Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đề cương môn kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.12 KB, 31 trang )

Câu 1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
a. Khái niệm sản xuất hàng hóa
Khái niệm sản xuất hàng hoá
– Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế, trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm
để trao dổi hoặc bán trên thị trường.
– Sản xuất tự cung tự cấp: là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm tạo ra nhằm để
thoã mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.
v. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá.
– Phân công lao động xã hội:
+ Là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất khác nhau tạo nên sự
chuyên môn hoá lao động và theo đó là chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành
nghề khác nhau.
+ Do sự phân công lao động mà mỗi người tạo ra những hàng hoá khác nhau trong khi nhu
cầu xã hội cần nhiều thứ nên tất yếu dẫn đến trao đổi, mua bán hàng hoá để thoã mãn
nhu cầu.
– Sự tách biệt tương đối về mặc kinh tế giữa những người sản xuất do quan hệ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Do sự tách biệt, do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động dẫn
đến sự tách biệt về kinh tế và lợi ích, làm cho lao động của người sản xuất mang tính
chất là lao dộng tư nhân. Do đó người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác
phải thông qua trao đổi sản phẩm dưới hình thái hàng hoá nhằm đảm bảo sự ngang
bằng về lợi ích cho mỗi bên.
Ưu thế của sản xuất hàng hoá so với sản xuất tự cấp tự túc.
* Thúc đẩy LLSX phát triển
Sản xuất hàng hóa đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng
hoá phải năng động trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm
tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.

1




Trong sản xuất tự cung tự cấp, quy mô nhỏ chủ yếu dựa vào nguồn lực sẵn có của tự nhiên,
nhu cầu thấp, trình độ dân trí thấp nên không có cạnh tranh, không tạo ra động lực
mạnh mẽ phát triển khoa học - công nghệ để phát triển kinh tế có hiệu quả.
* Đẩy mạnh quá trình XHH sản xuất không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả phạm vi quốc
tế
Sản xuất hàng hóa với năng suất lao động cao, chất lượng hàng hóa tốt và khối lượng ngày
càng nhiều, chủng loại đa dạng và phong phú làm cho thị trường được mở rộng, giao
lưu kinh tế - xã hội giữa các vùng, các miền, các địa phương và quốc tế phát triển, tạo
điều kiện thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao cũng như sự phát
triển tự do và toàn diện của mỗi thành viên trong xã hội. dẫn đến quá trình xã hội hóa
sản xuất cả trong và ngoài nước ngày càng được mở rộng. Việc sản xuất là của nhiều
quốc gia, các quốc gia phụ thuộc vào nhau. Ngược lại với sản xuất tự cung tự cấp, sản
xuất kém phát triển, mang tính khép kín, sản phẩm sản xuất ra không đủ tiêu dùng vì
thế đời sống vật chất và tinh thần của người lao động thấp, không có điều kiện để mở
rộng hoạt động giao lưu kinh tế - xã hội giữa các vùng miền...
* Sản xuất hàng hóa tạo ra nhiều hàng hóa đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của xã hội
Sản xuất tự cung tự cấp là sản xuất khép kín nhằm thoã mãn nhu cầu của bản thân người sản
xuất. Do vậy nhu cầu chỉ dừng lại ở mức độ hạn hẹp. Trái lại sản xuất thoã mãn nhu
cầu tiêu dùng của thị trường, nhu cầu thị trường là động lực kích thích sản xuất, dưới
tác dụng của quy luật và cạnh ttranh->phát triển khoa học và công nghệ-> Nâng cao
NSLĐXH -> Hàng hóa ngày càng đa dạng phong phú về chủng loại, nâng cao được
chất lượng, giá thành hạ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dung
* Sản xuất hàng hóa tạo điều kiện cho sản xuất lớn ra đời và phát triển
Sản xuất hàng hóa ra đời đẩy mạnh quá trình phân công lao động và đẩy mạnh quá trình mở
rộng thị trường làm cho kinh tế tự nhiên bị thu hẹp. Sản xuất tự cung tự cấp cản trở sự
phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất hàng hoá thì ngược lại nó thúc đẩy
sự phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất tạo điều kiện để phát huy lợi thế so
sánh của mỗi vùng

Đồng thời đã tạo nguồn vốn ban đầu cho quá trình CNH, và cách mạng khoa học kỹ thuật
từng bước xây dựng cơ sở vật chất ky thuật cho nền sản xuất lớn ra đời Có thể thấy:
Kinh tế hàng hóa là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của xã

2


hội loài người. Đánh đấu sự chuyển biến của xã hội loài người sang một nấc thang mới
cao hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hoá cũng có những mặt trái
của nó như phân hoá giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những
khả năng khủng hoàng kinh tế - xã hội, phá hoại môi trường sinh thái, V.V..
Vận dụng: (Cơ bản)
Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá thị trường,
Đẩy mạnh quá trình phân công lao động xã hội, đào tạo nghề phù hợp địa phương
Tạo lập phát triển đồng bộ yếu tố thị trường
Đẩy mạnh cuộc áp dụng khoa học kỹ thuật.
Mở rộng quan hệ kinh tế với các vùng, các khu vực kinh tế dựa trên lợi thế….
Câu 2: Hàng hoá là gì? phân tích hai thuộc tính của hàng hoá; tại sao hàng hóa lại có
hai thuộc tính? Vận dụng những vấn đề đó vào sản xuất kinh doanh như thế nào?
+ K/n: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông
qua trao đổi, mua bán (chứng minh)
+ P loại: Hàng hóa có thể ở dạng vật thể ( hữu hình ) hoặc ở dạng phi vật thể ( vô hình ).
+ Hai thuộc tính của hàng hóa : mỗi vật phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa
đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người.
Ví dụ : cơm là để ăn, quần áo để mặc, máy móc, thiết bị để sản xuất...
Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên quyết đinh:
Hàng hóa khác nhau giá trị sử dụng khác nhau

Hàng hóa có thế có 1 hoặc nhiều giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn, tuy nhiên nhờ khoa học kĩ thuật GTSD được
bộ lộ thêm..
Giá trị sử dụng là giá trị cho người khác, cho xã hội, giá trị sử dụng không biểu hiện quan
hệ giữa những người sản xuất hàng hóa, nó là vật mang giá trị trao đổi.
-

Giá trị của hàng hóa
Giá trị đi từ phải đi từ giá trị trao đổi.

C.Mac viết : giá trị trao đổi trước hết biểu hiện như một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ
theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
3


Một ví dụ là : 1 mét vải = 10kg thóc.
Để sản xuất ra vải và thóc, người thợ thủ công và người nông dân đều phải hao phí lao
động. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để trao đổi giữa chúng với
nhau.
Sở dĩ cần phải trao đổi theo 1 tỉ lệ nhất định như vậy vì người ta cho rằng, lao động hao
phí sản xuất ra 1m vải bằng lao động hao phí để sản xuất 10kg thóc.
Lao động hao phí để sản xuất hàng hóa ẩn giấu trong hoàng hóa chính là GIÁ TRỊ của
hàng hóa.
Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Chất của giá trị là lao động, vậy sản phẩm nào không có lao động kết tinh trong đó thì
không có giá trị.
Giá trình trao đổi thực chât là trao đổi những hoa phí lao động xã hội
Sản phẩm nào lao động hao phí càng nhiều thì giá trị càng cao. Giá trị là một phạm trù
lịch sử, là nội dung, cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của
giá trị.

Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây là sự
thống nhất của hai mặt đối lập.
Thống nhất: Đây là hai thuộc tính của 1 hàng hóa.
Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: Tách rời nhau về
không gian và thời gian.
Người làm ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra.
Ngược lại, người mua hàng hóa chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nhưng muốn tiêu
dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của nó cho người bán. Nghĩa là qua quá
trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng : giá trị được thực hiện
trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.
Hàng hóa lại có hai thuộc tính vì lao động sản xuất hành hóa có tính chất hai mặt (Lao
động cụ thể và lao động trừu tượng)
Lao động cụ thể là lao động dưới hình thức cụ thế của 1 ngành, nghề chuyên môn nhất
đinh. Lao động cụ thể tạo ra GTSD
Lao động trừu tượng là lao động khi gạt bỏ đi những hình thức cụ thể thì chỉ còn lại sự
hao phí lao động (Thần kinh, bắp thịt). LĐTT tạo nên GT của hàng hóa
Vận dụng: Nghiên cứu bổ sung
Câu 3: Phân tích nhận định sau đây: “Lượng giá trị của một hàng hóa tỷ lệ thuận với
thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa, tỷ lệ nghịch với năng suất
lao động và không thay đổi khi cường độ lao động tăng lên”
Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị.
4


Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng
- Chất của giá trị hàng hóa là lao động xã hội – lao động trừu tượng của người sản xuất hàng
hóa hao phí để tạo ra hàng hóa.
- Lượng giá trị của hàng hóa là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết
định.
a) Thước đo lượng giá trị hàng hóa.

- Thước đo lượng giá trị hàng hóa là: phút , giờ, ngày, tháng, năm
- Đo lượng giá trị hàng hóa căn cứ vào thời gian lao động có ích “thời gian lao động xã hội
cần thiết” để sản xuất hàng hóa quyết định
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hóa nào
đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị
trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong
xã hội đó.
Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa ấy.
Thông thường (thực tế) thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cá biệt của
những người cung cấp đại bộ phận lượng hàng hóa ấy trên thị trường.
+ Thời gian LĐXH cần thiết càng dài, lượng giá trị càng tăng -> Lượng giá trị của một đơn
vị hàng hóa tỷ lệ thuận với lượng lao động hao phí để sản xuất hàng hóa.
Lượng giá trị còn ảnh hưởng bởi NSLĐ và Cường độ lao động.
Thứ nhất: Năng suất lao động
+ NSLĐ: Năng lực sản xuất của lao động
+ Tính bằng: Số lượng sản phẩm trong 1 đơn vị thời gian, hay thời gian cần thiết tạo ra 1 sản
phẩm.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động: Trình độ khéo léo (thành thạo) của người lao
động; mức độ phát triển của khoa học - kỹ thuật, công nghệ và mức độ ứng dụng những
thành tựu đó vào sản xuất; trình độ tổ chức quản lý; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất;
các điều kiện tự nhiên…
Khi năng suất lao động tăng lên thì tổng sản phẩm tăng nhưng thời gian cần thiết tạo ra 1 sản
phẩm giảm -> Lượng giá trị giảm.
Vậy: Lượng giá trị hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. o động.
Thứ hai: Cường độ lao động:
+ Khái niệm: Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một
đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động.
+ Cường độ lao động phụ thuộc vào: Trình độ tổ chức quản lý; quy mô và hiệu suất của tư
liệu sản xuất; thể chất, tinh thần của người lao động.

5


+ Ý nghĩa: tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động.
+ Khi cường độ lao động tăng lên, số lượng hay khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên;
Hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng, nên tổng giá trị của hàng hóa tăng lên, còn
giá trị một đơn vị hàng hóa không đổi.
Từ đó ta thấy: “Lượng giá trị của một hàng hóa tỷ lệ thuận với thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra hàng hóa, tỷ lệ nghịch với năng suất lao động và không thay đổi
khi cường độ lao động tăng lên”
Câu 4: Phân tích nguồn gốc, bản chất và các chức năng của tiền.
a. Nguồn gốc:
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá,
thong quá 4 hình thái giá trị sâu đây:
-

Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị:

Công thức tổng quát là xH1=yH2.
Trao đổi: vật – Vật
Tỷ lệ trao đôi: Chưacó
Ở hình thái này,hàng hoá H1 biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá H2. Trong đó, H1 là hình
thái giá trị tương đối, còn H2 đóng vai trò vật ngang giá ngẫu nhiên, bất kỳ.
- Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị.
Hình thái này biểu hiện ở phương trình trao đổi sau: Khi số lượng hàng hoá trai đổi trên thị
trường có nhiều hơn thì một hàng hoá có thể trao đổi với nhiều hàng hoá khác. Đó là
o xH1=yH2 hoặc = zH3 hoặc…
o Trao đổi: vật – Vật
o Tỷ lệ trao đôi: dần xác lập
o Ở hình thái này,hàng hoá H1 biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá H2, H3…. vai trò vật

ngang giá.
-

Hình thái chung của giá trị

sản xuất hàng hoá phát triển và trao đổi hàng hoá trở nên thường xuyên rộng rãi hơn, thì
trong thế giới hàng hoá có một hàng hoá tách ra làm vật ngang giá chung.. Vật ngang giá
chung có thể trao đổi trực tiếp với một hàng hoá bất kì. Vật ngang giá trở thành môi giới,
thành phương tiện để trao đổi. Phương trình xH1 hoặc yH2 hoặc zH3 hoặc…= aH5 (H5 là
vật ngang giá chung)
o Trao đổi: vật – Vật
o Tỷ lệ trao đôi: Được xác lập

6


o Ở hình thái này, nhiều hàng hóa biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá H5 đóng vai trò vật
ngang giá chung.
-

Hình thái tiền tệ của giá trị

- Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn nữa, thị trường được mở rông, vai trò
vật ngang giá chung dần dần được cố định ở bạc và vàng thì ra đời. Ví dụ:
o xH1 hoặc yH2 hoặc zH3 hoặc…= a gam vàng ( vàng trở thành tiền)
 Khi tiền tệ xuất hiện thì thế giới hàng hoá được phân ra thành 2 cực: 1 phía là vàng với tư
cách là vật ngang giá chung, còn một phía là các hàng hoá khác, các hàng hoá này soi mình
vào vàng để xác định giá trị.
 Ở hình thái này,mọi hàng hóa biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá độc tôn, phổ biến đóng
vai trò là tiền.

b. Bản chất
Tiền tệ là vật ngang giá chung cho tất ca các hàng hoá, là sự thể hiện chung của giái trị và thể
hiện lao động XH; đồng thời biểu hiện quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá.
c. Chức năng tiền tệ:
1. Thước đo giá trị ( chức năng cơ bản nhất)
Với chức năng này tiền dùng để biểu hiện giá trị của các hàng hoá, hay để đo giá trị của hàng
hoá khác. Tiền đo được giá trị của hàng hoá khác vì bản thân nó cũng là giá trị. Tiền làm
chức năng thức đo giá trị nhất thiết phải là tiền vàng, nhưng chỉ là tiền trong ý niệm, tiền
tượng trưng.
2. Phương tiên lưu thông
Làm chức năng phương tiện lưu thông tức là tiền làm môi giới trong việc trao đổi hàng hoá.
Công thức H-T-H
Trong lưu thông tiền phải có mặt nhưng là tiền không nhất thiết đủ giá trị Tiền làm phương
tiện lưu thông đã trải qua nhiều hình thức: đầu tiền là vàng thoi, bạc nén, tiếp là tiền đúc, tiền
giấy và tiền tín dụng.
Khối lượng tiền lưu thông được đo bằng công thức
Số lượng tiền cần thiết thực hiện ch ức năng ph ương tiện l ưu thông tỉ lệ thu ận v ới
tổng số giá cả hàng hoá trong lưu thông và tỉ lệ nghịch v ới tốc độ l ưu thông bình
quân của các đồng tiền cùng loại. (P: Mức gía cả trung bình của hàng hóa, Q: Sản
lượng)

7


3. Phương tiện cất trữ
Tiền tệ rút khỏi lưu thông thì đi vào cất trữ
Làm phương tiện cất trữ phải là tiền vàng và các đồ có giá
Tiền là phương tiện cất trữ có vai trò to lớn, nó giống như con kênh tưới và tiêu cho lưu
thông hàng hoá, nghĩa là tự phát điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông.
4. Phương tiện thanh toán

Tiền dùng là phương tiện thanh toán, chi trả sau khi công việc mua bán hoàn thành.
Chức năng này phát triển làm tăng them sự phụ thuộc lần nhau giữa những người sản xuất
hàng hoá. (Mua chịu hàng hóa, trả nợ, nộp thuế)
5. Tiền tệ thế giới.
Khi sx và trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi phạm vi quốc giá thì cần phải có tiền tệ thế giới.
Tiền tệ thế giới phải là vàng, bạc hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh
toán quốc tế và các đồng tiền mạnh
. Tiền tệ thế giới làm nhiệm vụ thanh toán số chênh lệch trong bảng cân đối thanh toán quốc
tế, và di chuyển của cải từ nước này sang nước khác,
 Các chức năng của tiền tệ có quan hệ mật thiết với nhau và thể hiện bản chất của tiền tệ
Câu 5. Trình bày nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế
hàng hoá; vận dụng quy luật giá trị vào hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào?

8


Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hang hóa vì nó quy định bản chất của
sản xuất hang hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa.
1. Nội dung của quy luật giá trị là:
- Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao
động xã hội cần thiết.
- Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức
hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Có như
vậy họ mới có thể tồn tại được. Còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo
nguyên tắc ngang giá: hai hàng hóa đc trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao
động giá trị như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hóa phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.
- Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị và cả
trong trong trường trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Ở đây, giá trị như cái trục
của giá cả.
2. Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có 3 tác động sau:

a) Thứ nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Quy luật giá trị điều tiết sản xuất
hàng hóa được thể hiện trong 2 trường hợp sau:
- Một là, nếu như một mặt hàng nào đó cá giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi
cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức
lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất
mặt hàng này; do đó tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất
càng được mở rộng.
- Hai là, nếu như 1 mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị sẽ dẫn đến bị lỗ vốn. Tính
hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản
xuất mặt hàng khác; làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành giảm đi, ở ngành khác
lại có thể tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất
mặt hàng này.
Như vây, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất vào các ngành
sản xuất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.
Còn tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng
hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó góp phần làm cho hàng hóa
giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
b) Thứ hai, quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Các hàng hóa được sản xuất ra trong
những điều kiện khác nhau, do đó có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau; nhưng trên thị
trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết.
c) Thứ ba, quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa phân hóa những người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo. Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phi lao
động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao
9


phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua được
thêm nhiều tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động để trở

thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng thì hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua
lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên ngân cơ bản làm xuất hiện quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa và là cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời
với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, Nhà nước cũng cần có những biện pháp để
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
+ Vận dụng: Nghiên cứu bổ sung
Câu 6: Trình bày mâu thuẫn trong công thức thức chung của tư bản và giải thích tại
sao trao đổi ngang giá mà nhà tư bản vẫn thu được giá trị thặng dư?
Công thức chung của tư bản
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời cũng là hình thức biểu hiện đầu
tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định.
Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện
nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.
Tiền được coi là tiền thông thường, thì vận động theo công thức: H - T - H (hàng - tiền hàng), nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền, rồi tiền lại chuyển hoá thành hàng
hoá. Còn tiền được coi là tư bản, thì vận động theo công thức: T - H – T’ (tiền - hàng - tiền),
tức là sự chuyển hoá của tiền thành hàng hoá, rồi hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành
tiền. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T - H – T’ đều chuyển hoá thành tư bản với
mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa giá trị
tăng thêm.
C.Mác gọi công thức T - H - T' là công thức chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản
đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản thương nghiệp, tư bản
công nghiệp hay tư bản cho vay.
Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Tiền ứng trước, tức là tiền bỏ vào lưu thông, khi quay trở về tay người chủ của nó, thì có
thêm một lượng nhất định. Vậy có phải do bản chất của sự lưu thông đã làm cho tiền tăng

thêm và do đó hình thành giá trị thặng dư hay không?
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá cũng không tạo ra giá trị mới,
do đó cũng không tạo ra giá trị thặng dư.
Trường hợp trao đổi ngang giá: nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá, thì chỉ có sự thay đổi
hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như phần
10


giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, về
mặt giá trị sử dụng, thì cả hai bên trao đổi đều có lợi.
Trường hợp trao đổi không ngang giá: nếu hàng hoá được bán cao hơn giá trị, thì số lời anh
ta nhận được khi là người bán cũng chính số tiền anh ta sẽ mất đi khi là người mua, rốt cuộc
anh ta sẽ không được lợi thêm gì cả. Còn nếu mua hàng hoá thấp hơn giá trị, thì tình hình
cũng tương tự như trên. Số lời anh ta nhận được khi là người mua sẽ mất đi khi là người bán.
Giả định có một số người nhờ mánh khoé mà chuyên mua được rẻ bán đắt, thì như C.Mác
nói, điều đó chỉ có thể giải thích được sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ không
thể giải thích được sự làm giàu của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Bởi vì tổng số giá trị
trước lúc trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi không thay đổi, mà chỉ có phần giá trị
nằm trong tay mỗi bên trao đổi là thay đổi.
Như vậy, nếu người ta trao đổi những vật ngang giá, thì không sinh ra giá trị thặng dư, và
nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá thì cũng không sinh ra giá trị thặng dư. Lưu
thông không tạo ra giá trị mới.
Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông, thì
cũng không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
"Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu
thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông"
. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.249.
. Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết khi nhà tư bản tìm thấy một hàng hóa đặc biệt mà trong
quá trình sử dụng nó tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân – Hàng hóa Sức lao động.

Bản thân quá trình lưu thông không tạo nên GTTD nhưng nếu không có quá trình lưu thông
nhà tư bản không thể tìm thấy trên thị trường hoàng hóa đặc biệt. Hàng hóa Sức lao động.
Khi mua H (TLSX và SLĐ) nhà tư bản mua ngang giá, nhưng trong quá trình lao động bằng
lao động trừu tượng công nhân đã chuyển giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân vào sản phẩm.
nó làm cho hàng hóa H’ đã khác về chất so với H ban đầu, Bán H’ vẫn theo đúng quy luật giá
trị - Ngang giá. Vậy nên trong CNTB quy luật giá trị vẫn được bảo tồn những vẫn có GTTD
Câu7: Hãy thông qua một ví dụ để trình bày cách làm tăng giá trị (cách làm giàu) của
nhà tư bản; từ đó rút ra định nghĩa về thời gian lao động tất yếu, thời gian lao đông
thặng dư, ngày lao động và định nghĩa đầy đủ về tư bản.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa,
cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng
dư, trước hết, nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, vì giá trị sử dụng là vật
mang giá trị và giá trị thặng dư.
Vậy, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử
dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C. Mác viết: "Với tư cách là sự thống nhất giữa
quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất
11


hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị
thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ
nghĩa của nền sản xuất hàng hoá"
Quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao
động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua, nên nó có các đặc điểm: một là, công nhân
làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, giống như những yếu tố khác của sản xuất được
nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất; hai là, sản phẩm được làm ra thuộc sở hữu của
nhà tư bản, chứ không thuộc về công nhân.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư
bản làm ví dụ. Nó là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình lớn
lên của giá trị hay là quá trình sản xuất giá thị thặng dư.

Giả định để sản xuất 10 kg sợi, cần 10 kg bông và giá 10 kg bông là 10 $. Để biến số bông
đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2 $; giá trị
sức lao động trong một ngày là 3 $ và ngày lao động là 12 giờ; trong một giờ lao động, người
công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5 $; cuối cùng giả định trong quá trình sản xuất, sợi đã
hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6 giờ, thì nhà tư bản
phải ứng ra là 15 $ và giá trị của sản phẩm mới (10 kg sợi) mà nhà tư bản thu được cũng là
15 $. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm đủ bù đắp lại giá trị sức lao
động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động tất yếu, thì chưa sản xuất ra giá trị thặng dư, do
đó tiền chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức lao động mà nhà tư
bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại
lượng khác nhau, mà nhà tư bản đã tính đến trước khi mua sức lao động. Nhà tư bản đã trả
tiền mua sức lao động trong một ngày (12 giờ). Việc sử dụng sức lao động trong ngày đó là
thuộc quyền của nhà tư bản.
Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thoả thuận thì:
Chi phí sản xuất

Giá trị sản phẩm mới (20 kg sợi)

- Giá trị của bông được chuyển vào sợi: 20$- Giá trị
- Tiền mua bông (20 kg): 20$- Tiền hao
của máy móc được chuyển vào sợi: 4$- Giá trị mới
mòn máy móc: 4$- Tiền mua sức lao
do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ lao
động trong một ngày:3$Tổng cộng 27$
động: 6$Tổng cộng: 30$
Như vậy, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27 $, còn giá trị của sản phẩm mới
(20 kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao động là 30$. Vậy 27 $ ứng trước đã
chuyển hoá thành 30$, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Do đó tiền tệ ứng ra ban đầu đã

chuyển hoá thành tư bản.
Từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra những kết luận sau đây:

12


Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ
là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả
được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.
 Khái niệm đầy đủ tư bản: Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách
bóc lột công nhân làm thuê
Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai phần: phần ngày lao
động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mình
gọi là thời gian lao động cần thiết và lao động trong khoảng thời gian đó là lao động cần
thiết. Phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư, và lao động trong
khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.
Ngày lao động = TGLĐ cần thiết + TGLĐ thặng dư
Việc nghiên cứu giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào đã vạch ra rõ ràng bản chất
bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Câu8. Tại sao nói “sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách
không ngừng mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật” là quy luật kinh tế cơ bản và tuyệt
đối của chủ nghĩa tư bản?
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ
kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C.Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư,
đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thật vậy, giá trị thặng dư, phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất
của chủ nghĩa tư bản - quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động
không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá
trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ
thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố
gắng sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản
muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó: tăng cường bóc lột
công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng
suất lao động và mở rộng sản xuất.
Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
Nội dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột công
nhân làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của
chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ
nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng
13


làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư
bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lý
và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ
nghĩa tư bản vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay
đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội,
nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản.
Tuy nhiên, do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân, mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống
tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc
lột giá trị thặng dư. Nhưng trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc
điểm mới:
Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng

dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động do áp
dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị
sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống hơn.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn. Do áp
dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên
và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp. Do đó lao động trí tuệ, lao động có trình độ
kỹ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Chính
nhờ sử dụng lực lượng lao động ngày nay mà tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã tăng
lên rất nhiều.
Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng
được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hoá, trao đổi không ngang
giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản chủ nghĩa phát triển bòn rút từ các nước kém
phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước
giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại
ngày nay. Các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã bòn rút chất xám, huỷ hoại môi sinh,
cũng như cội rễ đời sống văn hoá của các nước lạc hậu, chậm phát triển.
Câu 9: Phân tích bản chất và các hình thức cơ bản của tiền công; tại sao nói hình thức
của tiền công đã xuyên tạc bản chất của tiền công?
Bản chất của tiền công: bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biều
hiện bằng bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả của sức lao động, nhưng biểu hiện ra
bề ngoài thành giá cả lao động.
Phân tích:

14


Biểu hiện ra bên ngoài của đời sống xã hội tư bản, công nhân làm việc cho nhà tư bản một
thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hóa hay hoàn thành một số công việc nào đó
thì nhà tư bản sẽ trả cho công nhân đó một số tiền nhất định gọi là tiền công.
Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lao động, sự thật thì

tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, vì không phải là hàng hóa. Sở dĩ như
vậy là vì:
- Nếu lao động là hàng hóa thì nó phải có trước, phải được vật hóa trong 1 số hình thức cụ
thể nào đó.
Tiền đề để cho lao động vật hóa được là phải có tư liệu sản xuất . Nhưng nếu người lao
động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán hàng hóa do mình sản xuất ra chứ không bán “ lao
động”
- Việc thừa nhận lao động là hàng hóa dẫn tới 1 trong 2 mâu thuẫn về lí luận:
Thứ nhất: nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá, thì nhà tư bản không
thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư) điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị
thặng dư trong chỉ nghĩa tư bản.
Thứ hai: còn nếu “hàng hóa lao động” được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng
dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị
-Nếu lao động là hàng hóa, thì hàng hóa đó cũng phải có giá trị.
Nhưng lao động là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, bản thân lao động thì không
có giá trị.
Vì thế, lao động không phải là hàng hóa mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao
động.
Do đó tiền công là nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động.
Hình thức cơ bản của tiền công:
Tiền công tính theo thời gian: là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều tùy
thuộc vào thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng…) dài hay ngắn.
Tiền công tính theo sản phẩm: là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số
lượng của sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra
hoặc số lượng trong công việc đã hoàn thành.
15


Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công được xác định
bằng thương số giữa tiền công trung bình của công nhân trong một ngày với số lượng sản

phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất ra trong một ngày, do đó về thực chấ, đơn giá tiền
công là tiền công trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm.
Vì thế tiền công tính theo sản phẩm là hình thức biến tướng của tiền công tính theo thời
gian.
Thực hiện tiền công tính theo sản phẩm, 1 mặt giúp cho nhà tư bản trong việc quản lí, giám
sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn; mặt khác, kích thích công nhân lao động
tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được nhiều tiền công hơn.
Tại sao nói: hình thức của tiền công đã xuyên tạc bản chất của tiền công.
Chúng ta đã thấy, hình thức của tiền công có 2 hình thức cơ bản: tiền công theo thời gian.
Có thể thấy, hình thức của tiền công có thể che giấu bản chất của tiền công.
Nhà tư bản sẽ trả cho lao động sau khi người lao động thực hiện xong công việc tức là thực
hiện xong quá trình lao động.
SLĐ không bao giờ tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi cung cấp giá trị sử
dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà TB
Toàn bộ lao động trong ngày là phương tiện để sinh sống => người công nhân tưởng rằng
mình bán lao động
Lượng tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hay kết quả lao động.
Vì vậy, hình thức của tiền công đã xuyên tạc bản chất của tiền công.
Tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động
tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động không được
trả công, do đó tiền công che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư

Câu 10: Phân tích thực chất của tích luỹ tư bản và những hệ quả tất yếu của tích lũy tư
bản.
Thực chất của tích lũy tư bản
Trong bất kỳ xã hội loài người nào thuộc hiện đại thời kỳ nào muốn tồn tại và
phát triển
đều phải tiêu dùng do đó phải luôn luôn sản xuất. Quá trình sản xuất là một quá trình luôn
luôn đổi mới không ngừng đồng thời cũng là quá trình tái sản xuất. tái sản xuất là gì là quá
trình sản xuất được lặp lại thường xuyên và không ngừng phục hồi.

16


Về quy mô, tái sản xuất gồm có tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. tái sản xuất
giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ do đó tái sản xuất giản đơn
không phải là hình thái điển hình của cntb mà nó chỉ là hình thái đặc thù của xh mà sản xuất
chưa phát triển, sản xuất nhỏ của thợ thủ công, công nhân cá thể hình thức tiến hành đặc thù
của cntb là tái sản xuất mở rộng. tái sản xuất mở rộng của cntb là sự lặp lại quá trình sản xuất
với quy mô lớn hơn với một lượng tb lớn hơn trước. muốn vậy phải biết một phần giá trị
thặng dư thành tư bản phụ thêm.
Việc sử dụng giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.
Như vậy, thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư
bản, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư .Nói một cách cụ thể , tích lũy tư bản là tái
sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng .Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hóa
thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới .
hệ quả tất yếu của tích lũy tư bản
+ Tích lũy tư bản dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng
dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Tích lũy tư bản xét
về mặt làm tăng thêm quy mô của tư bản cả biệt là tích tụ tư bản.
Tích tụ tư bản, một mặt là yêu cầu của tái sản xuất mở rộng, của sự ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật; mặt khác sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển của sản
xuất tư bản chủ nghĩa tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản
cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là
những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự
nguyện hay sáp nhập các tư bản cá biệt. Tín dụng tư bản chủ nghĩa là phương tiện để tập
trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay các nhà tư bản.
Tích tụ và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô
và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh

hơn. Ngược lại, tập trung tư bản tạo ra tiền đề đẩy mạnh tích tụ.
Tích tụ và tập trung tư bản đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, nhưng tích tụ tư bản làm
tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời kìm tăng quy mô của tư bản xã hội còn tập trung tư
bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, mà không làm tăng quy mô của tư bản xã hội.
Như vậy, quá trình tích lũy tư bản gẳn với quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng
tăng, do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất xã hội hóa cao độ, làm cho
mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc thêm
+ Tích lũy tư bản dẫn đến cấu tạo hữu có tư bản tăng
17


Trong quá trình tích lũy tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy mô, mà còn không ngừng
biến đổi trong cấu tạo của nó.
- Về mặt hình thái hiện vật, mỗi tư bản đều bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao động để sử
dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động
sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
- Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia thành hai phần tư bản bất biến (c) và tư bản khả biến
(v). Tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và số lượng giá trị của tư bản khả biến cần
thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản. Cấu tạo giá trị phụ thuộc cấu tạo
kỹ thuật và giá của TLSX và HH - SLĐ
- Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ chặt chẽ với nhau, những sự thay
đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự thay đổi trong cấu tạo giá trị của tư
bản. Để biểu hiện mối quan hệ đó, C. Mác dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư bản quyết
định và phản ánh những sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
+ Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thường xuyên của tiến bộ khoa
học - công nghệ, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng, kéo theo sự tăng lên của cấu tạo
giá trị của tư bản, nên cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên của cấu
tạo hữu cơ của tư bản biểu hiện ở chỗ tư bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, còn tư bản
khả biến có thể tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm xuống một cách tương đối.

Sự giảm xuống một cách tương đối của lư bản khả biến cũng sẽ làm cho cầu về sức lao dộng
giảm một cách tương đối. Vì vậy, một số công nhân lâm vào tình trạng thất nghiệp.
+ Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản làm cho khối lượng tư liệu sản xuất tăng lên,
trong đó sự tăng lên của máy móc, thiết bị là điều kiện để tăng năng suất lao dộng, còn
nguyên liệu tăng theo năng suất lao động.
Như vậy, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên trong quá trình tích lũy chính là nguyên nhân
trực tiếp gây ra nạn thất nghiệp trong chủ nghĩa tư bản. Còn nguyên nhân sâu xa của nạn thất
nghiệp lại chính là ở quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Bần cùng hóa giai cấp công nhân
Tích luỹ tư bản đồng nghĩa với tích luỹ sự giàu sang về phía giai cấp tư sản và tích luỹ sự
nghèo khổ về phía giai cấp công nhân, nói cách khác, tích luỹ tư bản là quá trình bần cùng
hoá của giai cấp công nhân.
Bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối:
Bần cùng hóa tương đối: là sự giảm sút tỷ trọng thu nhập của giai cấp công nhân so với thu
nhập của các nhà tư bản (nói cách khác là sự chênh lệch thu nhập ngày càng lớn giữa giai cấp
tư sản và giai cấp công nhân).
18


Bần cùng hóa tuyệt đối: là sự giảm sút mức sống của công nhân xuống dưới mức sống tối
thiểu của xã hội. Tích luỹ tư bản càng diễn ra mạnh mẽ thì mâu thuẫn của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc.
Câu 11: Phân tích sự vận động của tư bản công nghiệp, từ đó rút ra khái niệm tuần
hoàn và chu chuyển của tư bản; vận dụng lý luận này vào hoạt động sản xuất kinh
doanh như thế nào?
*Sự vận động của tư bản công nghiệp:
Tư bản luôn vận động .Công thức vận động của tư bản là :
SLĐ
T–H


....SX...H’-T’
TLSX

Sự vận động của tư bản trải qua 3 giai đoạn tồn tại ở 3 hình thái củatư bản công nghiệp: tư
bản tiền tệ (T), tư bản sản xuất (SX), tư bản hàng hoá (H’) và thực hiện 3 chức năng.
-

Giai đoạn thứ nhất:
SLĐ

T-H
TLSX
Tư bản từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hàng hoá.Đây là hàng hoá yếu tố sản xuất
gồm sức lao động và tư liệu sản xuất. Chức năng giai đoạn này là mua các yếu tố sản xuất,
tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
H

Giai đoạn thứ 2:
SLĐ
TLSX

...SX....H’

Hàng hoá đã mua ở giai đoạn 1 được nhà tư bản sử dụng vào quá trình sản xuất, bằng việc
kết hợp SLĐ với TLSX.
Giai đoạn này có chức năng là sản xuất.Kết quả là tạo ra một hàng hoá mới (H’), khác với
hàng hoá mà nhà tư bản đã mua, cả về giá trị sử dụng và giá trị. H’= tư bản sản xuất hao phí
để sản xuất ra nó cộng với giá trị thặng dư (m).
19



-

Giai đoạn thứ 3 : H’ – T’

Nhà tư bản lại xuất hiện trên thị trường nhưng với tư cách là người bán hàng hoá.Đây là là
hoàng hoá “đầu ra”-H’.
Chức năng giai đoạn này là thực hiện giá trị hàng hoá.
Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá biến thành tư bản tiền tệ -> mục đích của nhà tư bản
được thực hiện. Tư bản quay trở lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó,nhưng với số
lượng lớn hơn trước.
Số tiền bán hàng hoá đoá, nhà tư bản lại đem dùng vào việc mua tư liệu sản xuất và sức lao
động cần thiết để tiếp tục sản xuất và toàn bộ quá trình trên được lặp lại.
*Từ toàn bộ quá trình vận động của tư bản đã được nêu ở trên-> Rút ra khái niệm Tuần hoàn
của tư bản : là sự vận động của tư bản trải qua 3 giai đoạn, lần lượt mang 3 hình thái, thực
hiện 3 chức năng rồi trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà con tăng
lên.
Tuần hoàn tư bản yêu cầu tuần hoàn phải diễn ra liên tục về thời gian, nhưng tách rời về
không gian
* Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn tư bản nếu xét nó là một quá trình định kì đổi mới, và
lặp đi lặp lại không ngừng. Chu chuyển tư bản phản ánh tốc độ vận động nhanh hay chậm
của tư bản cá biêt.
Thời gian chu chuyển của tư bản
Là thời gian từ khi nhà tư bản ứng tư bản ra dưới một hình thái nhất định cho đến khi thu về
cũng dưới hình thái ban đầu, có kèm theo giá trị thặng dư. Tuần hoàn của tư bản bao gồm quá
trình sản xuất và quá trình lưu thông nên thời gian chu chuyển cũng do thời gian sản xuất và
thời gian lưu thông cộng lại.

Thời gian sản xuất
Thời gian tư bản nằm trong giai đoạn sản xuất. Gồm : Thời gian lao động và thời gian dự trữ

sản xuất.
Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản
phẩm. Đây là thời gian có ích, vì nó tạo ra giá trị cho sản phẩm.
Thời gian gián đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động , dưới dạng bán thành phẩm
nằm trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không có sự tác động của lao động của tự nhiên. Thời
20


gian gián đoạn lao động xó thể xen kẽ hoặc tách ra thành thời kì riêng biệt với thời gian lao
động và nó thể rút ngắn, dài khác nhau.
Thời gian dự trữ sản xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua về và sẵn sàng thời
gian sản xuất, nhưng chưa thực sự được đưa vào quá trình sản xuất, còn ở dạng dự trữ. Đó là
điều kiện để quá trình sản xuất được liên tục. Trong ba thời gian trên thì chỉ có thời gian lao
động là tạo ra giá trị, nhưng thời gian dự trữ sản xuất và thời gian gián đoạn lao động là
không tránh khỏi, Vì vậy rút ngắn được thời gian này là điều kiện cơ bản để nâng cao hiệu
quả sản xuất của tư bản.
Thời gian lưu thông
Là thời gian tư bản nằm trong quá trình lưu thông. Thời gian lưu thông gồm thời gian mua
nguyên nhiên vật liệu và thời gian bán hàng hoá, kể cả thời gian vận chuyển.
Thời gian lưu thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : Tình hình thị trường, quan hệ cungcầu, giá cả trên thị trường, khoảng cách tới thị trường, trình độ phát triển giao thông vận
tải.....Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, không tạo ra giá trị
cho sản phẩm và giá trị thặng dư cho tư bản. Tuy nhiên, không thể thiếu sự tồn tại của nó, vì
đó là đầu vào và đầu ra của sản xuất. Rút ngắn được thời gian lưu thông sẽ làm rút ngắn thời
gian chu chuyển, làm cho quá trình sản xuất đựơc lặp lại nhanh hơn, làm tăng hiệu quả của
tuần hoàn tư bản. Ta có :
Thời gian lưu thông = Thời gian bán hàng + Thời gian mua hàng
Tốc độ chu chuyển tư bản
n = CH/ch
Ý nghĩa
1.Tư bản(vốn) trong lĩnh vực sản xuất phải vận động tuần hàon trải qua ba giai đoạn(hai gia

đoạn lưu thông và một gaíi đoạn sản xuất).
2. Để vốn quay vòng liên tục, cần phải chia vốn ra làm 3 bộ phận: tiền, sản xuất, hàng hoá,
cùng tồn tại trong không gian và mỗi bộ phận đó vận động liên tục theo thời gian.
3.Quay vòng vốn nhanh thì sẽ thu hồi vốn nhanh hơn và tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm
cao hơn.
4.Muốn quay vòng vốn nhanh thì phải tìm cách rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu
thông.
5.Quay vòng vốn nhanh sẽ giảm chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả kinh tế.
6.Sự vận động liên tục của tư bản (vốn) đòi hỏi phải có một khối lượng tiền đủ cho sự lưu
thông và sự hình thành vốn dự trữ.

21


Câu 12: Bản chất của lợi nhuận? nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp và lợi nhuận
ngân hàng? Từ những vấn đề đó bạn có nhận xết gì về quá trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa nói chung
- Chi phí lao động thực tế hàng hoá là G ta có: G = c + v + m
(1)
Chi phí sản xuất TBCN, ký hiệu bằng K.
K = c + v (2)
Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất TBCN, nên sau khi bán
hàng hóa, nhà tư bản thu được một khoản rôi ra so với chi phí sản xuất TBCN, khoản đó gọi
là lợi nhuận (ký hiệu p).
Khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận thì giá trị hàng hoá G = c + v + m được chuyển thành:
G = K + p = chi phí sản xuất TBCN + Lợi nhuận
Vậy: Lợi nhuận là số tiền thu được trội hơn so với chi phí sản xuất TBCN. Nó chính là
giá trị thặng dư khi được coi là con đẻ của tư bản ứng trước.
Tỷ suất lợi nhuận.
Khi giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng dư (m') chuyển

hoá thành tỷ suất lợi nhuận.
- Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và toàn bộ tư sản ứng
trước. Ký hiệu là P'.
m
p’=
x 100%
v
P
p’ =
x 100%
K
(p’) lại phản ánh mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản, nó chỉ cho các nhà tư bản thấy
đầu tư vào ngành nào có lợi hơn. Do đó (P') là mục tiêu cạnh tranh và là động lực thúc đẩy sự
hoạt động của các nhà tư bản.
Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả
sản xuất.
Cạnh tranh TBCN là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành
giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận tối
đa.
Cạnh tranh TBCN có hai loại: Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành
giá trị thị trường, và cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân.

22


Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh doanh trong
các ngành nghề sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Biện pháp cạnh tranh là di chuyển tư bản từ những ngành có (p’) thấp sang những
ngành có (p’) cao.

Kết quả dẫn tới sự phân bố lại các yếu tố sản xuất, làm thay đổi quan hệ cung cầu và giá cả
hàng hoá, dẫn tới (p’) của các ngành xấp xỉ nhau tức là (p’) bình quân.
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của tất cả các tỷ suất lợi nhuận
khác nhau. Hay là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản xã hội.
ký hiệu là p’. Tính theo công thức:
p'1 + p'2 + ..... pn

x 100 %
p' =
n
∑M

x 100 %
p' =

∑K
Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì ta tính được lợi nhuận bình quân của
từng ngành theo công thứcK:


P

=K.



P'

- Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau đầu tư vào
các ngành sản xuất khác nhau. Đó là lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được căn cứ vào tư

bản đầu tư, nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, không kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như
thế nào.
- Sự hình thành lợi nhuận bình quân làm cho quy luật giá trị thặng dư hoạt động trong
giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.
+ Lợi nhuận thương nghiệp:
Trong CNTB, Tư bản thương nghiệp là bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhiệm
khâu lưu thông hàng hoá phục vụ cho tư bản công nghiệp.
Tư bản thương nghiệp vận động theo công thức: T - H - T'
Tư bản thương nghiệp vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp, vừa có tính độc lập tương đối.
b. Lợi nhuận thương nghiệp.
- Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất
mà nhà tư bản công nghiệp nhượng cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bán
hàng hoá thay cho mình.
23


Thực chất, lợi nhuận thương nghiệp chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư nên
nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp chính là một bộ phận lao động của công nhân không
được trả công.
- Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp:Tư bản công nghiệp nhượng một phần giá trị thặng
dư cho tư bản thương nghiệp bằng cách bán hàng hoá thấp hơn giá trị của nó, để rồi tư bản
thương nghiệp bán hàng hoá theo đúng giá trị sẽ thu được khoản chêch lệch, đó là lợi nhuận
thương nghiệp.
Việc nhượng giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp cũng
diễn ra theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Nghĩa là, tư bản thương nghiệp cũng tham
gia vào cạnh tranh giữa các ngành để thu được lợi nhuận bình quân cho mình.
+ Lợi nhuận ngân hàng:
- Ngân hàng
+ Ngân hàng trong chủ nghĩa tư bản là xí nghiệp kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa
người đi vay và người cho vay.

+ Ngân hàng có hai nghiệp vụ: nhận gửi và cho vay.
Nghiệp vụ nhận gửi thu hút tiền vào quỹ; tạo nên nguồn vốn cho vay chủ yếu của ngân hàng.
Tiên gửi có hai loại: tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Trong nghiệp vụ nhận gửi,
ngân hàng trả lợi tức cho người gửi tiền.
Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng được thực hiện bằng nhiều cách: chiết khấu kỳ phiếu
thương nghiệp, cho vay có bảo đảm hay không bảo đảm. Ngân hàng có thể cho vay dưới các
hình thức: cho vay bằng tiền mặt, phát hành séc ngân hàng, mở tài khoản cho vay, phát hành
kỳ phiếu ngân hàng. Trong hoạt động cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay, về
nguyên tắc lợi tức cho vay phải cao hơn lợi tức nhận gửi.
+ Ngoài nghiệp vụ trung gian tín dụng, ngân hàng còn có các hoạt động kinh doanh khác như:
chuyển tiền, nghiệp vụ thu - chi hộ, nghiệp vụ ủy thác, nghiệp vụ mua bán hộ để thu hoa
hồng. Đặc biệt, ngân hàng hiện đại còn có một hoạt động rất quan trọng, đó là nghiệp vụ
chứng khoán, mua - bán các chứng khoán hay kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
- Lợi nhuận ngân hàng
+ Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi trừ đi những chi phí về nghiệp
vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh tư bản tiền tệ hình thành
nên lợi nhuận ngân hàng.

24


+ Tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng là tỷ lệ phần trăn giữa lợi nhuận ngân hàng thu được trong
một năm với tư bản tự có của ngân hàng. Trong cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận ngân hàng cũng
ngang bằng với tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Quá trình sản xuất TBCN là quá trình cả xã hội tư bản bắt tay bóc lột giai cấp công nhân,
Các hình thức tư ban phân chia m thu được thông qua hình thức biến tướng của m là p theo
quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân
Câu 13: Trình bày những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền và
biểu hiện mới của những đặc điểm đó ở chủ nghĩa tư bản độc quyền ngày nay.
1. Tích tụ, tập trung sản xuất và sự xuất hiện các tổ chức độc quyền

Tổ chức độc quyền: là sự liên minh giữa những nhà TB nắm phần lớn việc SX và
tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó, nhằm mục đích kiểm soát thị trường, nguồn
nguyên liệu để thu lợi nhuận độc quyền cao.
VD: Tổ chức độc quyền IBM của Mỹ sản xuất hơn 70% số máy tính điện tử của thế
giới TBCN.
Ở Đức, những xí nghiệp lớn chỉ chiếm 0,9% trong tổng số các xí nghiệp nhưng lại
chiếm 39,4% tổng số lao động; 75,3% sức hơi nước; 77,2% điện lực … các xí nghiệp này
chiếm phần lớn sản lượng hàng hóa làm ra của nước Đức.
Các tổ chức ĐQ ra đời, tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ một ngành (đơn ngành) hay nhiều ngành (đa ngành). Đó là
các hình thức sau:
b. Những hình thức độc quyền cơ bản
+ Liên kết ngang (đơn ngành)): Có các hình thức sau:
- Cácten: (Tiếng Pháp là Cartel có nghĩa là đồng minh hoặc hiệp định).
Là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà TB thông qua hình thức ký hiệp
nghị thoả thuận với nhau về giá cả, về kỳ hạn trả tiền, về phân chia thị trường tiêu thụ,
về sản lượng hàng hoá…
Đây là hình thức ĐQ mang tính sơ khai, đơn giản. Các nhà TB vẫn độc lập với nhau
trong việc SX và LT. Họ chỉ liên kết với nhau 1 hiệp nghị về thị trường tiêu thụ, giá bán hàng
hóa, giá mua nguyên vật liệu, …Vì vậy họ chưa gắn bó chặt chẽ với nhau, dễ dẫn đến tình
trạng các nhà TB không làm đúng ký kết và thường vi phạm hợp đồng. Do đó, hình thức này
dễ bị phá vỡ và thay vào đó là 1 tổ chức độc quyền cao hơn,
- X’anhđica: (Tiếng Pháp là Syndicat nghĩa là tổ hợp) Đây là hình thức phát triển
cao hơn, các nhà TB tham gia vào Xanhđica bầu ra một ban quan trị điều hành việc
mua bán, giá cả, thị trường.
Các xí nghiệp tham gia Xanhđica vẫn giữ độc lập về SX, chỉ mất độc lập về LT: mọi
việc mua - bán do một ban quản trị chung của Xanhđica đảm nhiệm. Mục đích của Xanhđica
là thống nhất đầu mối mua và bán để bán hàng với giá đắt và mua nguyên liệu với giá rẻ
25



×