Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

RÈN LUYỆN kỹ NĂNG dạy học CHO SINH VIÊN sư PHẠM TRƯỜNG đại học tây NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.96 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

NGUYỄN THỊ ÁNH MAI

RÌN LUN Kü N¡NG D¹Y HäC CHO
SINH VIÊN SƯ PHạM TRƯờNG ĐạI HọC TÂY NGUYÊN
Chuyờn ngnh: Giáo dục học (Lý luận và lịch sử giáo dục)
Mã số: 60.14.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ LỆ HOA

HÀ NỘI - 2013


Lời cảm ơn!
===***===
Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn chân thành, sâu sắc tới người hướng dẫn khoa
học TS. Vũ Lệ Hoa – Giảng viên khoa Tâm lí – Giáo dục trường Đại học Sư phạm
Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện và hồn
thiện luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
các thầy cô giáo trong khoa Tâm lí – Giáo dục đã tạo điều kiện
giúp đỡ tơi hồn thành luận văn.
Luận văn hồn thành cịn nhờ Ban giám hiệu, các thầy cơ
giáo và các bạn sinh viên trường đại học Tây Nguyên, giáo viên
một số trường phổ thông trên địa bàn TP. Buôn Ma Thuột đã tạo
điều kiện thuận lợi nhất giúp tơi hồn thành tốt luận văn này.


Hà Nội, tháng 10, năm 2013
Người thực hiện

Nguyễn Thị Ánh Mai


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐHTN

: Đại học Tây Nguyên

GVĐH

: Giáo viên đại học

GVPT

: Giáo viên phổ thông

SV

: Sinh viên

KN

: Kỹ năng


KNDH

: Kỹ năng dạy học

DH

: Dạy học

ĐH

: Đại học

NVSP

: Nghiệp vụ sư phạm

TB

: Trung bình

HĐRLNVSP : Hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
TT

: Thứ tự

TLH

: Tâm lí học

GDH


: Giáo dục học

KTSP

: Kiến tập sư phạm

TTSP

: Thực tập sư phạm


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
1. Bảng


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta hiện nay đã và
đang đặt ra những thử thách mới, những đòi hỏi mới và đặc biệt những yêu
cầu cấp thiết đối với nền giáo dục nước ta. Một trong những định hướng cơ
bản của đổi mới giáo dục hiện nay là chuyển từ giáo dục mang tính hàn lâm,
kinh viện, xa rời với thực tiễn sang giáo dục chú trọng tới việc phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, hình thành cho họ năng lực thực
hành, hợp tác, đặc biệt là năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã nêu những biện pháp cụ thể về đổi
mới giáo dục và đào tạo là “Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực
hành của người học”.
Để có một nền giáo dục Việt Nam vững mạnh đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay thì yếu tố có vai trị quyết định hàng đầu

là có một đội ngũ nhà giáo giỏi về chuyên môn, thành thạo về kỹ năng
nghiệp vụ và tâm huyết, say xưa với nghề. Chính vì vậy trong q trình đào
tạo đội ngũ giáo viên ở các trường sư phạm địi hỏi: đi đơi với việc giúp
cho người học tích luỹ tri thức thì đặc biệt cần quan tâm đến vấn đề rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp.
Trong quá trình thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục trên, việc đào tạo
và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đóng vai trị then chốt. Điều này đòi hỏi các
trường sư phạm phải đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp dạy học, đảm
bảo cho sinh viên (SV) tốt nghiệp có năng lực tương ứng với yêu cầu của xã
hội. Kỹ năng nghề của sinh viên đại học sư phạm là yếu tố vơ cùng quan
trọng để họ thực hiện có hiệu quả các hoạt động trong thực tiễn giáo dục và
dạy học sau khi tốt nghiệp.


Trường Đại học Tây Nguyên là cơ sở đào tạo đa ngành như: kinh tế, y
khoa, nông lâm, chăn nuôi thú y, khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, sư phạm…
đào tạo giáo viên cho các cấp học, bậc học từ Mầm non, Tiểu học đến Phổ
thông trung học cho các tỉnh Tây Nguyên và Nam trung bộ. Với mục tiêu đào
tạo sinh viên có kiến thức chun mơn và kỹ năng thực hành cơ bản về một
ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường…
Thực tiễn hiện nay trong đào tạo sinh viên sư phạm của trường đại học
Tây Nguyên cho thấy: Việc rèn luyện kỹ năng sư phạm nói chung, kỹ năng dạy
học nói riêng cho sinh viên đã được quan tâm và đạt được những kết quả nhất
định. Tuy nhiên, những kết quả đó khơng cao và chưa đồng đều, phần lớn sinh
viên sư phạm vẫn rất nhút nhát và lúng túng trong việc thực hiện các kỹ năng
dạy học trong kiến tập, thực tập. Nguyên nhân do chương trình rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm chưa được quan tâm đúng mức, chưa có sự kết hợp hiệu
quả giữa các môn nghiệp vụ sư phạm, chương trình rèn luyện nghiệp vụ
thường xuyên cho sinh viên và chương trình thực tế, kiến tập thực tập… Vì
vậy, nghiên cứu xác định được các biện pháp đồng bộ mang tính hiệu quả, khả

thi cho việc rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm, trường đại học
Tây Nguyên sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên của trường đại
học Tây Nguyên hiện nay. Do vậy, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Rèn
luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm trường đại học Tây Nguyên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng và đề xuất một số biện pháp rèn
luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm trường Đại học Tây Nguyên nhằm
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên của nhà trường hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm ở
trường Đại học


3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm,
trường Đại học Tây Nguyên
4. Giả thuyết khoa học
Thực trạng hiện nay việc rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư
phạm trường Đại học Tây Nguyên đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, kết quả đó vẫn chưa cao, cịn nhiều hạn chế. Nếu tìm ra được các biện
pháp rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên một cách đồng bộ, hiệu quả thì
sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh
viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên ở trường Đại học Tây
Nguyên hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên
sư phạm ở các trường Đại học
5.2. Tìm hiểu thực trạng việc rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư
phạm, trường Đại học Tây Nguyên.

5.3. Xây dựng các biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên khoa
Sư phạm, trường Đại học Tây Nguyên và khảo nghiệm tính cấp thiết và khả
thi của các biện pháp.
6. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát các đối tượng:
+ Giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục trường đại học Tây Nguyên
+ Giáo viên phổ thông
+ Sinh viên khoa Sư phạm: Bộ môn Tiểu học năm thứ 3 và năm thứ 4
năm học 2012 – 2013
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Các phương pháp: phân tích, tổng hợp, khái qt hố, hệ thống hố tài
liệu, cơng trình có liên quan.


7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Chúng tôi thu thập, nhận biết các kỹ năng dạy
học của sinh viên, quá trình tổ chức hoạt động rèn luyện KNDH cho sinh viên
thông qua việc quan sát và nhận diện.
- Phương pháp điều tra viết: chúng tôi sử dụng mẫu phiếu điều tra
(Anket) để thu thập thông tin về thực trạng rèn luyện KNDH cho sinh viên tại
trường Đại học Tây Nguyên. Tiến hành điều tra trên ba đối tượng là sinh viên,
các cán bộ giảng viên và giáo viên các trường phổ thông hướng dẫn sinh viên
kiến tập, thực tập sư phạm. Ngoài ra chúng tôi cũng tiến hành khảo nghiệm mức
độ cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp thơng qua mẫu phiếu điều tra.
- Phương pháp phỏng vấn: Nhằm mở rộng thông tin thu thập từ các đối
tượng nghiên khảo sát về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: nhằm tìm hiểu chương
trình, kế hoạch của nhà trường, của khoa về công tác rèn luyện KNDH cho sinh
viên; kết quả học tập, kết quả rèn luyện, kết quả tổ chức các hội thi nghiệp vụ sư

phạm, hoạt động kiến tập, thực tập sư phạm của sinh viên của sinh viên.
- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến các chuyên gia, các cán
bộ quản lý nhằm thu thập các thông tin cần thiết liên quan đến đề tài.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý số liệu thu thập được trong quá trình điều tra và khảo nghiệm.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG DẠY HỌC CHO
SINH VIÊN SƯ PHẠM Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Trong khoảng những năm đầu thế kỷ 20 ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu, vấn đề đào tạo về kỹ năng dạy học cho sinh viên đã được
nghiên cứu, tìm hiểu. Những nghiên cứu trong lĩnh vực chuẩn bị cho sinh viên
làm công tác thực hành giảng dạy đã sớm được bắt đầu khi các trường Đại học
Sư phạm và Đại học tổng hợp được giao nhiệm vụ đào tạo đội ngũ giáo viên mới
(cụ thể như những nghiên cứu của Gutsev, Ivannôv, Sôcôlôv… những năm
1920; trong các tài liệu hướng dẫn của Bộ Giáo dục Liên Xơ năm 1946, 1949).
PH.N. Gơnơbơlin với cơng trình nghiên cứu “ Phẩm chất tâm lý của
người giáo viên” cũng nêu lên năng lực, kỹ năng sư phạm mà bản thân sinh
viên cần phải rèn luyện và phát triển để trở thành một người giáo viên. Cơng
trình này được xem như là “cẩm nang” dành cho sinh viên mới ra trường,
đồng thời giúp các giáo viên lâu năm có sự so sánh với thực tiễn giảng dạy
của mình để rút ra những bài học trong việc rèn nghề một cách đầy đủ và có
hệ thống vững chắc hơn [21].
Từ những năm 1960 trở đi, vấn đề luyện tập các kỹ năng dạy học mới
trở thành hệ thống lý luận và kinh nghiệm vững chắc.
Vào những năm 1970, cùng với việc thành lập Phòng nghiên cứu đào
tạo giáo viên ở trường sư phạm, nhiều cơng trình nghiên cứu về tổ chức lao

động khoa học và tối ưu hóa q trình dạy học đã được tiến hành. Đó là cơng
trình nghiên cứu của các tác giả như M.Ia.Cơvaliơv, Iu.K.Babanxki,… có
đóng góp quan trọng vào giải quyết vấn đề phát triển năng lực sư phạm.
Ở các nước phương Tây như Canađa, Oxtrâylia, Hoa kỳ… người ta dựa
trên các thành tựu của tâm lý học hành vi và tâm lý học chức năng để tổ chức


rèn luyện các kỹ năng thực hành giảng dạy cho sinh viên. Những luận điểm của
J. Watson, A. Pojoux, F.Skinner… đang được sử dụng và đưa vào thực hành lý
luận dạy học trong đào tạo giáo viên ở Ôxtrâylia và một số nước khác.
Tác giả Kixêgơp trong cuốn “ Hình thành các kỹ năng, kỹ xảo cho sinh
viên trong điều kiện giáo dục Đại học” cũng khẳng định: đến với trường phổ
thông với tư cách là người thầy giáo, sinh viên tốt nghiệp ở các trường tổng
hợp và sư phạm từ chỗ bản thân là đối tượng của tác động sư phạm đã trở
thành chủ thể có nhiệm vụ tổ chức các tác động này. Đây là một bước ngoặt
nhất định, nó địi hỏi người giáo viên trẻ bên cạnh việc nắm vững kiến thức
cịn cần phải có những kỹ năng (KN) cần thiết. Kỹ năng này khơng chỉ hình
thành trong chốc lát mà nó địi hỏi q trình khổ luyện, phụ thuộc vào ý thức
độc lập của anh ta nhằm nâng cao trình độ chun mơn của mình [32].
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu nói trên đã chỉ ra được một
quy trình tương đối cơ bản và tồn diện về quá trình đào tạo giáo viên tương
lai. Những vấn đề này vẫn còn những giá trị nhất định trong việc tổ chức đào
tạo ở các trường sư phạm. Tuy nhiên, với sự thay đổi về kinh tế xã hội, đặc
biệt là sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã làm thay đổi chức
năng và nhiệm vụ của người giáo viên, đòi hỏi người giáo viên phải có những
kỹ năng dạy học phù hợp với xã hội hiện đại.
1.1.2. Ở Việt Nam
Vấn đề rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm những năm vừa
qua đã có nhiều tác giả đề cập đến, cụ thể có các cơng trình nghiên cứu sau:
Năm 1975, tác giả Lê Văn Hồng với “ Một số vấn đề về năng lực sư

phạm của người giáo viên xã hội chủ nghĩa”. Trong cơng trình này, tác giả đã
nêu lên tương đối cụ thể các năng lực cần có của người giáo viên xã hội chủ
nghĩa [27].
Năm 1979, trường Đại học Sư phạm Hà Nội I đã tiến hành nghiên cứu
vấn đề “Cải cách công tác giáo dục nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên trường
Đại học Sư phạm Hà Nội I”.


Năm 1985, tác giả Lê Thị Nhật với luận văn “Bước đầu tìm hiểu năng
lực dạy học của người giáo viên tâm lý – giáo dục”[42].
Năm 1987 có cơng trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Uẩn về “Vấn
đề kỹ năng và kỹ năng học tập ”[54].
Năm 1989 có cơng trình nghiên cứu: “Hệ thống kỹ năng giảng dạy trên
lớp và quy trình rèn luyện kỹ năng đó cho sinh viên khoa Tâm lý – Giáo dục”
của Nguyễn Như An [1].
Năm 1996 tác giả Trần Anh Tuấn với cơng trình: “Xây dựng quy trình
luyện tập hình thành các kỹ năng giảng dạy cơ bản trong các hình thức thực
hành, thực tập sư phạm” [50].
Năm 1997, Nguyễn Đình Chỉnh đã xuất bản tài liệu về thực tập sư
phạm, trong đó tác giả đã giải quyết được một số vấn đề hết sức cơ bản như:
xác định khái niệm năng lực sư phạm, cấu trúc của năng lực sư phạm, các con
đường hình thành và phát triển năng lực sư phạm [9].
Năm 2004, luận án tiến sĩ của tác giả Phan Thanh Long về vấn đề “
Biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên cao đẳng sư phạm” đã góp
phần làm phong phú thêm lý luận về các biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học
cho sinh viên, hệ thống hóa các kỹ năng dạy học đặc biệt là các kỹ năng mới
do tác động của việc đổi mới phương pháp dạy học và sự phát triển của các
phương tiện dạy học. Đồng thời luận án cịn góp phần hồn thiện hệ thống
biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên theo yêu cầu mới [34].
Những năm gần đây, một số cơng trình nghiên cứu của Phạm Trung

Thanh, Nguyễn Đình Xn (chủ biên) – Ngơ Cơng Hồn,… đề cập đến các
vấn đề: phương pháp học tập, nghiên cứu trong đó có phương pháp luyện tập
thực hành cho sinh viên, quy trình học tập và tự học cho sinh viên, tổ chức
kiến tập và thực tập sư phạm cho sinh viên.
Nhìn chung, vấn đề rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên đã có rất
nhiều tác giả quốc tế và trong nước quan tâm nghiên cứu với những khía cạnh
khác nhau. Việc nghiên cứu điểm qua những cơng trình nghiên cứu trên đã


giúp chúng tơi có những định hướng quan trọng trong cơng tác nghiên cứu
của mình để xác định một số biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học phù hợp
cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Kỹ năng
Kỹ năng là một khái niệm phức tạp, xung quanh khái niệm này có
nhiều định nghĩa khác nhau. Xem xét các cơng trình nghiên cứu từ trước đến
nay, có thể khái quát thành 3 hướng nghiên cứu chính sau:
- Theo khuynh hướng thứ nhất: coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của một
thao tác, hành động hay hoạt động nào đó.
Muốn thực hiện được một hành động, cá nhân phải hiểu được mục
đích, phương thức và điều kiện để thực hiện nó. Vì vậy nếu ta nắm được các
tri thức về hành động, thực hiện nó trong thực tiễn theo các yêu cầu khác nhau
tức là ta có kỹ năng về hành động.
Theo V.A.Crucheski thì: Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động đã
được con người nắm vững có nghĩa rằng, con người chỉ nắm vững phương thức
hoạt động là đã có kỹ năng, khơng cần tính đến hiệu quả của thành cơng [13].
Trong khi đó, A.G. Cơvaliov quan niệm: kỹ năng là phương thức thực
hiện hành động thích hợp với mục đích và những điều kiện hành động [12].
Trần Trọng Thủy lại cho rằng: “Kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành
động. Con người nắm được cách thức hành động – tức kỹ thuật của hành

động là có kỹ năng” [48].
Các tác giả theo hướng này nhấn mạnh mặt kỹ thuật của hành động,
chú trọng đến khía cạnh cách thức hành động, coi việc nắm được cách thức
hành động là có kỹ năng.
- Theo khuynh hướng thứ hai: Nhấn mạnh mặt hiệu quả của hành động
trong kỹ năng, coi kỹ năng là khả năng con người tiến hành cơng việc một
cách có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện mới, trong
khoảng thời gian tương ứng.
N.D. Lêvitov cho rằng, kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác
nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách áp dụng hay lựa chọn


những cách thức đúng đắn, có tính đến những điều kiện nhất định [35].
K.K. Platonov cho rằng, Kỹ năng là khả năng của con người thực hiện
một hoạt động bất kỳ nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh nghiệm cũ.
Theo các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết, Ngơ Cơng
Hồn, Trần Quốc Thành cho rằng, kỹ năng là năng lực của con người thực
hiện một cơng việc nào đó có kết quả.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đưa ra khái niệm: “Kỹ năng là năng lực vận
dụng có kết quả tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội
để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng” [52].
Các tác giả theo hướng này đã coi kỹ năng không chỉ đơn thuần bao
gồm mặt kỹ thuật của hành động, mà còn chú trọng tới mặt kết quả của nó
trong mối quan hệ với mục đích, phương tiện, điều kiện và cách thức tiến
hành hành động.
- Theo khuynh hướng thứ ba: cho rằng, kỹ năng là việc vận dụng những
tri thức và các kỹ xảo đã có vào việc lựa chọn và thực hiện những phương
thức hành động đã được đặt ra.
Theo tác giả A.V.Pêtrovxki, kỹ năng là phương thức thực hiện thông
thạo hành động của chủ thể dựa trên cơ sở tổ hợp những tri thức, kỹ xảo đã

có. Kỹ năng được hình thành bằng con đường luyện tập, tạo cho con người
khả năng thực hiện hành động không chỉ trong những điều kiện quen thuộc
mà cả trong những điều kiện đã thay đổi [42].
Các tác giả muốn nói tới các kỹ năng sơ đẳng là cơ sở của việc hình
thành các kỹ năng bậc cao.
Xét về mặt bản chất các quan niệm trên không phủ định nhau mà chỉ
khác biệt nhau ở chỗ mở rộng hay thu hẹp thành phần cấu trúc của khái niệm
kỹ năng mà thôi.
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu và các hướng nghiên cứu trên chúng
tôi lựa chọn khái niệm kỹ năng theo khuynh hướng thứ hai, cái đã được nhiều
nhà nghiên cứu sử dụng. Theo chúng tơi thì: Kỹ năng là q trình thực hiện
có kết quả một hành động hay một hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và


vận dụng những tri thức trên nền tảng phẩm chất tâm lý để hành động phù
hợp với những điều kiện thực tiễn cho phép.
Khi bàn về kỹ năng cần lưu ý một số điểm sau đây:
- Kỹ năng trước hết là mặt kỹ thuật của một thao tác hay một hành
động nhất định, khơng có kỹ năng chung chung, trừu tượng tách rời hành
động của cá nhân của con người. Khi nói tới kỹ năng là nói tới một hành động
cụ thể đạt tới mức đúng đắn và thuần thục nhất định.
- Thành phần của kỹ năng bao gồm: tri thức, kinh nghiệm đã có, q
trình thực hiện hành động, sự kiểm soát thường xuyên trực tiếp của ý thức và
kết quả hành động.
- Tiêu chuẩn để xác định sự hình thành và mức độ phát triển của kỹ
năng là: tính chính xác, tính thành thạo, tính linh hoạt và sự phối hợp nhịp
nhàng các động tác trong hành động. Hành động chưa thể trở thành kỹ
năng nếu hành động đó cịn vụng về, cịn tiêu tốn nhiều thời gian và cơng
sức để triển khai.
Như vậy, muốn có kỹ năng và phát triển kỹ năng chúng ta phải được

đào tạo và rèn luyện thường xuyên trong lĩnh vực hoạt động tương ứng.
1.2.2. Kỹ năng sư phạm
* Khái niệm
Trên cơ sở khái niệm về kỹ năng như trên, các nhà tâm lý học, các nhà
giáo dục học đã xây dựng nên khái niệm kỹ năng sư phạm. Theo O.A.Apđulinna
thì “Kỹ năng sư phạm là sự lĩnh hội những cách thức và biện pháp giảng dạy và
giáo dục dự trên sự vận dụng một cách tự giác các kiến thức tâm lý giáo dục và
lý luận dạy học bộ môn”.[2].
Tác giả Nguyễn Như An cũng cho rằng: “Kỹ năng sư phạm là khả năng
thực hiện có kết quả một số thao tác hay một loạt các thao tác phức tạp của
một hành động sư phạm bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức,
những cách thức, những quy trình đúng đắn”[1].
Khi bàn về vấn đề này, chúng tôi thống nhất với hầu hết các tác giả cho
rằng; kỹ năng sư phạm là khả năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có (về


văn hóa, khoa học, nghiệp vụ sư phạm,…) vào giảng dạy và giáo dục để giải
quyết có kết quả những tình huống giảng dạy, giáo dục cụ thể trong thực tế.
Ở đây có một số điểm cần lưu ý sau:
- Kỹ năng sư phạm là khả năng vận dụng các tri thức và các kinh
nghiệm đã có vào việc giải quyết một số thao tác hay một loạt các thao tác
của một hành động sư phạm cụ thể như soạn bài, giảng bài, kiểm tra đánh giá,
tổ chức các loại hình dạy học, giáo dục,…
- Con đường chủ yếu để hình thành kỹ năng là tập luyện. Tác giả
Nguyễn Như An trong luận án của mình cũng nhấn mạnh vai trò của tập
luyện là đặc biệt quan trọng. song quá trình tập luyện phải có biện pháp phù
hợp, theo một quy trình hợp lý, có tổ chức, có kế hoạch, có phương pháp,…
* Phân loại kỹ năng sư phạm
Xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau mà các nhà nghiên cứu có thể
đưa ra hệ thống các kỹ năng sư phạm khác nhau.

Căn cứ vào chức năng của người thầy giáo, O.A.Apđulinna đã phân
chia kỹ năng sư phạm thành các nhóm kỹ năng sau:
- Nhóm kỹ năng nghiên cứu học sinh;
- Nhóm kỹ năng dạy học và giáo dục;
- Nhóm kỹ năng tiến hành cơng tác xã hội.
Theo tác giả, trong 3 nhóm kỹ năng trên thì nhóm kỹ năng dạy học và
giáo dục là cơ bản nhất [2].
Ở nước ta, tác giả Nguyễn Như An căn cứ vào tính chất của các kỹ
năng đã phân chia kỹ năng sư phạm thành hai nhóm:
- Nhóm KN nền tảng: KN định hướng, KN giao tiếp sư phạm, KN nhận
thức, KN tổ chức, KN điều chỉnh.
- Nhóm KN chuyên biệt: KN dạy học, KN giáo dục, KN nghiên cứu
khoa học giáo dục, KN tự học tự bồi dưỡng, Kn hoạt động xã hội.
Nếu căn cứ vào đặc thù lao động của người giáo viên, có các kỹ năng
đặc trưng sau:
- KN giao tiếp sư phạm.
- KN tổ chức, hướng dẫn học sinh tự học để có khả năng và nhu cầu
học tập suốt đời.
- KN nghiên cứu khoa học, tự học, tự bồi dưỡng để tự lực phát hiện và


giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn nghề nghiệp một cách
có căn cứ, đảm bảo chất lượng và hiệu quả cao.
Tóm lại, có thể căn cứ trên các cơ sở khác nhau để phân KN sư phạm
thành các nhóm KN hay các KN cụ thể. Có những KN đặc trưng cho hoạt
động dạy học, có những KN đặc trưng cho hoạt động giáo dục, có những KN
chung, những KN đặc trưng cho nghề nghiệp.
Theo chúng tôi, có thể chia các KN thành hai nhóm cơ bản dựa vào
chức năng đặc trưng của người giáo viên:
- KN dạy học

- KN giáo dục
Vì quá trình giáo dục theo nghĩa rộng bao gồm quá trình giáo dục theo
nghĩa hẹp và quá trình dạy học. Chức năng cơ bản của người giáo viên là dạy
học và giáo dục vì thế người giáo viên phải có các KN dạy học và KN giáo dục.
trong các KN trên lại có những KN cụ thể. Tuy nhiên cách phân chia này là
tương đối, vì khi tiến hành dạy học cũng đồng thời đạt được mục đích giáo dục,
ngược lại muốn tiến hành giáo dục cũng dựa trên cơ sở chủ yếu là dạy học.
1.2.3. Kỹ năng dạy học
* Khái niệm kỹ năng dạy học
KN bao giờ cũng gắn với việc thực hiện có kết quả một thao tác, một
hành động nào đó, trên cơ sở những tri thức đã có. Khi người giáo viên thể
hiện hệ thống hành vi, thao tác phù hợp với yêu cầu của hoạt động dạy học
trong tình huống nhất định và làm cho hoạt động dạy học đó đạt kết quả thì đó
là kỹ năng dạy học.
Chúng tơi hoàn toàn đồng ý với khái niệm của Nguyễn Như An:
KNDH là sự thực hiện có hiệu quả một số thao tác hay một loạt các thao tác
phức tạp của một hành động giảng dạy, bằng cách lựa chọn và vận dụng
những tri thức, cách thức và quy trình đúng đắn.
Từ những định nghĩa trên chúng tôi vận dụng và đưa ra định nghĩa kỹ
năng dạy học như sau:
KNDH là khả năng vận dụng các tri thức về chuyên môn, nghiệp vụ
của người giáo viên vào việc định hướng, tổ chức, hướng dẫn học sinh lĩnh


hội được nội dung dạy học một cách tốt nhất, qua đó trang bị tri thức khoa
học, kỹ năng, kỹ xảo, phẩm chất trí tuệ và hình thành thế giới quan, phẩm
chất đạo đức cho học sinh.
* Hệ thống kỹ năng dạy học
Khó có thể liệt kê đầy đủ tất cả những KNDH của người giáo viên.
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã cho thấy rằng sẽ có rất nhiều nhóm kỹ năng,

mỗi nhóm lại bao gồm nhiều KN cụ thể. Mỗi cách phân chia đều có tính hợp
lý. Trên cơ sở tham khảo quan điểm các tác giả và căn cứ vào thực tiễn dạy
học hiện nay cũng như yêu cầu của sự phát triển, tựu chung lại có thể có
những nhóm KN đặc trưng sau:
- Nhóm KN thiết kế một bài giảng (xây dựng và chuẩn bị bài giảng)
Một trong những đặc điểm qua trọng của giáo dục nhà trường là tiến
hành hoạt động có mục đích, có nội dung, có chương trình, có kế hoạch, có
phương pháp... dưới sự chỉ đạo của giáo viên. Do đó, người giáo viên phải có
kỹ năng xây dựng và chuẩn bị bài giảng trước khi lên lớp.
Nhờ có kỹ năng này mà người giáo viên tiến hành công việc không tùy
tiện, không chồng chéo hay bỏ sót những cơng việc cần thiết. Họ làm việc
một cách chủ động, theo kế hoạch định trước, nhờ đó mà họ tiết kiệm được
sức lực và thời gian. Cũng nhờ kỹ năng này mà giáo viên phân phối thời gian
cho mỗi công việc một cách hợp lý, xác định những công việc cơ bản, các
phần trọng tâm, cách chuyển tiếp hợp lý cho mỗi nội dung từ dễ đến khó...
giúp định hướng cho tồn bộ hoạt động dạy học.
Đây là nhóm kỹ năng cơ bản, cần thiết cho hoạt động dạy học của mỗi
giáo viên. Nhóm kỹ năng này bao gồm các kỹ năng như”:
+ KN nghiên cứu đặc điểm tâm lý người học
+ KN phân tích yêu cầu, nhiệm vụ, xác định cấu trúc, bố cục bài giảng
+ KN phân tích nội dung dạy học
+ KN phân phối thời gian cho từng công việc, từng phần của bài giảng
+ KN lựa chọn và thiết kế phương pháp, phương tiện dạy học
+ KN dự kiến các tình huống xảy ra trong giờ dạy
+ KN chuẩn bị tài liệu phát tay…
- Nhóm KN thực hiện bài giảng (kỹ năng dạy học trên lớp)


Lên lớp là hoạt động cụ thể của giáo viên nhằm thực hiện toàn bộ giáo
án đã thiết kế. Đây chính là lúc giáo viên tiếp xúc trực tiếp với học sinh.

Trong thời gian này giáo viên sẽ phải thể hiện đầy đủ tính khoa học, tính nghệ
thuật trong giảng dạy và giáo dục của mình, thể hiện tầm hiểu biết, hứng thú,
niềm tin, tính cách và cả tâm hồn của bản thân.
Kỹ năng dạy học trên lớp là kỹ năng người giáo viên vận dụng những
tri thức chuyên môn và nghiệp vụ để thực hiện các thao tác kỹ thuật dạy học
và giao tiếp một cách có kết quả trong suốt quá trình đứng lớp với những điều
kiện cụ thể, trong các tiết học cụ thể.
Có các kỹ năng dạy học trên lớp cơ bản như sau:
+ KN vào lớp, ổn định lớp
+ KN kiểm tra bài cũ
+ KN mở đầu một bài giảng
+ KN sử dụng câu hỏi kích thích tính tính cực của học sinh
+ KN sử dụng ngơn ngữ nói trên lớp
+ KN sử dụng các phương pháp dạy học
+ KN sử dụng các phương tiện dạy học
+ KN trình bày bảng
+ KN làm chủ giáo án, làm chủ thời gian tiết học
+ KN phối hợp các thao tác trong quá trình giảng dạy
+ KN hệ thống hóa tri thức bài giảng
+ KN ra câu hỏi và bài tập về nhà
+ KN bao quát lớp học
- Nhóm KN kiểm tra - đánh giá
Kiểm tra, đánh giá là hoạt động khơng thể thiếu trong dạy học, nó
cũng quyết định nhiều đến kết quả dạy học, vì thế, trong dạy học giáo viên
phải nắm vững phương thức kiểm tra và có những đánh giá đúng đắn, khoa
học, kích thích sự phát triển ở người học. Nhóm kỹ năng này gồm có các
kỹ năng sau:
+ KN soạn câu hỏi
+ KN thiết kế chuẩn đánh giá
+ KN phân tích kết quả

+ KN định điểm
- Nhóm KN tổ chức hoạt động tự học cho học sinh
- Nhóm KN giúp đỡ riêng


1.2.4. Rèn luyện KNDH
Trong công tác đào tạo của bất kì nghề nào cũng phải quan tâm đến vấn
đề rèn luyện nghiệp vụ, bồi dưỡng tay nghề cho người học. Sự thành thạo,
nhuần nhuyễn tay nghề là một yếu tố vô cùng quan trọng, làm tăng hiệu quả
hoạt động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, vì “ trăm hay không
bằng tay quen”.
Cũng như mọi nghề khác, nghề dạy học có quy trình đào tạo riêng.
Muốn trở thành người giáo viên theo đúng nghĩa, giáo sinh phải được đào tạo
theo một quy trình nghiêm ngặt.
Trong trường đại học, quy trình đào tạo giáo viên diễn ra trong suốt 4
năm. Việc dạy nghề cho giáo sinh không chỉ hiện diện trong một quảng thời
gian nhất định mà nó kéo dài suốt quá trình học tập.
Rèn luyện kỹ năng dạy học là yêu cầu cơ bản của nhà trường sư phạm.
Nhà trường sẽ sử dụng tất cả những hình thức cũng như điều kiện thực tiễn để
tổ chức rèn luyện cho sinh viên có được hệ thống kỹ năng dạy học nhất định.
Đồng thời nhà trường cũng hướng dẫn, khuyến khích sinh viên tự tổ chức rèn
luyện kỹ năng dạy học cho bản thân một cách hiệu quả nhất.
Nói cách khác, để đào tạo ra cho xã hội những giáo viên có kỹ năng
nghề nghiệp vững chắc nhà trường sư phạm sẽ tổ chức các hoạt động giáo dục
khác nhau nhằm cung cấp cho sinh viên hệ thống lý luận khoa học, có khả
năng thực hiện các yêu cầu nghề nghiệp trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, việc rèn luyện kỹ năng dạy học còn đòi hỏi ở chủ thể
nhận thức sự tự giác, chủ động, tích cực trong q trình học tập và nghiên cứu
thì mới có được sự thuần thục trong việc thực hiện các yêu cầu về dạy học.
Để hiểu được khái niệm về biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học cho

sinh viên, trước hết chúng ta phải hiểu khái niệm biện pháp.
Trong “Từ điển Tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên) đưa ra khái niệm:
biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
Trong “Từ điển Tiếng Việt” (Nguyễn Như Ý chủ biên) cũng cho rằng:
“biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành một vấn đề cụ thể nào đó”.


Như vậy, biện pháp được xem là cách làm, cách hành động để thực
hiện một cơng việc nào đó nhằm đạt được mục đích đề ra.
Dựa trên khái niệm biện pháp, chúng tôi đưa ra khái niệm biện pháp
rèn luyện kỹ năng dạy học như sau: Biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học là
cách thức tổ chức huấn luyện, cách tác động của người giáo viên đến sinh
viên nhằm làm cho người sinh viên tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo tập
luyện để hình thành cho bản thân các kỹ năng dạy học cần thiết theo yêu cầu
của quá trình đào tạo.
Ở đây trước hết là cách thức tổ chức huấn luyện và tổ chức cho sinh
viên tự rèn luyện các kỹ năng dạy học. Bởi vì, con đường cơ bản nhất để rèn
luyện kỹ năng là tập luyện. Quá trình rèn luyện cho sinh viên phải thông qua
tổ chức các hoạt động cụ thể. Mỗi hoạt động chỉ có thể hình thành cho sinh
viên một hay một vài kỹ năng nào đó. Q trình rèn luyện kỹ năng dạy học
cho sinh viên được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm thường xuyên và thực hành thực tập sư phạm. Tuy vậy, q trình
rèn luyện của sinh viên khơng phải mị mẫm, theo con đường thử và sai mà là
quá trình phải có mục đích, có nội dung, có chương trình, có kế hoạch, có
phương pháp… được tổ chức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Các biện pháp rèn luyện phải phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ
động và sáng tạo của sinh viên, phải biến quá trình rèn luyện thành quá trình tự
rèn luyện của sinh viên là chính. Có như vậy, q trình rèn luyện của sinh viên
mới đạt hiệu quả cao. Nói cách khác, trong quá trình rèn luyện, giáo viên giữ
vai trị chủ đạo, là người tổ chức, điều khiển qua trình rèn luyện, sinh viên giữ

vai trò chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển quá trình rèn luyện của bản thân.
1.3. Tổ chức rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm ở trường
Đại học
1.3.1. Ý nghĩa của việc rèn luyện KNDH cho sinh viên sư phạm
Qua quá trình rèn luyện KNDH, sinh viên có điều kiện vận dụng lý
thuyết vào thực tiễn, khắc sâu tri thức và soi sáng thực tiễn. Rèn luyện cũng


bộc lộ những năng khiếu sư phạm ở mỗi sinh viên để họ có kế hoạch và biện
pháp tự bồi dưỡng nhằm phát huy và phát triển nó. Những hạn chế, thiếu sót
cũng được phát hiện để khắc phục và sữa chữa kịp thời. Giúp nâng cao kết
quả học tập và rèn luyện của sinh viên, hình thành những phẩm chất và năng
lực cần thiết của người giáo viên tương lai.
Nâng cao chất lượng giáo dục trước tiên phải nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên. Bởi chất lượng của công tác dạy học và giáo dục của nhà
trường quyết định bởi phẩm chất và năng lực của người giáo viên. Hiệu quả
của từng tiết học trên lớp, của việc kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập,
sáng tạo của học sinh phụ thuộc vào kỹ năng dạy học nói chung và các kỹ
năng dạy học trên lớp nói riêng. Kết quả công tác rèn luyện kỹ năng dạy học
trong trường sư phạm sẽ là cơ sở vững chắc để sinh viên rèn luyện tay nghề
sau này. Vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng dạy học của sinh viên trong trường sư
phạm có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục của đất nước.
1.3.2. Các giai đoạn hình thành kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm
Trên thế giới, đến nay có nhiều trường phái, nhiều cách quan niệm khác
nhau về kỹ năng và sự hình thành kỹ năng. Muốn hình thành KN về một lĩnh
vực hoạt động nào đó, con người phải luyện tập theo một quy trình nhất định.
K.K. Platơnơp đưa ra 5 giai đoạn hình thành kỹ năng như sau:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn kỹ năng sơ đẳng: con người ý thức được mục
đích hành động và tìm kiếm cách thực hiện hành động dựa trên vốn hiểu biết,
kinh nghiệm sống. Hành động được thực hiện bằng cách “thử” và “sai”.

- Giai đoạn 2: Biết cách làm nhưng khơng đầy đủ. Có hiểu biết về
phương thức thực hiện hành động; vận dụng các kỹ xảo đã có, nhưng khơng
phải những kỹ xảo chuyên biệt dành cho hành động này.
- Giai đoạn 3: Có kỹ năng chung nhưng cịn mang tính riêng lẻ.
- Giai đoạn 4: Có kỹ năng phát triển cao, sử dụng sáng tạo vốn hiểu biết
và các kỹ xảo đã có, ý thức được khơng chỉ mục đích hành động mà còn cả
động cơ lựa chọn cách thức đạt được mục đích.
- Giai đoạn 5: Sử dụng sáng tạo các kỹ năng khác nhau. Ở Việt Nam, tác


giả Trần Quốc Thành trong luận án Tiến sĩ Tâm lí học năm 1992 đã đưa ra 3 giai
đoạn hình thành kỹ năng như sau:
- Giai đoạn 1: Nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức, điều kiện
hành động.
- Giai đoạn 2: Quan sát mẫu và làm thử theo mẫu.
- Giai đoạn 3: Luyện tập để tiến hành các hành động theo đúng yêu cầu
nhằm đạt mục đích đặt ra.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên, kết hợp với
việc nghiên cứu những đặc thù của kỹ năng dạy học cũng như thực tế q
trình đào tạo ở trường sư phạm, chúng tơi đưa ra 3 giai đoạn hình thành kỹ
năng dạy học cho sinh viên sư phạm như sau:
- Giai đoạn 1: Nhận thức. Mục tiêu của giai đoạn này là giúp người học
nhận thức đầy đủ về khái niệm, cách thức, điều kiện hành động. Giai đoạn
này chủ yếu là nắm vững lí thuyết, chưa hành động thực sự.
- Giai đoạn 2: Quan sát mẫu và làm thử theo mẫu. Ở giai đoạn này,
giáo viên tập huấn, làm mẫu, mô phỏng hoạt động. Học sinh quan sát để hiểu
rõ cách thức thực hiện trên cơ sở nắm vững lí thuyết hành động. Hành động ở
giai đoạn này thể cịn sai sót, hoặc thao tác còn lúng túng.
- Giai đoạn 3: Thực hành, luyện tập, tự rèn luyện. Mục tiêu của giai
đoạn này là để hình thành và rèn luyện kỹ năng, hành động cịn ít sai sót, các

thao tác trở nên thuần thục dần; hành động có kết quả trong điều kiện quen
thuộc và trong điều kiện mới. Ba giai đoạn này gắn bó chặt chẽ với 3 q
trình đào tạo và tự đào tạo ở trường sư phạm hiện nay:
TT
1
2
3

QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO VÀ
TỰ ĐÀO TẠO
Nhận thức
Đào tạo NVSP (các môn tâm lí học, Giáo dục
học, Phương pháp DH bộ mơn)
Quan sát mẫu và làm thử theo mẫu Kiến tập, hoạt động rèn luyện NVSP thường
xuyên
Luyện tập, tự rèn luyện
Thực tập
GIAI ĐOẠN


Việc phân chia giai đoạn này chỉ có tính chất tương đối. Trên thực tế,
các giai đoạn này có thể tiến hành đan xen, và đặc biệt việc luyện tập và tự
rèn luyện là u cầu khơng thể thiếu, có thể diễn ra ở các giai đoạn còn lại.
1.3.3. Các hình thức rèn luyện kỹ năng dạy học cho sinh viên sư phạm
• Thơng qua hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học là hoạt động quan trọng và chủ yếu trong q trình
đào tạo nghề cho sinh viên. Có thể nói rằng trong tất cả các mơn học trong
chương trình đào tạo của nhà trường sư phạm đều có khả năng giáo dục, nâng
cao năng lực nghề nghiệp của sinh viên.
Đặc biệt, thông qua giảng dạy các môn như: Tâm lý học, giáo dục học,

phương pháp giảng dạy bộ môn....những mơn học này giúp sinh viên có được
những tri thức cơ bản, cơ sở và nghiệp vụ. Những tri thức này đều là co sở
cho việc hình thành kỹ năng dạy học nhưng vai trị của nó là khác nhau. Các
môn khoa học cơ bản giúp sinh viên nắm được logic khoa học; các môn khoa
học cơ sở giúp sinh viên nắm được logic của sự phát triển trẻ em cũng như
những đặc điểm và khả năng lĩnh hội của người học; những môn khoa học
nghiệp vụ giúp sinh viên nắm được tri thức khoa học nghiệp vụ.
• Thơng qua hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên
Khi sinh viên đã tiếp thu được một hệ thống tri thức về chuyên môn và
nghiệp vụ cần thiết, cần phải biến những tri thức đó thành năng lực thực tiễn
ngay từ khi còn ở trong nhà trường sư phạm, bằng cách thơng qua cá hình
thức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên (NVSPTX) như: soạn giáo
án, tập giảng, tập viết bảng, xử lý tình huống sư phạm…Những hoạt động này
cũng là một con đường để lĩnh hội các kiến thức sư phạm, rèn luyện khả năng
ứng dụng lý thuyết vào thực tế. Thông qua các hoạt động này, sinh viên có cơ
hội vận dụng những tri thức khoa học về chuyên môn, nghiệp vụ để giải quyết
các bài tập thực tiễn, nhờ đó mà các KNDH có điều kiện được rèn luyện, cũng
cố. Cũng chính thơng qua các loại hình hoạt động mà sinh viên có điều kiện


gắn lý luận với thực tiễn, làm cho việc nắm tri thức của họ vững chắc hơn, tạo
cho họ cơ hội “hiểu sâu, nhớ lâu, vận dụng tốt”. Hoạt động rèn luyện
NVSPTX là quá trình chuẩn bị cho sinh viên các KNDH để họ đi thực hành
nghề ở trường phổ thơng trong các đợt kiến tập, thực tập sư phạm.
• Thông qua các hoạt động kiến tập, thực tập sư phạm
Kiến tập (KT), thực tập sư phạm (TTSP) là một hoạt động nằm trong
chương trình đào tạo của nhà trường sư phạm, thể hiện rõ tính chất rèn luyện
kỹ năng dạy học cho sinh viên. Hoạt động có tác dụng kiểm tra một cách
đúng đắn kết quả đào tạo người giáo viên. Qua đó sinh viên thực sự vận động,
thực sự độc lập làm việc, đòi hỏi sinh viên phải vận dụng tổng hợp tất cả vốn

hiểu biết nói chung cũng như những phương pháp, biện pháp cụ thể để giải
quyết những cơng việc của mình. Đây cịn là một dịp tốt để sinh viên thể hiện
toàn bộ năng lực và phẩm chất nghề nghiệp của mình một cách rõ ràng và
chính xác với phương châm “rèn đức luyện tài để ngày mai lập nghiệp”.
Hoạt động kiến tập, thực tập sư phạm ở trường phổ thông là con đường
gần gũi với hoạt động thực tiễn của sinh viên sau này. Chính vì vậy, nó có tác
dụng tạo ra hứng thú rèn luyện kỹ năng dạy học trực tiếp cho sinh viên. Mặt
khác cịn giúp sinh viên thích nghi với u cầu của hoạt động sư phạm, khắc
phục những thiếu sót trong quá trình đào tạo ở trường sư phạm. Từ đó có kế
hoạch, biện pháp rèn luyện, hồn chỉnh tay nghề của bản thân.
Để có một kỹ năng giảng dạy hay giáo dục người sinh viên nhất thiết
phải được tập luyện trong các hoạt động thực tiễn giảng dạy và giáo dục.
Ngay cả các bài tập tình huống, các giờ thảo luận, giờ xêmina,… nhiều lắm
cũng chỉ mới khuôn sinh viên vào việc cũng cố kiến thức bằng các tình huống
giả định rất hình thức, sinh viên khơng thể tự biết tính đúng sai của các biện
pháp xử lý do chính bản thân mình đưa ra. Do vậy, các định hướng lý luận có
ở người sinh viên khơng thể chuyển thành các kỹ năng nghề nghiệp nếu
không thông qua hoạt động thực tập, thực tế ở nhà trường phổ thông, nơi mà


×