sự thiếu tương xứng của nó với tầm vóc của
văn hoá dân tộc. Mặc dù vậy, như ta đã thấy, nhờ có con người Việt Nam mà đến
nay văn hoá Việt Nam vẫn trường tồn cùng năm tháng.
Trong lịch sử nhân loại, những giá trị văn hoá cơ bản đã tạo nên Con Người,
đã làm cho loài “homo sapiens” (người thông minh) trở nên khác biệt hẳn so với
các đồng loại của mình trong giới tự nhiên là:
Biết tạo ra và sử dụng lửa và công cụ lao động (khỉ chỉ có thể sử dụng những
công cụ thô sơ có sẵn như đoạn cành cây để chọc quả).
Có tiếng nói (ngôn ngữ) để diễn đạt các tư tưởng, tình cảm phong phú của
mình (động vật chỉ có thể phát ra những âm thanh đơn giản thể hiện những thông
báo riêng lẻ như “nguy hiểm”, “có mồi” hoặc nhại lại vài ba từ mà không hiểu
nghĩa).
10


Có khả năng chế ngự bản thân mình bằng hệ thống kiêng kỵ, luật pháp…
(chó, mèo chỉ có thể biết kiềm chế có mức độ nhờ phản xạ có điều kiện, chẳng thế
mà tục ngữ Việt Nam có câu: “Chó treo mèo đậy”).

Biết tạo ra các nhóm xã hội (từ những nhóm nhỏ cho đến quốc gia…) mà
trong đó con người ý thức được ý nghĩa của nó (động vật chỉ tập hợp thành bầy
đàn một cách tự phát theo bản năng).
Trong bốn loại giá trị đó thì lao động và ngôn ngữ là hai loại giá trị quan
trọng nhất.
Đối với từng cá nhân, vai trò của văn hoá lại càng rõ. Văn hoá là cái môi
trường có sẵn mà đứa trẻ sau khi lọt lòng mẹ được “nhúng” vào. Nếu sau khi ra
đời, đứa trẻ bị ném vào rừng, bị bứt khỏi cái nôi văn hoá, nó sẽ lớn lên như một
con thú. Chỉ có sống trong môi trường văn hóa, nó mới trở thành Người. Tuỳ thuộc
vào chỗ được “nhúng” vào môi trường văn hóa nào, ở đứa bé sẽ hình thành nhân
cách văn hoá ấy. Một đứa trẻ do một bà mẹ Việt Nam sinh ra và được lớn lên ở
Việt Nam, nó sẽ mang trong mình dòng máu văn hoá Việt Nam; nhưng nếu lại
được nuôi dưỡng và lớn lên trong một gia đình Mỹ ở Mỹ, nó sẽ trở thành người
Mỹ.
Trên phương diện con người, những “sản phẩm” văn hoá tiêu biểu nhất là
các danh nhân. Họ luôn xuất hiện ở mọi dân tộc, mọi thời đại. Các danh nhân văn
hoá là những đại diện xuất sắc nhất cho nền văn hoá của dân tộc mình, trong thời
đại của mình; đồng thời, họ cũng là những người góp phần quan trọng nhất vào
việc phát triển, nâng nền văn hoá của dân tộc mình lên một tầm cao mới. Trong
lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh… từng là những con người như thế.
Mối quan hệ mật thiết giữa văn hoá với con người, với cuộc sống của con
người chỉ ra tính nhân sinh của nó.
Trong điều kiện hiện nay, văn hoá và con người đang được các quốc gia
trên thế giới coi là nguồn nội lực quan trọng của chiến lược phát triển bền vững. Ở
11


Việt Nam, văn hoá và con người được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Nhưng, cần phải thấy rằng, bên cạnh những
điểm mạnh, tích cực, văn hoá và con người Việt Nam hiện vẫn còn một số yếu

kém cần được nhận diện, phân tích và khắc phục. Có như vậy, văn hoá mới thực sự
phát triển vai trò nền tảng của nội lực, con người mới thực sự là nhân tố quyết định
của nội lực. Nhiệm vụ quan trọng hiện nay của chúng ta là xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiên, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng XHCN trong đó, xây
dựng con người Việt Nam XHCN là vấn đề trung tâm.
Trong nỗ lực tìm kiếm động lực của sự phát triển bền vững, văn hoá và con
người hiện đang là những vấn đề được cả thế giới quan tâm. Đối với nhiều quốc
gia, kể cả những nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, văn hoá và con
người được coi là nội lực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ và xu
thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng như hiện nay. Ở
Việt Nam, trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt là từ khi đất nước bước vào
công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta luôn coi
trọng vấn đề văn hoá và con người. Cùng với việc đề cao yếu tố con người, văn
hoá được coi là "nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã lội".
2.2. Văn hóa với sự hình thành, phát triển nhân cách con người Việt
Nam.
Lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử của dân tộc Việt Nam đã chứng minh
rằng, văn hoá luôn gắn liền với cuộc sống của con người và sự phát triển của xã
hội, con người tồn tại, trưởng thành và phát triển nhờ văn hoá của mình. Nền văn
hoá truyền thống của dân tộc ta được kết tinh và khẳng định trong cuộc đấu tranh
và lao động sản xuất để tồn tại, phát triển của nhân dân trong lịch sử dựng nước và
giữ nước. Có thể nói, văn hoá và con người Việt Nam là những nhân tố quan trọng,
góp phần hình thành nên truyền thống lịch sử trải đài hàng ngàn năm của dân tộc.
12


Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, nhân tố văn hoá và con người Việt Nam được phát huy, tạo nên sức

mạnh nhấn chìm bọn đế quốc xâm lược, giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, thực
hiện thống nhất Tổ quốc. Ngày nay, những nhân tố đó tiếp tục đóng vai trò là động
lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ta phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".
Như chúng ta đã biết, từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, thế giới đã
xảy ra biết bao biến động nhanh chóng cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn
nữa, văn hoá và con người cũng không phải là "nhất thành bất biến”, trái lại, các
yếu tố đó cũng vận động, biến đổi cùng sự phát triển của lịch sử. Do vậy, để khai
thác, phát huy sức mạnh của văn hoá và con người Việt Nam với tính cách những
nguồn lực nội sinh quan trọng của sự phát triển xã hội, trước hết cần có sự phân
tích đánh giá đúng thực trạng của văn hoá và con người. Có thể nói, trong suất tiến
trình xây dựng xã hội mới của chúng ta, nhất là từ khi đất nước bước vào thời kỳ
đổi mới, việc nghiên cứu các vấn đề văn hoá và con người Việt Nam luôn được coi
trọng. Trên thực tế nhiều chương trình nghiên cứu cấp bộ và cấp Nhà nước nhiều
hội thảo khoa học xoay quanh các vấn đề văn hoá và con người Việt Nam đã được
tổ chức, triển khai nghiên cứu từ các góc độ khác nhau. Đặc biệt, xây dựng văn hoá
và con người luôn là một trong những nội dung quan trọng trong văn kiện của các
kỳ Đại hội và một số Hội nghị Trung ương của Đảng.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm (khoá VIII), Đảng ta
đã có sự đánh giá đúng đắn, khách quan về những thành tựu, những yếu kém của
văn hoá và con người Việt Nam trên nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực hoạt động.
Tiếp nối những đánh giá đó, tiếng nói của công luận trên các phương tiện thông tin
đại chúng, như các báo chí xuất bản hàng ngày, vô tuyến truyền hình, đài phát
thanh của trung ương và các địa phương đã thường xuyên có những bổ sung góp
13


phần phản ánh ngày càng đầy đủ, toàn diện và kịp thời cả những mặt mạnh, ưu

điểm lẫn những hạn chế, khiếm khuyết của văn hoá và con người Việt Nam hiện
nay.
3. Những điểm mạnh và hạn chế của con người và văn hóa Việt Nam
hiện nay.
3. 1. Một số điểm mạnh của văn hoá và con người Việt Nam.
Thử nhất, trong công cuộc đổi mới đất nước, trong điều kiện mới của khu
vực vào thế giới, con người Việt Nam vẫn luôn gắn bó mật thiết với những giá trị
văn hoá truyền thông, với những phẩm giá của dân tộc mà điểm nổi bật là tinh thần
yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự cường, đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc.
Biểu hiện của điểm mạnh này là thái độ tích cực của mỗi công dân trước vận mệnh
của Tổ quốc, trước các chuyển đổi về kinh tế, xã hội hiện nay.
Thứ hai, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện đức tính cần cù, sáng tạo
trong mọi hoạt động. Đức tính này là một giá trị đặc trưng, chiếm vị trí xứng đáng
trong bảng giá trị về nhân cách của con người Việt Nam. Thái độ tích cực của con
người Việt Nam trong định hướng và lựa chọn giá trị này là điều kiện hết sức
thuận lợi cho công tác giáo dục, từ giáo dục truyền thống, lối sống đến giáo dục
đạo đức, nhân cách con người hiện đại... nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, nét đặc trưng của đời sống tinh thần, của phẩm giá của con người
Việt Nam là truyền thông cộng đồng, lòng nhân ái, nhũng tình cảm vị tha và khoan
dung... vẫn được giữ vừng, phát huy trong điều kiện mới của đất nước. Những giá
trị mang tính nền tảng cốt lõi ấy là cơ sở để phát triển tính nhân văn và xây dựng
văn hoá Việt Nam hiện đại, tiên tiến, mang bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định
rằng, đây là một thuận lợi căn bản để chúng ta thực hiện chương trình văn hoá
trong toàn xã hội đối với các thế hệ con người Việt Nam hiện nay và mai sau.

14


Thứ tư, con người Việt Nam vẫn giữ được truyền thông hiếu học, tôn sư

trọng đạo và sự hình thành, phát triển các giá trị mới của văn hoá và con người đã
chứng minh sự kết hợp giữa truyền thống với hiện đại trong thời kỳ đổi mới và đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ năm, trong công cuộc đổi mới, mô hình gia đình truyền thống đang có
những biến đổi lớn, phức tạp do sự tác động của kinh tế hàng hoá, cơ chế thị
trường, do những biến đổi của xã hội đang quá độ lên CHXH... Tuy vậy, những giá
trị tinh thần, đạo lý của gia đình truyền thống vẫn được giữ vững, có ảnh hưởng
tích cực trong đời sống gia đình Việt Nam, vẫn là nhân tố quan trọng đảm bảo sự
ổn định và phát triển bền vững của xã hội.
3.2. Một số hạn chế trong văn hóa và con người Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh trên đây, chúng ta cũng cần phải
nhận diện một số yêu kém trong văn hoá và con người Việt Nam hiện nay. Điều
này được thể hiện ở chỗ:
Phong cách sản xuất nhỏ biểu hiện trong thói quen, tập quán, lối sống và
cách ứng xử, nếp suy nghĩ, lề thói làm ăn... của người Việt Nam vẫn đang là những
cản trở không nhỏ đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Những mặt trái của kinh tế thị trường đang tác động tiêu cực tới sự phát triển
văn hoá và con người Việt Nam. Một trong những biểu hiện rõ nét của xu hướng
này là sự suy giảm về mặt đạo đức của không ít người, nhất là lớp trẻ, thậm chí của
cả một số cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất. Cùng với đó là sự xuất hiện các
yêu tố tiêu cực khác, như chủ nghĩa cục bộ, địa phương, lối sống thực dụng chạy
theo đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi vật chất, xa hoa, lãng phí, sự phát triển
chủ nghĩa cá nhân vị kỷ biểu hiện trong lối sống, trong cách ứng xử giữa người với
người. Những tiêu cực này đang ảnh hưởng đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống
của nhân dân ta. Vấn đề đặt ra ở đây chính là vấn đề quan hệ con người trong nền
kinh tế thị trường, là ý thức về trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối với
những người thân trong gia đình, đối với cộng đồng và toàn xã hội. Nếu không đặt
15



vấn đề giáo dục truyền thống, nếu không chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống...
một cách đúng mức cả trong gia đình, nhà trường lẫn xã hội thì tình trạng suy thoái
đạo đức chẳng những không sớm được ngăn chặn, mà còn đứng trước nguy cơ tiếp
tục gia tăng.
Phân tích cội nguồn dẫn tới các yếu kém trên đây, ngoài việc chỉ rõ những
nguyên nhân khách quan, Đảng ta cho rằng, nguyên nhân chủ quan là do: chưa đặt
đúng vị trí của văn hoá, chưa xây dựng được chiến lược phát triển văn hoá song
song với chiến lược phát triển kinh tế, chưa xử lý nghiêm những phần tử thoái hoá
biến chất trong đảng và bộ máy Nhà nước, việc quản lý còn có dấu hiệu bị buông
lỏng, chưa có cơ chế và chính sách phát huy nội lực của nhân dân, chưa tạo được
phong trào quần chúng mạnh mẽ tham gia phát triển văn hoá, xây dựng nếp sống
văn minh, bảo vệ văn hoá dân tộc, chưa coi trọng bồi dưỡng, giáo dục và phát huy
khả năng của tuổi trẻ là lực lượng chính, là đối tượng chủ yếu của hoạt động văn
hoá.
4. Ý nghĩa phát triển văn hóa gắn với sự hoàn thiện nhân cách con
người Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở phân tích những thành tựu, những yếu kém của văn hoá và con
người ở nước ta hiện nay, Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khoá VIII) của Đảng
đã ra Nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định rằng, đây là một văn kiện quan trọng mang tính
chất cương lĩnh, đánh đấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy của Đảng về vấn đề
văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
Nghị quyết này, Đảng ta coi văn hoá là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của
phát triển và yếu tố quyết định nội lực là chất lượng con người. Vì vậy, xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản: dân tộc, hiện đại, nhân văn là nhiệm vụ rất
quan trọng trong công cuộc đổi mới. Một trong những nội dung trọng tâm của nền
văn hoá ấy là xây dựng con người Việt Nam XHCN.
16



Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ chín khóa XI của Đảng đã nêu ra
quan điểm: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách của con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Đây là một trong những quan điểm chỉ đạo
nhằm phát triển mạnh mẽ nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới. Hội nghị
Trung ương lần thứ chín, khóa XI của Đảng đã ra Nghị quyết về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Nghị quyết nhấn mạnh các quan điểm chỉ đạo về xây dựng, phát triển văn hóa, con
người Việt Nam. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, thể hiện các đặc trưng Dân tộc Nhân văn Dân chủ và Khoa học.
Xây dựng và phát triển con người Việt Nam là trọng tâm, là cốt lõi và thực chất
của xây dựng, phát triển văn hóa. Hệ giá trị của con người Việt Nam thống nhất
hữu cơ với các đặc trưng của văn hóa, đồng thời, các giá trị của con người Việt
Nam lại là sự thể hiện sinh động, tiêu biểu nhất các giá trị, sức sống của văn hóa,
của bản sắc truyền thống dân tộc, của sự kết hợp hài hòa truyền thống với hiện đại,
dân tộc với thế giới và thời đại. Diện mạo tinh thần của dân tộc Việt Nam một dân
tộc giàu truyền thống văn hóa và văn hiến được thể hiện tập trung và nổi bật ở trí
tuệ và tâm hồn, đạo đức, nhân cách và lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam.
Đó là những con người yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,
sáng tạo như Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra. Chỉ như vậy, văn hóa và con người
mới thực sự là mục tiêu và động lực của phát triển bền vững và hiện đại hóa đất
nước, mới tạo ra sức mạnh của nguồn lực nội sinh, sức mạnh tổng hợp của đất
nước, dân tộc, con người và văn hóa đưa sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế
Việt Nam tới thành công, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nội sinh của văn hóa như nguồn trữ năng vật chất tinh thần của cả xã hội,
kết hợp với ngoại sinh được tận dụng nhờ hội nhập quốc tế có hiệu quả, tạo ra nội
lực và ngoại lực thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam. Cả nội sinh
lẫn ngoại sinh, cả nội lực lẫn ngoại lực kết hợp lại thành ra nguồn lực tổng hợp như
vốn xã hội để phát triển. Không có nguồn lực nào quan trọng và quý giá bằng
nguồn lực con người, bằng nguồn nhân lực, từ nhân lực hiện hữu bằng sức lao

17


động đã trưởng thành, đang được sử dụng đến nhân lực tiềm tàng, tiềm năng đang
được nuôi dưỡng, đào tạo, nó như “của để dành”, như “vốn dự trữ” cho tương lai.
Do đó, vốn người, “tư bản” người là quan trọng bậc nhất, quyết định nhất vốn xã
hội, nhìn từ quan điểm phát triển, từ lăng kính quản lý xã hội, quản trị doanh
nghiệp và sâu xa hơn từ tầm nhìn văn hóa, từ triết lý nhân văn của phát triển văn
hóa, phát triển con người. Vì lẽ đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương chín, khóa XI
xác định rằng, “phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa”. Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên
hệ bên trong mật thiết, gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời giữa văn hóa với con
người, giữa con người với văn hóa, về thực chất, phát triển văn hóa là phát triển
con người, lấy phát triển con người là trọng tâm.
Phát triển con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân lực để phát
triển văn hóa mà con người với năng lực sáng tạo, trình độ học vấn, tiềm lực trí
tuệ, phẩm giá đạo đức, lối sống của nó, tựu trung lại là sự phát triển và hoàn thiện
nhân cách của con người là tính hướng đích, là mục đích, mục tiêu của phát triển
văn hóa. Xét theo quan điểm giá trị thì hệ giá trị Chân Thiện Mỹ của văn hóa
cũng chính là hệ giá trị phát triển con người, con người vừa với tư cách là chủ thể
mang nhân cách của chính mình, phản ánh những chuẩn mực, yêu cầu của mẫu
nhân cách xã hội vừa với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, sản xuất ra văn hóa
dưới dạng các sản phẩm, các giá trị đồng thời còn là chủ thể quản lý, cảm thụ, tiêu
dùng văn hóa, thực hiện các hoạt động quảng bá, giao lưu văn hóa, tiếp xúc và tiếp
biến văn hóa để phát triển xã hội, phát triển chính mình. Chỉ có con người mới là
chủ nhân đích thực của sáng tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất (vật thể) lẫn văn hóa
tinh thần (phi vật thể), cũng chỉ có con người, từ cấp độ cá nhân cá thể đến cấp độ
xã hội cộng đồng, dân tộc, rộng nhất là nhân loại, mới tạo dựng nên môi trường
văn hóa xã hội để phát triển văn hóa và phát triển xã hội nói chung, để làm cho
hiệu ứng xã hội của văn hóa (nhất là văn hóa tinh thần), lan tỏa, mở rộng, thấm sâu

vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhân lên sức sống, sức phát triển của con người,
của văn hóa, không chỉ những thế hệ người trong một dân tộc quốc gia, nền văn
18


hóa của mỗi dân tộc mà còn là sự phát triển của các dân tộc, của các nền văn hóa
trong thế giới nhân loại. Dòng chảy của sáng tạo và phát triển văn hóa là liên tục từ
quá khứ đến hiện tại và tương lai. Con đường đi của phát triển, văn minh, tiến bộ
của dân tộc cũng như của thế giới và thời đại là con đường của sáng tạo, phát triển
văn hóa, của hội nhập văn hóa mà trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không một
nước nào có thể ở bên ngoài tiến trình hội nhập để phát triển.
Biện chứng của mối quan hệ văn hóa với con người, con người với văn hóa
là ở tương tác nhân quả giữa chủ thể và đối tượng. Con người sáng tạo ra văn hóa
và chính văn hóa lại tác động sâu xa, rộng lớn tới phát triển con người, hoàn thiện
nhân cách, nhân tính. Có thể nói, con người là giá trị văn hóa cao nhất, giá trị của
mọi giá trị. Hoàn thiện nhân cách, nhân tính của con người là sứ mệnh của văn
hóa, là nỗ lực cao nhất mà sáng tạo văn hóa cần đạt đến, mà mọi thành quả, thành
tựu của văn hóa đều góp phần vào sự bộc lộ các năng lực người, khẳng định sức
mạnh bản chất người của con người trong phát triển, từ cá thể người đến cộng
đồng người trong dân tộc và trong nhân loại. Giáo sư Vũ Khiêu đã từng nhấn
mạnh, văn hóa là tất cả những gì cho thấy nhân tính vượt lên trên thú tính. Hoàn
thiện nhân tính, nhân cách con người rõ ràng là thước đo văn hóa. Đây là chỗ nói
lên bản chất nhân văn đích thực của văn hóa, cũng là chỗ phân biệt văn hóa với
phản văn hóa, phát triển với phản phát triển. Trong bản chất của nó, văn hóa chỉ
biểu đạt cái tốt đẹp, sự lương thiện và tử tế, sự chính trực và lẽ công bằng, trọng sự
thật và lẽ phải, tôn trọng chân lý khoa học, đạo lý và đạo nghĩa ở đời và làm người.
Văn hóa có cốt lõi của nó là đạo đức, mà đức là gốc của nhân cách. Tiềm lực tư
tưởng và trí tuệ là xung lực mạnh mẽ của văn hóa nên khoa học có mặt trong văn
hóa như một hợp phần không thể thiếu, không thể yếu. Lịch sử văn hóa bao giờ
cũng gắn liền với lịch sử của khoa học. Nhân cách trí thức khoa học cũng như nhân

cách nhà văn hóa sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực tinh thần văn học nghệ thuật
phải là những đại biểu xứng đáng và tiêu biểu cho nhân cách của dân tộc mình,
thời đại mình. Phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ ở tầm quốc sách
hàng đầu không chỉ là đột phá để tháo gỡ các điểm nghẽn trong phát triển mà sâu
19


xa hơn, còn là lựa chọn một định hướng có triển vọng nhất cho phát triển bền
vững, từ hiện tại tới tương lai. Bởi lẽ, phát triển bền vững của đất nước thực chất là
phát triển bền vững con người mà muốn vậy, phải đặc biệt chú trọng thực hiện
chiến lược phát triển văn hóa. Chỉ có tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh mới
có thể tạo ra những con người mang nhân cách văn hóa, mới sáng tạo, sản sinh ra
văn hóa vì con người, vì phát triển. Đúng như điều C. Mác nói, nếu con người là
sản phẩm của hoàn cảnh thì phải làm cho hoàn cảnh ngày càng có tính người nhiều
hơn, và sự phong phú của mỗi cá nhân (nhân cách) tùy thuộc vào sự phong phú của
những mối liên hệ xã hội của nó.
Xây dựng và phát triển văn hóa để hoàn thiện nhân cách con người phải làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, mọi quan hệ xã hội của con
người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ chủ kiến ấy của mình, văn hóa không ở bên
ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Phải
đem văn hóa mà chữa thói phù hoa, xa xỉ, quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng.
Cũng phải dùng thực hành văn hóa mà xây dựng đời sống mới, phát huy dân chủ
và quyền làm chủ của nhân dân. Trong kháng chiến cũng như trong kiến quốc,
luôn luôn cần đến nhân tài và phải có chính sách để bồi dưỡng, phát huy, phát triển
nhân tài, biết quý trọng, tin cậy hiền tài. Không có con người xã hội chủ nghĩa thì
không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội được. Do đó, kiến thiết đất nước,
xây dựng nền văn hóa mới phải đi liền với chiến lược con người, Đảng phải coi
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là công việc gốc của Đảng. Những luận điểm như thế
của Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc về tầm nhìn chiến lược của nhà tư tưởng và nhà
văn hóa kiệt xuất, mà vào lúc này, Đảng ta đang ra sức vận dụng, phát triển. Để

phát triển văn hóa và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam theo đúng quan
điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp mà Đảng đã xác định, trong tình hình
hiện nay của nước ta và trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, cần phải tập
trung triển khai thực hiện những công việc cụ thể, thiết thực, có ích cho nước, có
lợi cho dân, những việc làm thực tế, hợp với ý nguyện của lòng dân. Trước hết,
phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất, tinh thần từ công sức, mồ hôi
20


nước mắt, sức sáng tạo của dân mà có được để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều
công ăn việc làm cho người dân, giải quyết nạn thất nghiệp đang nhức nhối trong
xã hội hiện nay, bởi tình trạng hàng vạn thanh niên sinh viên tốt nghiệp, có học
thức mà không có việc làm. An sinh là cái gốc của ổn định và phát triển, là tiền đề
cho phát triển con người và văn hóa. Thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí
và đẩy lùi tham nhũng để chăm lo cuộc sống cho người dân, nâng cao chất lượng
cuộc sống và trình độ của dân, từ chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân
quyền để đi tới dân chủ. Đó là một tổng hợp chương trình, chính sách phát triển
kinh tế, xã hội, đó còn là chính trị, là đường lối, chính sách chính trị vì dân, cũng là
văn hóa trọng dân trọng pháp rất cần trong lúc này, khi lòng dân không yên, do
không ít cán bộ suy thoái, hư hỏng. Không có văn hóa và văn hóa chính trị nào
cao quý hơn khi thực hiện cho được một nguyên tắc, một phương châm hành động
“làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, có an dân thì mới đo được kết quả
của việc trị quốc. Có quốc thái thì sẽ có dân an.
Từ bài học của ông cha ta trong lịch sử đến Di sản cao quý của Chủ tịch Hồ
Chí Minh mà kế thừa, thực hiện và phát triển vào lúc này thì mọi việc lớn và nhỏ
phải luôn luôn vì dân, phải coi “dĩ công vi thượng” là văn hóa đạo đức, văn hóa
chính trị hàng đầu trong giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên, trong chỉnh đốn
Đảng, trong cải cách thể chế, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân. Giáo dục đạo đức, đặc biệt là giáo dục liêm sỉ, lương tâm, danh dự, giáo dục ý
thức trách nhiệm đi liền với thực hành đạo đức, lối sống liêm khiết phải được coi

trọng trong văn hóa của Đảng, của các tổ chức công quyền. Cùng với giáo dục
phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tính tôn nghiêm luật pháp, áp dụng chế tài mạnh
mẽ để trừng phạt tất cả những người, những việc gây hại tới dân. Đó là sức mạnh
của văn hóa, của chính trị bảo đảm “quang minh chính đại” theo chỉ dẫn của Hồ
Chí Minh. Những người tốt phải được tôn vinh, những kẻ xấu phải bị phê phán, lên
án, sàng lọc khỏi bộ máy để dân tin, dân tự mình bảo vệ Đảng và chế độ. Sức
mạnh của văn hóa và giá trị nhân cách con người, nhất là văn hóa trong Đảng và
nhân cách văn hóa của mỗi cán bộ đảng viên, ở các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà
21


nước và các đoàn thể luôn là chỉ số quan trọng để thuyết phục dân, lấy lại niềm tin
của dân đối với Đảng, với chế độ. Tăng trưởng niềm tin của dân vào lúc này có tác
dụng như một động lực phát triển, nó minh chứng cho sự trong sạch, vững mạnh
của Đảng từ tác động của văn hóa.
KẾT LUẬN
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được hình thành và phát triển
trong mối quan hệ giữa con người và hội. Song chính văn hóa lại tham gia tạo nên
con người và duy trì sự bền vững, trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển
trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ
phát triển của con người và xã hội được biểu hiện dưới các kiểu và hình thức tổ
chức đời sống, hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh
thần do con người tạo ra. Như vậy ta thấy giữa văn hóa và con người có mối quan
hệ biện chứng với nhau, văn hóa xuất hiện từ khi có con người, văn hóa tạo ra sự
hình thành và hoàn thiện nhân cách con người. Ngược lại nhân cách phát triển
hoàn thiện sẽ tác động trở lại văn hóa làm cho văn hóa cũng phát triển.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khóa XI về văn hóa đã nhấn
mạnh vấn đề cốt lõi, trung tâm của xây dựng văn hóa là xây dựng con người có
nhân cách, đạo đức tốt đẹp. Tinh thần ấy thể hiện xuyên suốt trong Nghị quyết, từ

tên gọi đến mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp. Đây là điểm cần đặc biệt
lưu ý để luôn bám chắc mục tiêu chủ yếu trong quá trình xây dựng văn hóa. Nền
văn hóa là cái to lớn, nhưng cũng sẽ chưa có nghĩa gì nếu như trong đó vấn đề con
người - nhân cách không được quan tâm đúng mức, để cho đạo đức suy đồi.
Con người Việt Nam phải là những con người yêu nước. Trong xây dựng
văn hóa cần quan tâm thường xuyên việc xây đắp lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.
Nhờ đặc điểm này của văn hóa Việt Nam mà chúng ta đã giữ được nước, lấy lại
được nước sau bao nhiêu lần bị kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều đến xâm lược và đô
hộ; nhờ đó mà chúng ta không bị đồng hóa qua một nghìn năm Bắc thuộc. Ngày
22


nay cũng cần phải lấy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc làm bàn đạp và chỗ
dựa để tiến lên, phát triển. Trong thế giới hội nhập, với cuộc tiếp biến văn hóa ở
quy mô toàn cầu, chỉ có phát triển mới tồn tại chính mình - một dân tộc thực sự
độc lập.
Quân đội nhân dân Việt Nam mà đại bộ phận là lực lượng thanh niên ưu tú
của dân tộc, được lớn lên từ chiếc nôi văn hóa của dân tộc, lại được Đảng ta và Bác
Hồ trực tiếp lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, từ rất lâu được mang danh hiệu Bộ
đội Cụ Hồ-một biểu tượng văn hóa vừa gần gũi, thân thương, vừa cao quý của dân
tộc Việt Nam. Xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam theo tinh
thần văn hóa biện chứng trong lực lượng vũ trang nhân dân hôm nay chính là làm
sống lại và rạng rỡ thêm danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ ở thời kỳ lịch sử mới- thời kỳ đất
nước đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Là quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, với nhiệm vụ thiêng liên
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bản thân nhận
thấy trách nhiệm trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, thấy được vai trò của văn hóa đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách con người Việt Nam nói chung, quân nhân nói riêng. Để làm tốt được nhiệm
vụ đó bản thân luôn: nhận thức đúng cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch

lợi dụng các vấn đề về văn hóa chống phá cách mạng Việt Nam là cuộc đấu tranh
phức tạp, quyết liệt và lâu dài. Các thế lực thù địch vô cùng thủ đoạn, gian xảo, mà
hiện nay chúng đang nhắm tới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp; lợi dụng, lừa gạt học sinh, sinh viên - những người năng động, sáng tạo,
mong muốn cống hiến cho đất nước nhưng chưa có nhiều trải nghiệm. Do đó
chúng ta cần phải tích cực cảnh giác, tích cực đấu tranh với những hành động sai
trái của các thành phần biến chất, các thế lực thù địch trong quá trình xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh 1995: Toàn tập. - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 3.
2. Likhachov D. 1990: Văn hóa và văn minh. – T/c Báo ảnh Liên Xô, số 2.
3. Trần Ngọc Thêm 1991: Cơ sở văn hóa Việt Nam, tập 1+2 (lưu hành nội
bộ). – H.: Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
4. Tylor E.B. 2000: Văn hóa nguyên thuỷ. – H.: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật
xuất bản. (nguyên tác: Tylor E.B. 1871: Primitive Culture).
5. UNESCO 1989: Tạp chí “Người đưa tin UNESCO”, số 11-1989.

24



×