Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Hoạt động quản trị khoản phải thu, những lợi thế và bất lợi khi thực hiện vốn hóa khoản phải thu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.3 KB, 16 trang )

DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA
ĐỀ TÀI 2
(Quản trị khoản phải thu)

ST
T

MSV

Họ và tên

1

15D24017
4

Nguyễn Thị Phương

2

14D22024
5

Trần Văn Quang



3

14D15018
5



Đặng Thị Quỳnh



4

14D15011
6

Lệ Thị Sang



5

13D24040
3

Lê Hải Sơn



6

14D22033
2

Nguyễn Ngọc Tân




7

14D22011
0

Hoàng Thị Thu Thảo

8

13D22012
4

Đỗ Thanh Thúy



9

14D22025
3

Đào Thu Thủy



10

14D22018

4

Đinh Thị Thủy

Thư ký

Tham gia

Không tham
gia






Nhóm trưởng
Trần Văn Quang
-1-


Hoạt động quản trị khoản phải thu (biện pháp giải quyết nợ
phải thu). Những lợi thế và bất lợi khi thực hiện vốn hóa
khoản phải thu
A. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ KHOẢN PHẢI THU
I. Hoạt động quản trị khoản phải thu
1. Khái niệm các khoản phải thu
Là một loại tài sản của công ty tính dựa trên tất cả các khoản nợ, các giao dịch chưa
thanh toán hoặc bất cứ nghĩa vụ tiền tệ nào mà các con nợ hay khách hàng chưa thanh
toán cho công ty. Phải thu được kế toán của công ty ghi lại và phản ánh trên bảng cân đối

kế toán, bao gồm tất cả các khoản nợ công ty chưa đòi được, tính cả các khoản nợ chưa
đến hạn thanh toán.
Các khoản phải thu được ghi nhận như là tài sản của công ty vì chúng phản ánh các
khoản tiền sẽ được thanh toán trong tương lai. Các khoản phải thu dài hạn (chỉ đáo hạn
sau một khoản thời gian tương đối dài) sẽ được ghi nhận là tài sản dài hạn trên bảng cân
đối kế toán. Hầu hết các khoản phải thu ngắn hạn được coi như là một phần của tài sản
vãng lai của công ty.
Trong kế toán, nếu các khoản nợ này được trả trong thời hạn dưới 1 năm (hoặc
trong một chu kỳ hoạt động kinh doanh) thì được xếp vào loại tài sản vãng lai. Neu hơn 1
năm hoặc hơn 1 chu kỳ kinh doanh thì không phải là tài sản vãng lai. Phải thu còn được
phân chia cụ thể hơn trong bảng cân đối kế toán thành phải thu thương mại (trade) và phi
thương mại (nontrade). Phải thu thương mại xuất phát từ việc cung cấp hàng hoá-dịch vụ
của công ty cho khách hàng trong kỳ kinh doanh bình thường. Phải thu thương mại có
thể là tài khoản phải thu (accounts receivables) hoặc phải thu tiền mặt (notes
receivables). Phải thu phi thương mại xuất phát từ các loại giao dịch khác các loại kể trên
và cũng có thể là phiếu nhận nợ của bên mua. Ví dụ như các khoản tạm ứng cho nhân
viên; các khoản hoàn lại như hoàn thuế, tiền bồi thường bảo hiểm, tiền đặt cọc; và các
khoản phải thu tài chính như tiền lãi, cổ tức, v.v.

-2-


2. Nội dung công tác quản lý các khoản phải thu
2.1. Chính sách tín dụng thương mại
Chính sách tín dụng thương mại ảnh hưởng mạnh nhất tới khoản phải thu và sự
kiểm soát của giám đốc tài chính. Tín dụng thương mại có thể làm cho doanh nghiệp
đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có nhưng cũng có thể đem lại những rủi ro cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Giám đốc tài chính có thể thay đổi tiêu chuẩn
tín dụng để kiểm soát khoản phải thu sao cho phù họp với sự đánh đổi giữa lợi nhuận và
rủi ro. Hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng có thể kích thích được nhu cầu dẫn tới gia tăng doanh

thu và lợi nhuận, nhưng sẽ làm phát sinh khoản phải thu, và do bao giờ cũng có chi phí đi
kèm theo khoản phải thu nên giám đốc tài chính cần xem xét cẩn thận sự đánh đổi này
.Ngoài ra, ta còn thấy trong thời kỳ áp dụng chính sách tín dụng bán hàng dài hạn thì số
nợ phải thu cũng cao hơn thời kỳ áp dụng chính sách bán hàng ngắn hạn. Do chính sách
tín dụng bán hàng có quan hệ chặt chẽ với lượng hàng hóa tiêu thụ và được coi như một
biện pháp để kích thích tiêu thụ nên khi xem xét số nợ phải thu phát sinh, nhà phân tích
cần liên hệ với lượng hàng hóa tiêu thụ để đánh giá. Liên quan đến chính sách tín dụng
thương mại, chúng ta sẽ lần lượt xem xét các vấn đề như tiêu chuẩn tín dụng khách hàng,
điều khoản tín dụng và chính sách và quy trình thu nợ.
• Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng

Để thực hiện được việc cấp tín dụng cho khách hàng thì vấn đề quan trọng là phải
phân tích khả năng tín dụng của khách hàng. Mỗi doanh nghiệp đều thiết lập tiêu chuẩn
bán chịu của mình chính thức hoặc không chính thức. Công việc này phải bắt đầu bằng
viêc doanh nghịêp xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng họp lý, sau đó xác minh phẩm chất
tín dụng của khách hàng tiềm năng. Nếu khả năng tín dụng của khách hàng phù họp với
những tiêu chuẩn của tối thiểu mà doanh nghiệp đưa ra thì tín dụng thương mại có thể
được cấp. Việc thiết lập tiêu chuẩn tín dụng của khách hàng cần phải đạt tới sự cân bằng
phù họp. Nếu tiêu chuẩn tín dụng quá cao thì sẽ loại bỏ mất nhiều khách hàng tiềm năng,
do đó làm giảm lợi nhuận. Nhưng nếu một chính sách tín dụng quá thấp có thể làm tăng
doanh thu nhưng sẽ tạo ra nhiều khoản tín dụng có rủi ro cao và chi phí thu tiền cũng cao.
Các tài liệu được sử dụng để phân tích khách hàng có thể là kiểm tra bảng cân đối
kế toán, bảng ngân quỹ, phỏng vấn trực tiếp, xuống tận nơi để kiểm tra tìm hiểu qua các
khách hàng khác.
Khi thực hiện việc phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, người ta có thể sử
dụng các phương pháp chủ yếu sau:
-

Phẩm cách và tư cách tín dụng. Tiêu chuẩn này nói lên tinh thần trách nhiệm của
-3-



khách hàng trong việc trả nợ. Điều này cũng chỉ phán đoán dựa trên cơ sở việc
thanh toán các khoản nợ trước đây đối với doanh nghiệp hoặc đối với các doanh
nghiệp khác
-

Năng lực trả nợ. Tiêu chuẩn này được dựa vào hai chỉ tiêu về khả năng thanh toán
nhanh và bảng dự trữ ngân quỹ của doanh nghiệp...
- Vốn của khách hàng. Đây là chỉ đánh giá về tiềm năng tài chính dài hạn.

-

Thế chấp, là xem xét khách hàng dưới giác độ các tài sản riêng mà họ có thể sử
dụng để đảm bảo cho các khoản nợ.

-

Điều kiện kinh tế, tức là đề cập đến khả năng phát triển của khách hàng, xu thế
phát triển về ngành nghề kinh doanh của họ...
• Điều khoản của chính sách tín dụng thương mại

Điều khoản tín dụng là điều khoản xác định độ dài thời gian hay thời hạn tín dụng
và tỷ lệ chiết khấu áp dụng nếu khách hàng trả sớm hơn thời gian tín dụng cho phép. Ví
dụ, điều khoản tín dụng là “2/10 net 30” có nghĩa là khách hàng được hưởng chiết khấu
2% nếu thanh toán trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ho á đơn được phát hành và nếu
khách hàng không lấy chiết khấu thì khách hàng được trả chậm 30 ngày kể từ ngày phát
hành hoá đơn.
Nội dung của chình sách tín dụng thương mại không chỉ liên quan tới tiêu chuẩn tín
dụng nói trên mà cong liên quan đến điều khoản tín dụng. Thay đổi điều khoản tín dụng

lại thay đổi tới thời hạn tín dụng và tỷ lệ chiết khấu. Trong điều khoản về chiết khấu, có
hai vấn đề liên quan là thời hạn tín dụng và tỷ lệ chiết khấu. Thời hạn tín dụng là thời
gian mà nếu người mua thanh toán trước hoặc trong thời gian đó người mua sẽ nhận
được tỷ lệ chiết khấu. Tỷ lệ chiết khấu là tỷ lệ phần trăm của doanh thu hoặc giá bán
được khấu trừ nếu người mua trả tiền đối với các khoản phải thu. Nhưng tỷ lệ chiết khấu
sẽ làm giảm doanh thu ròng, do đó, làm giảm lợi nhuận. Lỉệu giảm chi phí đầu tư khoản
phải thu có bù đắp thiệt hại do giảm lợi nhuận hay không là một vấn đề mà nhà quản lý
cần quan tâm.
Cần phải chú ý rằng, mỗi thời kỳ khác nhau đều có những thay đổi nhất định, do đó,
cần xem xét nội dung của chính sách tín dụng thương mại thường xuyên xem có phù họp
không.


Chính sách thu nợ
Khi doanh nghiệp cho khách hàng vay, để tranh tình trạng không thu hồi vốn kịp
thời hoặc bị chiêm dụng vốn,doanh nghiệp cần xây dựng chính sách chiết khấu thanh
toán họp lý, linh hoạt. Trong trường họp do khả năng quản lý khách hàng kém, khoản nợ
-4-


phải thu sẽ tăng do phát sinh các khoản nợ “xấu” trong kỳ (nợ khó đòi, nợ quá hạn), để
giảm bớt rủi ro có thể xảy ra, doanh nghiệp cần có các bịên pháp thích họp như : bán các
khoản phải thu nợ cho công ty mua bán nợ, ngừng cung cấp hàng hoá cho các khách
hàng này hay nhờ sự can thiệp của pháp luật để thu hồi nợ. Đồng thời, để tránh tình trạng
khê đọng nợ tăng thêm, doanh nghiệp cần tìm hiều kỹ càng về khách hàng trước khi đặt
quan hệ làm ăn.


Phân tích khoản tín dụng được đề nghị
Việc phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị nhằm mục đích để quyết định

có nên cấp hay không được dựa vào tính NPV của luồng tiền. Việc phân tích NPV sẽ
giúp cho doanh nghiệp biết có nên cấp tín dụng cho khách hàng hay không và các điều
khoản tín dụng sẽ như thế nào.
2.2. Chính sách bán hàng
Số nợ phải thu của doanh nghiệp tăng hoặc giảm trong kỳ còn phụ thuộc vào
phương thức tiêu thụ áp dụng tại doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp áp dụng phương thức
bán lẻ là chủ yếu thì số nợ phải thu của doanh nghiệp sẽ thấp do hàng bán được thu tiền
ngay; ngược lại, phải thu sẽ cao nếu doanh nghiệp áp dụng phương thức bán buôn là chủ
yếu do đặc trưng của phương thức này là thanh toán chậm. Hoặc nếu chính sách tín dụng
bán hàng khác nhau thì số nợ phải thu cũng khác nhau. Chúng ta cần chú ý tới lượng
hàng tiêu thụ để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn tránh gây tổn thất cho doanh
nghiệp.
2.3. Theo dõi các khoản thu
Đe quản lý các khoản phải thu, nhà quản lý phải biết cách theo dõi các khoản phải
thu, trên cơ sở đó có thể thay đổi chính sách tín dụng thương mại kịp thời. Thông thường
người ta dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp và mô hình sau:
• Kỳ thu tiên bình quân (The average collection period - ACP)

Kỳ thu tiền bình quân là một tỷ số tài chính đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Tỷ số này cho biết doanh nghiệp cần mất bình quân là bao nhiêu ngày để thu hồi
các khoản phải thu của mình.
Dựa vào kỳ thu tiền bính quân, có thể nhận ra chính sách tín dụng thương mại của
doanh nghịêp. Chất lượng công tác theo dõi thu hồi nợ của doanh nghiệp. Theo quy tắc
-5-


chung, kỳ thu tiền bình quân không được dài hơn (1+1/3) kỳ hạn thanh toán. Còn nếu
phương thức thanh toán của doanh nghiệp có ấn định kỳ hạn được hưởng chiết khấu thì
kỳ thu tiền bình quân không được dài hơn (1+1/3) dố ngày của kỳ hạn được hưởng chiết
khấu. Do yậy, khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không

tăng thì cũng có nghĩa là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng ở khâu thanh toán. Khi đó nhà
quản lý cần phải có biện pháp can thiệp kịp thời.


Sắp xếp tuổi của các khoản phải thu
Theo phương pháp này nhà quản lý sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời
gian để theo dõi và có biện pháp thu nợ khi đến hạn.
Ví dụ: Sau khi xem xét các khoản phải thu của công ty X. Các nhà quản lý lập
được bảng theo dõi các khoản phải thu như sau:
Tuôi của các khoản phải thu (ngay)

Tỷ lệ của khoản phải thu so với tổng
số cấp tín dụng

0- 15
16-30

32%
30%

31-45

19%

46-60

12%

61-75


4%

• Xác định số dư khoản phải thu

Theo phương pháp này, khoản phải thu sẽ hoàn toàn không chịu ảnh hưởng bởi yếu
tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán. Sử dụng phương pháp này doanh nghiệp hoàn
toàn có thể thấy được nợ tồn đọng của khách hàng nợ doanh nghiệp. Cùng với cách theo
dõi khác, người quản lý có thể thấy được ảnh hưởng của các chính sách tài chính nói
chung và chính sách tín dụng thương mại nói riêng.
2.4. Rủi ro của các khoản phải thu
Hầu hết các công ty đều phát sinh khoản phải thu với các mức độ khác nhau, từ mức
không đáng kể tới mức không thể kiểm soát nổi. Kiểm soát khoản phải thu liên quan đến
việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Neu không có bán hàng trả chậm thì sẽ mất đi cơ
hội bán hàng, do đó, mất đi lợi nhuận. Nếu bán chịu hàng hoá quá nhiều thì chi phí cho
khoản phải thu tăng, có nguy cơ phát sinh chi phí cho các khoản phải thu khó đòi, do đó,
-6-


rủi ro không thu hồi được nợ cũng gia tăng. Các doanh nghiệp cũng cần chú ý, chính
sách tín dụng thương mại phải thường xuyên thay đổi theo tình hình của thị trường, do
đó, các nhà quản lý cần chú ý xem, nếu khi nới lỏng chính sách tín dụng thương mại sẽ
làm tăng lợi nhuận nhưng lợi nhuận này có đủ bù đắp được chi phí vào các khoản phải
thu hay không? Hoặc ngược lại, nếu thắt chặt chính sách tín dụng thương mại thì các chi
phí cho các khoản phải thu tiết kiệm được có đủ để bù đắp cho lợi nhuận giảm hay
không? Trên thực tế, quản trị khoản phải thu phải đối mặt với rất nhiều các vấn đề phức
tạp, do vậy, cac nhà quản lý cần thận trọng trong việc đánh đổi giữa cơ hội có lợi nhuận
tăng thêm nhờ chính sách tín dụng thương mại và rủi ro xuất phát từ các khoản phải thu
là chi phí quản lý và thu hồi nợ khó đòi.

3. Hiệu quả quản lý khoản phải thu

Đánh giá hiệu quả quản lý khoản phải thu là một vấn đề then chốt trong các doanh
nghiêp. Nó gắn liền với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do yậy, việc doanh
nghiệp phân tích hiệu quả quản lý các khoản phải thu sẽ đánh gía được chất lượng trong
quản lý, xây dựng chính sách bán hàng, chính sách tín dụng thương mại, uy tín của
doanh nghiệp với bạn hàng... từ đó có thể vạch ra các khả năng tiềm tàng để nâng cao
hơn nữa kết quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng các khoản phải thu.
Đánh giá hiệu quả quản lý các khoản phải thu được thông qua các chỉ tiêu sau:
-

kỳ thu tiền bình quân:
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để thu hồi được các khoản phải thu và hiệu
quả càng cao thì chỉ tiêu này càng nhỏ.

-

Vòng quay khoản phải thu trong kỳ

Trong đó các khoản phải thu bình quân là bình quân số học của các khoản phải thu
ở đầu kỳ và cuối kỳ. Vòng quay các khoản phải thu cho biết trung bình 1 năm khoản
phải thu quay được bao nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng lớn thì càng tốt.
- So sánh với khoản phải trả của doanh nghiệp
Trên bảng cân đối kế toán, khoản phải trả được gọi là một khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp. Nó thể hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp phải trả toàn bộ số nợ ngắn hạn
-7-


này cho chủ nợ khi đến hạn. Khoản phải trả chủ yếu bao gồm 2 khoản mục chính là phải
trả nhà cung cấp và người mua trả tiền trước. Nhìn vào khoản phải trả , chúng ta có thể
nhận thấy doanh nghiệp đang chiếm dụng vốn của đối tác là bao nhiêu? Việc so sánh
giữa khoản phải thu và khoản phải trả sẽ cho biết là doanh nghiệp đang chiếm dụng vốn

hay bị chiếm dụng vốn, để từ đó các nhà quản lý sẽ có những thay đổi về chính sách bán
hàng, nguyên vật liệu chính sách tín dụng thương mại nhằm phù họp với điều kiện mới.

II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HIỆU QUẢ QUẢN LÝ KPT
1. Các nhân tổ khách quan ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý khoản phải thu
Các nhân tố khách quan là các nhân tố có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và do đó tác động đến việc sử dụng vốn lưu
động như thế nào cho phù họp để thích nghi với sự biến đổi của môi trường xung quanh.
Chúng là những nhân tố mà bản thân doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Điều này
đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải tự nắm bắt và thích ứng.
* Các nhân tố về môi trường kinh tế:

Môi trường kinh tế là một tập họp bao gồm nhiều yếu tố có ảnh hưởng sâu rộng đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập
quốc dân, biến động cung cầu hàng hóa, mức độ cạnh tranh trên thị trường...Môi trường
kinh tế thuận lợi tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực
của mình, ngược lại chúng gây ra những khó khăn cho doanh nghiệp.
* Các nhân tố về môi trường tự nhiên:

Đó là các nhân tố về khí hậu, yị trí địa lý, địa hình ...Các nhân tố này có ảnh hưởng
lớn đến quyết định chớnh sỏch bỏn hàng của doanh nghiệp. Chúng tác động đến việc
doanh nghiệp lựa chọn vị trí,cách thức bán hàng phù họp với yêu cầu của người mua và
nhằm khuyến khích người tiêu dùng.
* Các nhân tố về môi trường văn hóa xã hội:

Đây là những nhân tố luôn bao quanh doanh nghiệp và nó có ảnh hưởng lớn đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-

Dân số thể hiện quy mô nhu cầu và tính đa dạng của nhu cầu, từ đó khi cung cấp dịch vụ

thông tin di động doanh nghiệp có thể dự đoán được dung lượng thị trường mà doanh
nghiệp có thể đạt đến.

-

Thu nhập và phân bố thu nhập của người tiêu dùng: thu nhập của dân cư quyết định đến
-8-


lượng tiền mà người tiêu dùng sẽ dùng cho dịch vụ thông tin di động, mức độ sử dụng
thường xuyên, yêu cầu về chất lượng dịch vụ, chất lượng mạng...
Ngoài ra các nhân tố như: trình độ văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, xu hướng phân
bố dân cư.. .ảnh hưởng đến thói quen, tập tính tiêu dùng của các tầng lớp dân cư và từ đó
tác động đến nhu cầu và cơ cấu chi tiêu của khách hàng.
* Các chính sách vĩ mô của Nhà nước :
-

Các chủ trương chính sách về đầu tư của Đảng và nhà nước đối với ngành bưu
chính viễn thông sẽ quyết định tới quy mô đầu tư phát triển mạng lưới của các doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ thông tin di động.

2. Các nhân tố chủ quan
Nếu như các nhân tố khách quan là những nhân tố mà doanh nghiệp không thể kiểm
soát và thay đổi được thì các nhân tố chủ quan là những nhân tố nằm ở chính bản thân
của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát và điều chỉnh theo hướng có lợi
nhất cho mình. Sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp chủ yếu ở việc doanh
nghiệp có nắm bắt và kiểm soát được các nhân tố chủ quan hay không. Những nhân tố đó
là:
* Trình độ nguồn nhân lực: đây là một trong những nguồn vốn qúy nhất của doanh
nghiệp có ảnh hưởng to lớn đến sự thành bại trong kinh doanh và khả năng cạnh

tranh trên thị trường của doanh nghiệp. Trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ cán
bộ công nhân viên sẽ quyết định đến chất lượng của sản phẩm, dịch vụ, năng suất
lao động và từ đó tác động đến hiệu quả quản lý khoản phải thu. Còn với cán bộ
lãnh đạo và quản lý, việc đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh, phương pháp
quản lý, mục tiêu và định hướng phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn ở
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm trên thương trường của họ.
* Trình độ khoa học công nghệ: việc áp dụng các công nghệ tiên tiến hiện đại trong
hoạt động sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí, nâng
cao được năng suất lao động, chất lượng dịch vụ từ đó tăng hiệu suất quản lý.

Cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp: khi doanh nghiệp có hệ thống cơ sở hạ tầng( trụ sở
làm việc, các trung tâm, chi nhánh, hệ thống đại lý...) được bố trí họp lý khoa học sẽ giúp
doanh nghiệp quản lý có hiệu quả hơn các khoản phải thu, thu có hiệu quả hơn các khoản
nợ từ khách hàng...

-9-


III. Biện pháp giải quyết nợ phải thu
1. Trích lập khoản dự phòng nợ khó đòi
Trích lập dự phòng nợ khó đòi là giải pháp mang tính chủ động mà doanh nghiệp có
thể áp dụng đầu tiên. Đây là giải pháp giúp doanh nghiệp giảm thiểu những tổn thất có
thể xảy ra với hoạt động kinh doanh khi các khoản nợ có nguy cơ không đòi được.
Điều kiện lập dự phòng các khoản thu khó đòi
Theo Thông tư 200/2014/TT-BTC, các khoản nợ phải thu khó đòi phải đảm bảo các
điều kiện sau thì mới được trích lập quỹ dự phòng:
– Có đủ căn cứ xác định là khoản nợ phải thu khó đòi:
+ Nợ phải thu chưa đến thời hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế (các công ty,
doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, tổ chức tín dụng..) đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc
đang làm thủ tục giải thể: người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy

tố, giam giữ, xét xử, đang thi hành án hoặc đã chết.
+ Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán ghi trên hợp đồng kinh tế, các khế ước vay nợ
hoặc các cam kết nợ khác.
– Các khoản không đủ căn cứ xác định là nợ phải thu theo quy định này phải xử lý
như một khoản tổn thất.
– Khoản nợ phải có chứng từ gốc, có đối chiếu xác nhận của khách nợ về số tiền còn
nợ bao gồm: hợp đồng kinh tế, khế ước vay nợ, cam kết nợ, bản đối chiếu công nợ và các
chứng từ khác, bản thanh lý hợp đồng cam kết nợ.
Phương pháp và mức trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi
DN phải dự kiến mức tổn thất có thể xảy ra hoặc tuổi nợ quá hạn của các khoản nợ
và tiến hành lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, kèm theo các chứng cứ
chứng minh các khoản nợ khó đòi nói trên. Trong đó:
* Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau:
+ 100% giá trị đối với khoản nợ phải thu từ 3 năm trở lên.
+ 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm.
+ 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm.
-10-


+ 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ trên 6 tháng đến dưới 1 năm.
* Đối với nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế đã lâm vào
tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể, người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị các
cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi hành án hoặc đã chết,…thì
doanh nghiệp dự kiến mức tổn thất không thu hồi được để trích lập dự phòng.
– Sau khi lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, DN tổng hợp toàn bộ
khoản dự phòng các khoản nợ vào bảng kê chi tiết để làm căn cứ hạch toán vào chi phí
quản lý của doanh nghiệp.

2. Tính lãi suất trên nợ quá hạn
Đối với những khách hàng “chây lì”, doanh nghiệp có thể áp dụng lãi suất trên

khoản nợ khó đòi, tương đương lãi suất cho vay của ngân hàng. Đây là cách để buộc
khách hàng có trách nhiệm hơn với khoản nợ, cũng như giúp doanh nghiệp bớt đi một
phần chi phí nợ.

3. Chiết khấu nợ khó đòi
Nếu khách hàng thực sự gặp khó khăn trong khâu thanh toán, chiết khấu nợ là giải
pháp cần thiết. Đây là hình thức giảm giá trị khoản nợ cho khách hàng, tạo điều kiện để
khách hàng có thể thanh toán nợ dứt điểm. Giá trị chiết khấu tùy thỏa thuận giữa hai bên.
Dù có thể chịu thiệt chút đỉnh nhưng đổi lại doanh nghiệp sẽ sớm cắt bỏ được “cục nợ”
dai dẳng.

4. Bán nợ
Doanh nghiệp cũng có thể xử lý nợ xấu thông qua việc bán nợ cho các tổ chức mua
bán nợ chuyên nghiệp. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện chỉ có một đơn vị duy nhất thực
hiện dịch vụ này là Công ty Mua bán nợ và Tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC).
DATC là công ty thuộc Bộ Tài chính, chuyên xử lý nợ xấu cho các ngân hàng và doanh
nghiệp cả nước. Vì vậy, doanh nghiệp cổ phần hoặc tư nhân chỉ có thể hy vọng tìm đến
giải pháp này trong tương lai.

5. Xử lý nợ khó đòi thông qua các dịch vụ thu hồi nợ
Dịch vụ thu hồi nợ có nhiều hình thức hoạt động như: tư vấn thu hồi nợ, thu hồi nợ
qua điện thoại, thám tử thu hồi nợ,... Đây đều là những dịch vụ hợp pháp và hoàn toàn
không gây ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp nếu bên cung cấp dịch vụ là đối tác uy tín
trong ngành.

-11-


Một cách ngắn gọn, có 5 yếu tố cần chú ý:
- Công ty có kinh nghiệm trong mảng nào: Các công ty thu hồi nợ thường có một

lĩnh vực hoạt động nhất định họ có kinh nghiệm nhiều nhất, ví dụ: Thu nợ ngân hàng, thu
nợ từ các doanh nghiệp nhỏ, thu nợ từ hộ kinh doanh,... Nếu có thể, hãy tham khảo xem
đối tượng công ty nào có kinh nghiệm xử lý nhất.
- Mức độ hợp pháp của công ty: Hãy chắc chắn rằng công ty cung cấp dịch vụ thu
hồi nợ hoạt động chuyên nghiệp, có đăng ký kinh doanh, được cấp phép và tuân thủ đầy
đủ pháp luật liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ thu hồi nợ.
- Khả năng theo sát đối tượng: Đối tượng thiếu nợ có thể sẽ di chuyển đến các địa
phương khác để trốn nợ. Để đối phó với vấn đề này, bên thực hiện thu nợ cần có đủ khả
năng và kinh nghiệm để theo dõi sát sao đối tượng thiếu nợ. Điều này có nghĩa là họ có
những nguồn thông tin chuyên biệt giúp họ không dễ dàng mất dấu đối tượng. Đây là yếu
tố rất đáng cân nhắc nếu người thiếu nợ đã nhiều lần từ chối những nỗ lực liên hệ từ bên
doanh nghiệp.
- So sánh phí và phí dự phòng: Một vài phương thức tính giá phổ biến là phí cố định
và phí phần trăm. Tất nhiên nếu không thu được tiền, bên cung cấp dịch vụ thu hồi nợ sẽ
không được trả thù lao. Điều cần lưu ý là một khi đã sử dụng những dịch vụ này, số tiền
thu về chắc chắn sẽ không phải 100% số tiền nợ. Vì thế, hãy cân nhắc kỹ về nhu cầu tài
chính của doanh nghiệp trước khi đưa ra lựa chọn cuối cùng.

6. Tiến hành khởi kiện
Khá nhiều doanh nghiệp không chú ý đến vấn đề thời hiệu khởi kiện dẫn đến việc
khó khăn trong xư lý nợ khó đòi bằng hình thức khởi kiện.
Theo quy định của Luật Thương mại, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án giải
quyết tranh chấp liên quan đến nợ khó đòi phát sinh từ hợp đồng là 2 năm kể từ ngày
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Trong thời hạn 2 năm, nếu doanh nghiệp không tiến hàng khởi kiện tại tòa thì coi
như mất quyền khởi kiện.
Trong các trường hợp thực tế, nhiều doanh nghiệp bị mất quyền khởi kiện do không
chú ý đến thời điểm quan trọng này. Lý do là bởi khi thời hạn nợ đã quá hạn, bên nợ
thường đưa ra nhiều lý do để kéo dài thời gian trả tiền như: chưa nhận được thành toán từ
bên thứ ba, chưa phê duyệt xong để thanh toán,...

Doanh nghiệp trong những trường hợp này cũng có tâm lý chờ đợi hoặc nhắc nhở
bên nợ thanh toán chứ không chú ý đến thời điểm chậm trả nợ để tiến hành khởi kiện.
-12-


Đến khi thời hiệu khởi kiện đã qua, doanh nghiệp mất đi quyền chính đáng của mình để
yêu cầu tòa án giải quyết.
Tuy vậy, khi hết thời hiệu khởi kiện, doanh nghiệp vẫn có thể xác lập lại thời hiệu
khởi kiện mới trong các trường hợp sau:
- Bên nợ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ đối doanh nghiệp;
- Bên nợ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với doanh nghiệp;
- Bên nợ và doanh nghiệp tự hoà giải với nhau.
Việc xác lập này có thể được thực hiện thông qua biên bản đối chiếu công nợ giữa
hai bên, bản thỏa thuận về nợ hay giấy xác nhận nợ hoặc bất kỳ văn bản nào thể hiện bên
nợ đã thực hiện một phần nghĩa vụ của mình đối với doanh nghiệp như hóa đơn GTGT
về thanh toán công nợ, thông tin chuyển khoản thanh toán tiền nợ của bên nợ… Khi xảy
ra 1 trong 3 trường hợp trên, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp
theo sau ngày xảy ra sự kiện nêu trên.

7. Chặt chẽ trong quản lý nợ
Tuy được nhắc đến sau nhưng đây là bước doanh nghiệp phải thực hiện trước hết,
một cách thường xuyên, liên tục trong quá trình hoạt động kinh doanh. Cách tốt nhất để
quản lý nợ xấu là đừng để nó xảy ra. Doanh nghiệp phải nắm rõ danh mục nợ phải thu và
có kế hoạch thu nợ rõ ràng, không để phát sinh nợ khó đòi. Muốn vậy, doanh nghiệp phải
kiện toàn bộ máy kế toán, thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán quản trị. Đặc biệt, doanh
nghiệp cần tăng cường kiểm tra các quan hệ giao dịch thường xuyên có số dư phải thu
lớn.
Ngoài ra, còn có một số biện pháp như:
- Cơ cấu lại thời hạn nợ: doanh nghiệp có thể điều chỉnh kỳ hạn nợ, hoặc gia hạn nợ
cho khách hàng nếu doanh nghiệp đánh giá khách hàng suy giảm khả năng trả nợ nhưng

có thể trả nợ dầy đủ theo thời hạn nợ cơ cấu lại.
- Thông qua các bạn hàng của khách nợ để giữ hàng.
- Tranh thủ sự giúp đỡ của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng để phong tỏa tài sản,
tiền vốn của khách nợ.

-13-


B. LỢI THẾ VÀ BẤT LỢI KHI THỰC HIỆN VỐN HÓA KPT
Khái niệm vốn hóa khoản phải thu
Chuyển nợ thành vốn góp là việc chủ nợ hoặc tổ chức thay vì thu hồi tiền nợ đã cho
doanh nghiệp vay, họ sẽ lấy khoản nợ phải thu đó để “mua” chính cổ phần của doanh
nghiệp hoặc một đối tác quan tâm mua lại chính khoản nợ đó từ chủ nợ với giá tương
đương hoặc theo thỏa thuận. Khi đó, chủ nợ hoặc người mua nợ sẽ trở thành chủ sở hữu
của doanh nghiệp, đầu tư thêm vốn để tái cơ cấu lại toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp
từ tổ chức nhân sự đến hoạt động kinh doanh và định hướng phát triển…

Lợi thế
Khi chuyển nợ thành vốn, các chủ nợ lúc này đã thành cổ đông. Họ sẽ có động lực
để bắt tay đưa doanh nghiệp hoạt động trở lại. Sau khi doanh nghiệp hoạt động ổn định
và phát triển, chủ nợ có thể bán lại cho các nhà đầu tư quan tâm hoặc bán qua thị trường
chứng khoán để thu hồi vốn.
– Đối với TCTD: Việc áp dụng biện pháp này sẽ giúp ngân hàng sớm thoát khỏi nợ xấu,
“làm đẹp” bản báo cáo tài chính, đồng thời giúp ngân hàng tăng nguồn vốn do vốn vay
chuyển thành khoản đầu tư tài chính của ngân hàng.
– Đối với doanh nghiệp: Việc chuyển nợ thành vốn góp sẽ ngay lập tức giúp doanh
nghiệp bỏ áp lực trả nợ cho ngân hàng, có điều kiện khôi phục hoạt động sản xuất kinh
doanh từ nguồn cấp vốn của các TCTD hoặc các nguồn vốn đầu tư khác.
– Đối với nền kinh tế: Việc xử lý nợ xấu theo biện pháp chuyển nợ thành vốn góp sẽ
giảm thiểu được những tác động tiêu cực như: doanh nghiệp bị phá sản, người lao động

mất việc làm… Biện pháp này không chỉ giúp các TCTD sớm thu hồi được nợ xấu, vừa
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội phục hồi và phát triển.

Bất lợi
Trên thực tế, hiện nay các TCTD không mặn mà với biện pháp chuyển nợ xấu thành
vốn góp cổ phần tại doanh nghiệp, tiêu biểu là trường hợp của Công ty CP Thủy sản
-14-


Phương Nam: (Vào thời điểm tháng 11/2012, Công ty Phương Nam nợ các ngân hàng số
tiền khoảng 1.599 tỷ đồng, đứng trên phá sản. Các ngân hàng chủ nợ cùng DATC* đã
thống nhất tái cơ cấu lại Công ty Phương Nam, theo đó, có 2 ngân hàng tham gia góp vốn
đó là LienVietPostBank và ABBank. LienVietPostBank (nắm 62,43% vốn điều lệ),
ABBank với tỷ lệ 34,17%. Sau 4 tháng tái cấu trúc, Phương Nam đã đạt được những kết
quả khả quan. Kim ngạch xuất khẩu tháng 7,8,9/2013 liên tục tăng, lương của tất cả các
lao động tại công ty đã tăng thêm 20% lên gần bằng mặt bằng chung của các nhà máy
thủy sản trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, nhiều khách hàng truyền thống từ Mỹ, Nhật, EU đã
quay lại với công ty.)
Các TCTD không mặn mà với biện pháp này vì những nguyên nhân như sau:
- Chức năng chính của TCTD hiện nay vẫn tập trung phát triển hoạt động kinh
doanh, bao gồm các mảng: tín dụng, huy động vốn, dịch vụ thẻ… Do đó, thay vì góp vốn
trực tiếp vào khách hàng nợ xấu và đầu tư thời gian, cấp tín dụng cũng như sắp xếp nhân
sự tổ chức vào các doanh nghiệp nợ xấu, các TCTD chọn cách chuyển “chức năng” này
sang DTAC thông qua biện pháp bán nợ. Bằng biện pháp này, TCTD sẽ có vốn (dù tỷ lệ
mất vốn khá cao) để tiếp tục đưa dòng vốn vào hoạt động kinh doanh thay vì góp vốn và
tiếp tục rót vốn vào doanh nghiệp và không biết bao giờ mới có thể thu hồi toàn bộ vốn
cho vay.
- Hầu hết các TCTD có chức năng đầu tư và lãnh đạo các doanh nghiệp “ngoài
ngành” khôi phục hoạt động: Các doanh nghiệp vay vốn tại các TCTD rất đa dạng, hoạt
động kinh doanh trong nhiều ngành nghề.

Mỗi một doanh nghiệp đều có thế mạnh trong một lĩnh vực kinh doanh nhất định.
Bởi vậy, nhiều khi chủ nợ không có kinh nghiệm kinh doanh như con nợ nên việc đứng
ra chèo chống doanh nghiệp trên bờ vực phá sản sẽ không mang lại hiệu quả như mong
muốn. Đó là chưa kể đến việc góp vốn và tiếp tục bơm vốn mà không biết khi nào mới có
thể thu hồi được vốn cũng là một bài toán khiến các chủ nợ đau đầu.
* DATC: Công ty mua bán nợ tồn đọng – Bộ Tài chính

-15-


MỤC LỤC

-16-



×