Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Đánh Giá Hiện Trạng Môi Trường Nước Và Tính Bền Vững Của Khu Vực Nuôi Ngao Xã Đông Minh, Huyện Tiền Hải, Tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 97 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

BÙI XUÂN KHOA

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC
VÀ TÍNH BỀN VỮNG CỦA KHU VỰC NUÔI NGAO
XÃ ĐÔNG MINH, HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

Chuyên ngành:

Khoa học Môi trường

Mã số:

60 44 03 01

Người hướng dẫn:

PGS.TS. Ngô Thế Ân

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP - 2016
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
dùng để bảo vệ lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 16 tháng 3 năm 2016


Tác giả luận văn

Bùi Xuân Khoa

2


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn tới thầy Ngô Thế Ân đã tận tình
hướng dẫn chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài, thầy đã
dành rất nhiều thời gian, công sức giúp tôi hoàn thành đề tài tốt nghiệp của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Giám đốc, Ban Quản lý Đào
tạo, Bộ môn Sinh Thái Nông Nghiệp, Khoa Môi Trường - Học viện Nông nghiệp
Việt Nam đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ viên chức Trung tâm Quan
trắc Môi trường và bênh thuỷ sản Miền Bắc – Viện Ngiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I
đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi hoàn
thành luận văn.
Hà Nội, ngày 16 tháng 3 năm 2016
Tác giả luận văn

Bùi Xuân Khoa

3


MỤC LỤC


4


DANH MỤC BẢNG BIỂU

5


DANH MỤC HÌNH

6


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

7

Từ viết tắt

Nghĩa tiếng Việt

UBND

Ủy ban nhân dân

XK

Xuất Khẩu


NK

Nhập Khẩu

VASEP

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam

QCVN 1

Quy chuẩn quốc gia về chất lượng nước biển ven bờ

BS

Thước đo Bền vững

IUCN

Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế

XH-NV

Xã hội – Nhân văn

NTTS

Nuôi trồng Thuỷ sản

UBMTTQ


Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc

XDNTM

Mô hình Nông thôn Mới

HTX

Hợp tác xã

HTXDV

Hợp tác xã Dịch vụ

RIA1

Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I

NXB

Nhà xuất bản

ASI

Chỉ số ngư trại bền vững

ASIE

Giá trị của mảng phúc lợi sinh thái


ASIH

Giá trị của mảng phúc lợi xã hội và nhân văn


TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
Đông Minh là xã ven biển thuộc khu Đông huyện Tiền Hải, Tỉnh Thái Bình
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nuôi ngao, nhờ nuôi ngao mà nhiều
hộ nông dân trong xã đã giàu lên nhanh chóng, nhưng những năm gần đây, ngao
chiết hàng loạt khiển người dân xã Đông Minh phải điêu đứng, nhiều hộ dân đã
bỏ nghề vì rủi ro cao. Nghiên cứu này được tiến hành để đánh giá chất lượng
nước và tính bền vững tại khu vực nuôi ngao xã Đông Minh. Phương pháp chính
được sử dụng trong đề tài bao gồm các phương pháp lấy mẫu và phân tích nước
từ 6 điểm quan trắc trong khu nuôi ngao và tại các cửa cống thoát nước. Tính bền
vững được đánh giá theo phương pháp chỉ số ngư trại bền vững của IUCN
(1996). Kết quả phân tích cho thấy Ngao chết tại khu vực chủ yếu là do nhiệt độ
và độ mặn biến đổi kết hợp với một số thành phần môi trường (NO2-N, H2S, Tảo
Độc hại, Vibrio tổng số…) vượt quá ngưỡng cho phép. Theo kết quả tính chỉ số
ngư trại bền vững (ASI ) ở 23 ngư trại thì hầu hết các đầm đều có giá trị phúc lợi
XH-NV cao (trọng số từ 76 – 100), trong khi đó giá trị phúc lợi sinh thái chỉ ở
mức thấp (15 - 32). Những giá trị này khi đưa vào sơ đồ thước đo bền vững cho
kết quả 65% số ngư trại thuộc nhóm không bền vững, 35% thuộc nhóm kém bền
vững. Vì vậy, cần phải có các biện pháp quản lý chất lượng nước và các giải
pháp ứng phó nâng cao hiệu quả nuôi, đảm bảo sự phát triển bền vững cho địa
bàn nghiên cứu.

8


Thesis Abstract

Dong Minh is a coastal commune in the East of Tien Hai district, Thai
Binh province where was a favorable conditions for the development of clam
farming and thanks to clam culture, many farmers in this commune has become
rich quickly. However in recent years, there are many clams were died frequently
that makes people in there to be afflicted and many households have give up their
recent work because of high risks. This research was conducted to assess water
quality and sustainability in region of Dong Minh Commune. The main method
are used in this topic including sampling methods and water analysis from six
monitoring points in the clam areas and sewer manhole. Sustainability is evaluated
through Aquaculture Sustainable Index of IUCN (1996). The analytical results
showed that deaths of clamin this region mainly due to temperature and changein
the level of salinity combining with certain environmental components (NO2-N,
H2S, Harmful Algae, amount of Vibrio...) exceeds the allowed threshold and then
lead to death of clam. According to the results calculating from Aquaculture
Sustainable Index (ASI) in 23 “ngư trại” (in Vietnamese) in Dong Minh
province,most of the ponds havehigh socialwelfare (reach weights from 76 to
100)while ecological welfare is quite low (15-32). Moreover, when putting these
values into sustainable Barometer of Sustainability diagrams, the results are 65%
“ngư trại” in unsustainable group and 35% inless sustainable ones.
Therefore, we should have some measures to manage water quality and
response solutions to improve the efficiency of clam culture and ensure
sustainable development for research area.

9


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
2.11.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam là một trong những nước có lợi thế về biển với đường bờ kéo dài
tới 3.260 km và 1 triệu km2 vùng biển kinh tế đặc quyền. Nhận thức được tầm

quan trọng và lợi thế của mình, nước ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế biển.
Cùng với sức ép của tốc độ gia tăng dân số ngày càng nhanh, nhu cầu phát triển
kinh tế ngày càng cao trong bối cảnh các nguồn tài nguyên đất liền ngày càng
cạn kiệt, khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển và làm giàu từ biển đang rất
được chú trọng.
Thời gian gần đây người dân ở các tỉnh ven biển đang đẩy mạnh nuôi trồng
thủy hải sản trong đó nghề nuôi ngao ven biển nước ta đã có những bước phát
triển mạnh mẽ về diện tích, sản lượng nuôi cũng như mức độ thâm canh trong
những năm qua. Mặc dù nuôi ngao đã mang lại nguồn thu lớn, không chỉ góp
phần cải thiện sinh kế cho cộng đồng cư dân nghèo và thúc đẩy phát triển kinh tế
cho các địa phương vùng ven biển, nghề nuôi ngao đang gặp phải những khó
khăn trong một vài năm gần đây từ việc ngao nuôi bị chết hàng loạt, dịch bệnh
tăng và môi trường nuôi ngày càng xấu đi, tại một số địa phương như Thái Bình,
Nam Định, Thanh Hóa, Hà Tĩnh… Nhiều nông hộ gặp khó khăn về nguồn vốn để
tiếp tục đầu tư vào nuôi ngao sau nhiều lần nuôi bị thất bại, thị trường tiêu thụ
ngao thương phẩm không ổn định. Các vấn đề này đã và đang làm ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của nghề nuôi ngao ở nước ta.
Thái Bình là tỉnh đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng cận nhiệt đới ẩm,
có 5 cửa sông lớn đổ ra biển, tạo ra một vùng bãi triều rộng khoảng 25.000 ha rất
thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản mặn, lợ, trong đó có nuôi ngao.
Nhiều năm qua, nông dân vùng ven biển các huyện Tiền Hải, Thái Thụy đã đầu
tư nuôi ngao cho giá trị kinh tế hàng trăm tỷ đồng, góp phần xóa đói giảm nghèo,
làm giàu cho ngư dân vùng biển như ở xã Đông Minh thuộc huyện Tiền Hải.
Đông Minh là xã ven biển thuộc khu Đông huyện Tiền Hải, được thành lập
từ khoảng sau năm 1955 – 1956, có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề
nuôi ngao với 446 ha diện tích bãi triều nuôi ngao, điều kiện tự nhiên phù hợp
với đặc điểm sinh học của ngao. Nuôi ngao là một nghề cho thu nhập cao. Nhờ
nuôi ngao mà nhiều hộ nông dân trong xã đã giàu lên nhanh chóng, nhưng những
10



năm gần đây, ngao chiết hàng loạt khiển người dân xã Đông Minh phải điêu đứng.
Theo báo cáo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của xã (2014) do khí
hậu khắc nghiệt, môi trường nuôi ngao xấu đi dẫn đến hiện tượng ngao chết,
nguyên nhân chính dẫn đến việc ngao chết vẫn chưa được làm rõ. UBND xã đã
thống kê được thiệt hại và báo cáo với các ngành trức năng cần làm rõ nguyên
nhân và đề xuất các giải pháp thao gỡ khó khăn cho các hộ nuôi ngao. Theo tác
giả Đức Văn (2014) điều tra đầu tháng 8 năm 2014 tại xã Đông Minh ngao chết
hàng loạt thiệt hại từ 20 đến 30%, nơi cao thiệt hại từ 70 đến 90%, tổng sản lượng
thiệt hại lên đến 9.497,6 tấn, thiệt hại ước tính lên đến 108,1 tỷ đồng.
Để thấy được thực trạng phát triển của hoạt động sản xuất ngao tại xã Đông
Minh, tạo cơ sở xây dựng các giải pháp phát triển nghề nuôi ngao tốt hơn, góp
phần nâng cao sản lượng và chất lượng thủy sản, phục vụ sự phát triển ổn định
của nền kinh tế quốc dân tôi tiến hành đề tài “Đánh giá hiện trạng môi trường
nước và tính bền vững của khu vực nuôi ngao xã Đông Minh, huyện Tiền
Hải, tỉnh Thái Bình”.

2.2MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài này được tiến hành với các mục đích sau:
Đánh giá được chất lượng môi trường nước tại vùng nuôi ngao xã Đông
Minh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình và đánh giá được tính bền vững tại khu
vực xã Đông Minh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình thông qua chỉ số ngư trại bền
vững; Từ đó đề xuất được giải pháp giảm thiểu tác động xấu tới môi trường
nước, khắc phục và nâng cao hiệu quả kinh tế trong nuôi ngao.

1.2 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Khu vực nuôi ngao bãi triều xã Đông Minh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình

2.3 Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
- Đề tài có ý nghĩa khoa học là xây dựng được cơ sở dữ liệu tổng hợp về môi

trường nước phục vụ công tác đánh giá tác động môi trường cho địa bàn
nghiên cứu. Ngoài ra, đề tài cũng góp phần minh chứng thêm khả năng áp
dụng chỉ số ngư trại bền vững một cách linh hoạt trong đánh giá các đầm nuôi
ngao vùng nước lợ.

- Về mặt thực tiễn, đề tài này góp phần đề xuất các giải pháp quản lý môi
trường khu nuôi ngao, tạo cơ sở xây dựng kế hoạch chiến lược trong giảm
11


thiểu rủi ro, ổn định sinh kế người dân hướng tới phát triển bền vững cho địa
phương.

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.4TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ NGAO Ở TRÊN THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.4.1 Tình hình sản xuất ngao trên thế giới
Tình hình sản xuất và tiêu thụ năm 2014
Trần Xuân Điểm (2014) tổng hợp nhanh mặt hàng nhuyễn thể hai mảnh vỏ
tại một số nước như Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia… có sự
tăng trưởng khá về sản lượng, giá trị nhập khẩu cũng như xuất khẩu các mặt hàng
nhuyễn thể 2 mảnh vỏ (ngao, nghêu, sò, điệp…). Tuy nhiên tại một số nước khác
là Nhật Bản, Hàn Quốc, Chile… lại giảm số lượng và giá trị nhập khẩu các mặt
hàng này.
Trung Quốc : với 7,62 triệu ha nuôi trồng thủy sản đáp ứng nhu cầu của thị
trường thì Trung Quốc đã tập trung nuôi những loài có giá trị kinh tế cao như hà,
sò, ngao,… tính đến hết tháng 12/2013, Trong top 10 thị trường nhập khẩu nghêu
sò sống, tươi và ướp lạnh của thế giới giai đoạn này, Trung Quốc là thị trường
nổi bật nhất với tốc độ tăng trưởng nhâp khẩu lên đến 70,5% tương ứng giá trị
nhập khẩu đạt trên 12 triệu USD, nhập khẩu mặt hàng này vào Trung Quốc trong

năm 2013 đã tăng lên rõ rệt so với năm 2012. Giá trị nhập khẩu trong từng quý từ
đầu năm đều tăng trưởng khá cao, trong đó quý I tăng mạnh nhất 528%, tiếp đến
quý II tăng 398% và quý III tăng 35%, quý IV tăng 5% so với cùng kỳ năm 2012.
Xuất khẩu nghêu sò sống tươi và ướp lạnh của Trung Quốc giảm 3,9% về sản
lượng so với cùng kỳ 2012, đạt 94.418 tấn. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu mặt hàng
này lại tăng nhẹ 3,03% so năm với 2012 và đạt 151 triệu USD.
Indonesia: Với diện tích 7,7 triệu km2 trong đó có 5,8 triệu km2 là biển,
Năm 2014, Indonesia đặt mục tiêu đạt sản lượng 20,95 triệu tấn thủy sản với giá
trị xuất khẩu ước tính 5,65 tỷ USD so với 4,9 tỷ USD năm 2013 theo Kim Thu
(2014). Trong đó, thủy sản khai thác chiếm 6,08 triệu tấn và thủy sản nuôi là
13,97 triệu tấn. Để phát triển thì Indonesia đã thành lập các trung tâm phát triển
12


nuôi trồng ở các tỉnh và địa phương. Ngoài ra Indonesia còn có các viện nghiên
cứu quốc gia và nhiều trạm nghiên cứu khác về nuôi trồng thủy sản trong đó có
con ngao. Các trung tâm nghiên cứu và phát triển của Indonesia đã xây dựng và
phổ biến rộng rãi công nghệ kỹ thuật tới tận người nuôi thông qua việc đào tạo,
thông tin, trình diễn và giám sát. Nhờ các trung tâm, viện nghiên cứu chuyển
giao các kinh nghiệm và khoa học kỹ thuật, người dân nắm bắt và áp dụng vào
quá trình nuôi thả, nên nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi ngao nói riêng ở
Indonesia phát triển một cách bền vững, tránh được nhiều rủi ro do bệnh tật gây
nên và bảo vệ môi trường.
Chile : Tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng tính đến tháng 5/2015 đạt
358.200 tấn, Sản lượng thủy sản có vỏ đạt 156.600 tấn. Đầu năm 2016 Bộ Quốc
phòng Chile thông báo thủy triều đỏ đã làm hàng tấn ngao chết tại vùng biển
Grande de Cucao, thuộc quần đảo Chiloé Huyền Anh (2016). Các nhà khoa học
đưa ra do nguyên nhân cho mô hình thời tiết El Nino mạnh bất thường và nhiệt
độ mặt biển ấm lên do nước ấm kéo theo lượng tảo sinh ra lớn hơn. Với đường
bờ biển dài 4.000 km, Chile đặc biệt dễ chịu nhiều tổn hại từ tác động của các

hiện tượng trên.
2.1.2 Tình hình nuôi ngao ở Việt Nam
2.1.2.1 Tình hình sản xuất
Tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ theo Bùi Đắc Thuyết và cs. (2013), Thái
Bình có diện tích và sản lượng ngao nuôi lớn nhất miền Bắc và Bắc Trung Bộ
(1984ha, 30130 tấn), tiếp theo là các tỉnh Nam Định (1708ha, 20015 tấn), Thanh
Hóa (960ha, 7700 tấn), Quảng Ninh (1271ha, 5123 tấn) và thấp nhất là Hà Tĩnh
(200ha, 2800 tấn).
Hiện nay phần lớn các địa phương đều nuôi ngao Trắng hay ngao Bến Tre
(Meretrix lyrata). Một số hộ còn thả nuôi loài ngao Dầu (Meretrix meretrix), đặc
biệt là ở tỉnh Quảng Ninh với hầu hết các hộ nuôi hiện nay thả nuôi ngao Dầu.
Hiện nay, trạm khuyến nông huyện Vân Đồn, Quảng Ninh còn thả nuôi thử
nghiệm thêm loài ngao Hoa (Paphia undulate). Đây là đối tượng nuôi mới, có giá
trị kinh tế cao, thời gian nuôi ngắn và có khả năng thích ứng tốt với môi trường
vùng nuôi.Tuy nhiên, đối tượng này vẫn đang còn nuôi thử nghiệm và chưa được
nuôi đại trà tại các địa phương.

13


Do đặc điểm của nghề nuôi ngao ở miền Bắc và Bắc Trung bộ chủ yếu do
các nông hộ quản lý nên diện tích của các bãi nuôi ngao thường nhỏ. Trung bình
diện tích nuôi ngao của các hộ là 3,5ha. Các địa phương có số hộ nuôi ngao
nhiều như Nam Định, Thái Bình thì diện tích nuôi ngao rất bé. Diện tích nuôi
ngao ít thay đổi.
Theo Bùi Đắc Thuyết và cộng sự (2013), đa số các hộ nuôi ngao chỉ nuôi
tại 1 điểm nuôi, một số hộ đặc biệt nuôi tại 2 đến 3 điểm nuôi. Phần lớn các vây
nuôi ngao (67,5%) nằm ở vùng trung triều, 17,6% số vây nuôi nằm ở vùng cao
triều, 10,6% số vây nuôi nằm ở vùng hạ triều và 4,3% số vây nuôi nằm ở vùng
triều giới, luôn ngập nước. Hai tỉnh Thái Bình và Hà Tĩnh có số vây nuôi thuộc

vùng cao triều nhiều nhất (46% tại Thái Bình và 44% tại Hà Tĩnh).
Thời gian phơi bãi tại các vây nuôi thuộc vùng cao triều có thể kéo dài đến
14-15 tiếng/ngày. Như vậy, các vây nuôi ở vùng cao triều sẽ gặp khó khăn, đặc
biệt là vào mùa hè, thời gian phơi bãi quá dài, nắng nóng sẽ làm ảnh hưởng tới
ngao nuôi.
Một số tỉnh ở miền Nam như Cà Mau dù lượng ngao giống giảm hơn năm
trước nhưng vụ ngao giống vừa rồi, nhiều xã viên Hợp tác xã kiếm được hơn 20
triệu đồng từ việc cào và ương ngao, Hợp tác xã nuôi ngao Đất Mũi chịu trách
nhiệm quản lý, khai thác có hiệu quả bãi ngao rộng 3.000ha (từ kinh Ô Rô đến
Rạch Mũi, xã Đất Mũi). Trong đó, khoảng 600ha là vùng nuôi ngao thương
phẩm, diện tích còn lại để khai thác ngao giống, ngoài ra, hợp tác xã còn tổ chức
ương, bán ngao giống và bao tiêu nuôi ngao thương phẩm.
2.1.2.2 Tình hình xuất khẩu
Theo số liệu Ngọc Thuỷ (2016) tổng hợp, xuất khẩu (XK) nhuyễn thể hai
mảnh vỏ trong 11 tháng đầu năm 2015 đạt giá trị 74,75 triệu USD, giảm 0,5% so
với cùng kỳ năm 2014
EU là thị trường nhập khẩu (NK) nhuyễn thể hai mảnh vỏ hàng đầu từ
Việt Nam. 11 tháng đầu năm 2015, XK nhuyễn thể hai mảnh vỏ sang EU đạt
giá trị 47,95 triệu USD, giảm 6,9% so với cùng kỳ năm 2014. XK nhuyễn thể
hai mảnh vỏ sang EU có dấu hiệu giảm từ những tháng cuối năm 2014, trong
đó giảm chủ yếu ở nước NK nhiều nhất nhuyễn thể hai mảnh vỏ trong khối
EU là Bồ Đào Nha,

14


Nhật Bản là thị trường NK nhuyễn thể hai mảnh vỏ lớn thứ 2 sau EU,
chiếm 12,1% tỷ trọng. Tuy nhiên, Nhật Bản là thị trường có mức tăng trưởng NK
nhuyễn thể hai mảnh vỏ cao nhất trong 3 thị trường NK nhuyễn thể hai mảnh vỏ
hàng đầu của Việt Nam. Trong 11 tháng đầu năm 2015, Nhật Bản NK nhuyễn

thể hai mảnh vỏ từ Việt Nam đạt giá trị 9,06 triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ
năm 2014.
Theo tổng hợp Ngọc Thuỷ (2015) Mỹ là thị trường NK nhuyễn thể hai
mảnh vỏ lớn thứ 3 của Việt Nam
Bảng 2.1 Nhập khẩu ngao của Mỹ trong 8 tháng đầu năm 2015
Nước
Canada
Trung Quốc
Việt Nam
Chile
Hong Kong
Đài Loan
Ecuador
Indonesia
Italy
JAPAN
Mexico
Hà Lan
New Zealand
Panama
Peru
Philippines
Bồ Đào Nha
Hàn Quốc
Tây Ban Nha
Thái Lan
Tổng cộng

KL 2014


GT 2014

KL 2015

GT 2015

(kg)
1.773.134
9.564.121
1.309.986
450.878
0
129.575
6.326
695.179
2.420
7.106
408.366
119.166
305.192
6.095
33.296
19.710
1.670
2.050
3.472
948.202
15.785.944

(USD)

13.630.385
20.257.318
3.502.288
1.793.175
0
362.773
23.630
2.168.398
19.646
84.763
1.515.751
311.979
1.281.335
7.523
104.184
98.956
9.837
11.872
37.533
2.848.736
48.070.082

(kg)
2.268.652
10.464.959
1.212.593
533.798
375
70.283
0

554.841
1.474
9.420
213.236
202.530
278.941
7.789
4.837
0
2.563
3.214
2.279
484.288
16.316.072

(USD)
16.085.286
21.175.348
3.070.301
2.139.512
8.063
196.782
0
1.890.708
11.880
127.541
735.531
438.516
846.537
9.540

32.509
0
7.081
35.504
31.002
1.756.654
48.598.295

Nguồn: Vasep (2015)

Mặc dù xuất khẩu ngao của Việt Nam sang Mỹ giảm cả về khối lượng lẫn
giá trị nhưng giá trung bình xuất khẩu ngao của Việt Nam sang thị trường Mỹ lại
có xu hướng tăng.

15


Trong 9 thị trường NK hàng đầu nhuyễn thể hai mảnh vỏ, đáng chú ý nhất
là thị trường Trung Quốc và Hồng Kông. XK nhuyễn thể hai mảnh vỏ sang thị
trường này trong 11 tháng đầu năm 2015 đạt giá trị 1,35 triệu USD, tăng 97,1%
so với cùng kỳ năm 2014. XK sang thị trường này tăng trưởng mạnh từ đầu năm
đến khoảng gần cuối quý 3, sang đến quý 4 XK lại có xu hướng sụt giảm.

2.5 ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ KỸ THUẬT TRONG NUÔI NGAO
2.5.1 Giới thiệu chung vế họ ngao
Ngao là tên gọi dùng để chỉ các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ
(nhuyễn thể) thuộc họVeneridae chuyên sống ở vùng nước ven biển có độ mặn
cao, nhiều đất cát sỏi, phân bố khá phổ biến ở vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt
đới. Cao Thị Nga (2012) họ ngao có 40 loài thuộc 7 nhóm giống phân bố dọc bờ
biển từ Bắc vào Nam.Vùng ven biển phía Bắc có ngao dầu, ngao mật, vùng ven biển

phía Nam có Nghêu. Ngao và Nghêu là nhóm nhuyễn thể có tiềm năng lớn ở vùng
triều nước ta, kỹ thuật nuôi không phức tạp, chu kỳ nuôi ngắn, đầu tư ít lại có giá trị
xuất khẩu. Nuôi Ngao, Nghêu (sau đây gọi tắt là ngao) còn là biện pháp tích cực bảo
vệ nguồn lợi này và làm sạch môi trường đáy vùng triều.
Ngao phân bố trên các bãi triều, trong các eo vịnh có đáy là cát pha bùn (cát
chiếm 70-80%), sóng gió nhẹ, có lượng nước ngọt nhất định chảy vào. Nếu đáy
nhiều bùn, ngao dễ bị chết ngạt, nếu đáy cát (100%) ngao bị khô nóng.
Ngao là loài nhuyễn thể sống rộng nhiệt, thích nghi được nhiệt độ từ 5 đến
35 C, ở khoảng 18-300C ngao sinh trưởng tốt nhất. Giới hạn chịu nhiệt của ngao
là 430C, ngao chết 50% ở nhiệt độ 44 0C và chết toàn bộ ở nhiệt độ 45 0C, ở nhiệt
độ -2 đến -30C, ngao chỉ chết khoảng 10% trong 3 tuần.
0

2.5.2 Đặc điểm sinh học của ngao
Ngô Trọng Lư (1996) Ngao là loài sống đáy, chân phát triển để đào cát
vùi mình xuống dưới, để hô hấp và kiếm mồi, ngao thò vòi nước lên mặt bãi tạo
thành một lỗ hình bầu dục (từ lỗ này biết được chỗ ở của ngao), tuy nhiên do vòi
rất ngắn nên ngao không thể chui sâu vào cát mà thước nằm sâu dưới mặt cát vài
cm, khi trời lạnh, ngao chui xuống sâu hơn, song không quá 10 cm.
Trong quá trình sinh trưởng khi gặp môi trường không thích hợp, ngao
thường di chuyển đến vùng bãi khác bằng cách tiết ra một túi nhầy hoặc một giải

16


chất nhầy làm giảm nhẹ tỷ trọng cơ thể và nổi lên trong nước theo dòng triều di
chuyển đi nơi khác.
Ngao là loài ăn lọc, phương thức bắt mồi bị động, khi triều lên ngao thò
vòi lên mặt cát hút nước để lọc mồi ăn, thức ăn của ngao chủ yếu là các loại Tảo,
các mảnh vụn và chất vẩn cặn hữu cơ trong nước. Ngao ăn mạnh vào khoảng từ

tháng 2 đến tháng 5, các tháng mùa lũ và sau lũ, ngao ngậm vỏ không ăn trong
một thời gian dài, ngao có độ béo cao nhất vào tháng 4-6, thấp nhất vào tháng
10-12.
Ngao là loài phân tính đực, cái riêng, mùa đẻ của ngao là hè - thu, ngao 1
năm tuổi đã sinh sản tốt, ngao đẻ từng đợt cách nhau nửa tháng, có khi một
tháng, mỗi đợt kéo dài khoảng 1 giờ.
Trong điều kiện thuận lợi, từ trứng đến ngao “cám” (25.000 con/kg) là 2
tháng, từ ngao “cám” đến ngao “tấm” (loại 10.000 con/kg) 2 tháng, từ ngao
“tấm” đến ngao “cúc” (loại 800-1.000con/kg) là 3 - 5 tháng trở thành ngao giống
đạt tiêu chuẩn chuyển sang nuôi thương phẩm, từ ngao giống đến ngao thịt (cỡ
50 con/kg) qua 10-11 tháng nữa, ngao lớn nhanh vào tháng 4 - 9 và thời gian đầu,
sau đó chậm dần.

2.5.3 Các yếu tố kỹ thuật nuôi Ngao
Trong nuôi ngao các yếu tố kỹ thuật lựa chọn giống đóng vai trò quan trọng
quết định thắng lợi vụ nuôi. Trong tài liệu tập huấn kỹ thuật nuôi ngao (2015)
Trung tâm khuyến nông khuyến ngư quốc gia hướng dẫn khai thác giống ngao :
Khai thác giống tự nhiên
Ngao giống sau khi hình thành vỏ rơi xuống đáy phân bố ở các triền sông
và bị dòng triều cuốn ra phân bố trên dải cát thấp dọc bờ biển, ngao sinh sản vào
đầu mùa mưa (khoảng tháng 4) đến tháng 5 sẽ thành ngao “ cám” nhỏ bằng nửa
hạt gạo (1mm), có thể khai thác giống đưa vào bãi ương. Thời gian khai thác
trong các tháng 5, 6, 7.
Phương pháp khai thác giống bằng cào lưới thủ công với mặt lưới thích hợp
để thu bặt ngao “cám”: dùng cào gắn lưới nạo sâu xuống mặt cát khoảng 2-3 cm,
cát lọt qua lưới, giống được giữ lại bên trong lưới, ngao giống thu được sẽ đồng
đều, ương nuôi đạt hiệu quả và chất lượng cao. Giống được đóng trong bao thấm
nước, không quá 10kg/bao, nên vận chuyển vào ban đêm bằng phương tiện thuỷ,
tránh mưa, thời gian từ lúc thu giống đến khi thả ương không quá 12-16 giờ.
17



Lựa chọn bãi giống
Bãi giống được lựa chọn ngoài việc dựa trên các kinh nghiệm, còn có thể
lựa chọn bãi giống theo các điều kiện sau:
Bãi giống có thể là bãi ngao trưởng thành hoặc gần bãi ngao trưởng thành.
Đáy là cát bùn (trong đó cát chiếm 70 – 80%). Nước triều lên xuống đều,
không phơi đáy quá 4 giờ/ngày, độ mặn trung bình từ 15 - 25‰, có lượng nước
ngọt nhất định đổ vào. Bãi có độ sâu nhất định trong toàn vùng bãi triều, có thể là
vùng nước quẩn: ấu trùng ngao trong giai đoạn sống phù du chịu ảnh hưởng rất lớn
của dòng chảy, thông thường theo chiều của dòng thuỷ triều, ấu trùng thường bị cuốn
đi xa so với bãi đẻ, đó chính là lý do khi thấy con giống tập trung theo bãi.
Ngoài ra, còn có thể lựa chọn bãi giống tại một vị trí nhất định, có bờ chắn
lũ, đắp các bờ có bề rộng từ 30 – 40cm, cao 40cm song song với bờ chắn lũ, chia
các ngăn thành từng ô nhỏ, có thể dùng lưới hoặc cây gỗ để làm giảm lưu tốc
nước của thủy triều. Đối với các bãi giống đã được lựa chọn cần có biện pháp
quản lý thích hợp như thường xuyên kiểm tra bờ bãi, chống nóng, không cho
người đi vào.
Phương pháp thu con giống.
Có thể chia làm 2 phương pháp thu con giống như sau:

- Phương pháp lấy giống khô
Khi nước triều rút cạn, dùng cào cào cả cát và giống tập trung vào giữa
các ô nhỏ đã được chia, trong trường hợp ngao giống vùi sâu có thể cào tiếp lần
nữa vào kỳ nước triều rút lần tiếp theo. Đào một hố nhỏ sâu 20cm, chiều dài 3m
và chiều rộng khoảng 2m ngay bên cạnh ô giống, khi nước triều lên, ngao giống
sẽ tập trung lên bề mặt trên để lọc thức ăn, dùng sàng hoặc rổ có cỡ mắt sàng
thích hợp rửa sạch cát ở nơi hố đào bên cạnh.
Trong trường hợp mặt bãi khô, dùng cào 4 răng lật cả cát và ngao giống
lên, cho ít nước vào đánh tan thành bùn, đợi ngao giống bò lên mặt bùn rồi thu

con giống.

-

Phương pháp thu giống nước nông

Khi nước triều cạn, dùng cào ngao cào cả cát và con giống tập trung ở
giữa bãi thành một đống hình tròn có đường kính khoảng 6m. Sau đợt triều rút
lần sau dùng cào phân ở giữa bãi giống đã tập trung thành một ô trống có đường
18


kính 3 m, sâu 30 cm, trong đợt triều lần sau, khi nước triều rút chỉ còn khoảng 1
m, dùng chân đạp nước xung quanh bãi giống, ngao giống kiếm ăn ở mặt ngoài
quanh đống giống do bị dòng nước kích thích sẽ tập trung ở ô trống ở giữa, dùng
sọt tre để với giống, khi nước triều còn rất thấp, tiếp tục dùng tay vỗ nước quanh
đống giống để ngao giống tập trung tiếp vào ô trống ở giữa để vớt con giống
lên thuyền.
Kỹ thuật nuôi ngao thịt.

- Chọn bãi nuôi: Bãi nuôi có nền đáy là cát bùn hoặc cát - cát bùn, hơi
xốp,tương đối bằng phẳng, ít dốc ở vùng trung và hạ triều. Bãi nuôi thường
được chọn ở những bãi triều gần cửa sông, bằng phẳng, độ dốc thấp và ít sóng
gió. Khi chọn điểm cần chú ý đến một số nhân tố sau:
Độ cao mặt bãi: bãi nuôi chọn ở tuyến trung và hạ triều. Nếu nuôi ở những
bãi có cao trình tương đối cao (thời gian phơi bãi hơn 6 giờ/ngày). Nghêu sẽ sinh
trưởng chậm, tỉ lệ chết sẽ cao, nhưng nếu nuôi ở bãi triều quá thấp thì Ngao,
Nghêu dể bị địch hại tấn công và khó quản lý.
Chất đáy: chất đáy tốt nhất cho Ngao, Nghêu là cát bùn, cát chiếm 70-90%.
Nồng độ muối: nồng độ muối thích hợp cho nuôi Ngao, Nghêu là từ 1530%o. Cần tránh những nơi có dòng nước ngọt đổ ra trực tiếp.

Chất thải: cần tránh những nơi bỉ ảnh hưởng của chất thải, chất độc do
sinh hoạt, nông nghiệp hay công nghiệp (thuốc trừ sâu, hóa chất, dầu khí...).
Ngoài ra cần chú ý đến yếu tố dinh dưỡng và các yếu tố môi trường khác
(vật chất hữu cơ, muối dinh dưỡng , yếu tố thủy lý hóa...).

- Sau khi chọn bãi phải làm vệ sinh mặt bãi. Rào chắn xung quanh bằng đăng
hay lưới để giữ Ngao, Nghêu di chuyển ra khỏi bãi nuôi nhất là bãi ương
giống. Khi chuẩn bị bãi xong thì tiến hành thả giống.
Trước khi thả giống dùng cọc tre (gỗ) cắm xung quanh vùng nuôi khoảng
cách 4 đến 6 m/cọc căng lưới có chiều cao 0,6 - 0,7 m trên mặt bãi và vùi sâu 0,2
đến 0,3 m dưới bãi để bảo vệ ngao giống. Mắt lưới tuỳ thuộc vào cỡ giống trước
khi thả và sau 2 đến 3 tháng, ngao phát triển ổn định có thể thu hoặc vùi lưới
xuống mặt cát, căng dây cuối đường triều rút để giữ ngao không cho di chuyển ra
khỏi vây nuôi.

19


Nuôi ngao thịt có nhiều giai đoạn: sau giai đoạn thu ngao “ cám” tự nhiên
ương nuôi 2 đến 3 tháng thành ngao “ tấm” (giai đoạn 1) được người nuôi mua
hoặc thu bắt từ bãi ương ra thả ở vây nuôi ngao thịt sau 4 - 5 tháng thành ngao “
cúc” (giai đoạn 2) đạt khối lượng 800 - 1.000 con/kg thì san thả xuống vùng bãi
sâu hơn và mật độ thả thưa hơn (giai đoạn 3), sau 10 - 12 tháng thành ngao thịt
có khối lượng 30 - 60 con/kg là thu hoạch.
- Chọn giống và mật độ thả: Không thả giống đã bị há vỏ và có mùi ươn, loại
giống đạt 800 - 1.000 con/kg thả 3.500 - 3.600kg/ha, loại đạt 3.000 4.000 con/kg thả 900 đến 1.000 kg/ha.
- Thời gian thả giống khoảng tháng 1, 2 và tháng 11, 12.
-

Chăm sóc và quản lý: công việc chủ yếu là kiểm tra hệ thống lưới,

dây bảo vệ để sửa chữa kịp thời và cào vén, san thưa. Việc cào vén,
san thưa rất quan trọng khi phát hiện ngao tập trung mật độ cao dọc
theo rìa lưới chắn hoặc một vùng nào đó trong vây nuôi, tuy nhiên
chỉ thực hiện khi cần thiết. Khi chuyển mùa, nhiệt độ cao, mưa
nhiều, có sương muối phải kiểm tra tình trạng sức khoẻ của ngao
nuôi.

Thu hoạch và bảo quản: thu hoạch ngao có thể quanh năm, song vào mùa
xuân, mùa thu dễ bảo quản, dùng phương pháp xới lật ngao lên lưới và xối nước
thu ngao. Sản phẩm thu hoạch cần đóng bao ngay, giữ ở nơi râm mát, tránh bị
nắng, mưa trước khi đưa đi tiêu thụ phải nuôi lưu, loại bỏ những con mở vỏ, có
mùi ươn để đảm bảo chất lượng thương phẩm.

2.5.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi ngao theo Lương Thị Khuyến
(2014) gồm yếu tố tự nhiên và yếu tố kinh tế - xã hội.
2.2.4.1 Yếu tố tự nhiên

a) Khí hậu
Bao gồm các chỉ số về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, là những yếu tố rất
quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể của ngao và có ảnh hưởng lớn đến
quá thình phát triển của ngao.

b) Thủy văn
20


Nguồn nước là một trong những điều kiện thiết yếu cho nuôi ngao, nguồn
nước đủ và không có biến động lớn là điều kiện lý tưởng cho nuôi ngao.


c) Thổ nhưỡng, môi trường
Điều kiện về thổ nhưỡng và môi trường là những điều kiện cơ bản cho
nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi ngao nói riêng. Bao gồm các chỉ số về
thành phần cơ học, thành phần hóa học các thủy vực, thủy sinh vật.

d) Giống
Ngày nay do sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sinh sản
nhân tạo, thuần hóa giống nên nguồn thủy sản tự nhiên đã giảm đi phần nào vai
trò của nó. Nuôi ngao cũng không nằm ngoài sự phát triển của khoa học kỹ thuật
về tạo giống.
2.2.4.2 Yếu tố kinh tế - xã hội

a) Vốn đầu tư
Vốn là biểu hiện bằng giá trị của tài sản bao gồm máy móc, thiết bị,
phương tiện vận tải, nhà kho và cơ sở hạ tầng kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, có
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Ngày nay vốn đầu tư và vốn sản xuất
được coi là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất, vốn không chỉ là cơ sở để
tăng năng lực sản xuất mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học
công nghệ góp phần đáng kể vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động khi chủ hộ mở rộng quy mô sản xuất.
Năng suất, chất lượng của ngao phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của bãi
nuôi, điều này chỉ có thể thực hiện được khi người nuôi ngao đủ vốn để thực hiện
cải tạo bãi nuôi sao cho phù hợp với đặc điểm sinh sống của ngao. Vì vậy để duy
trì được hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao được hiệu quả kinh tế trong các
ngành sản xuất nói chung và ngành nuôi ngao nói riêng thì yếu tố vốn không thể
thiếu được trong mỗi hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.

b) Thị trường
Là yếu tố quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, cho cả yếu tố đầu
vào và sản phẩm đầu ra của sản xuất, tuy nhiên đối với nuôi ngao thì thị trường

tiêu thụ đóng vai trò quyết định.thị trường tiêu thụ sản phẩm quyết đinh quy mô
cơ cấu thủy sản nuôi trồng. Người sản xuất nuôi trồng thủy sản luôn căn cứ vào
giá cải cà nhu cầu của thị trường để điều chỉnh hành vi sản xuất kinh doanh và
21


nuôi trồng thủy sản cho phù hợp nhằm hạn chế tối đa rủi ro do tác động của thị
trường. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm kiếm, tiếp cận thị trường và xúc tiến thương
mại cho sản phẩm thủy sản luôn là đòi hỏi mà những nhà kinh doanh nuôi trồng
thủy sản phải quan tâm.

c) Công nghệ và kỹ thuật tiên tiến
Bao gồm các khâu từ chuẩn bị sản xuất tới bảo quản và chế biến, vận
chuyển và tiêu thụ sản phẩm., đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả
sản xuất, nó ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng, chất lương và giá thành cũng như
giá bán sản phẩm mới.

d) Chính sách
Đây là yếu tố tác động không nhỏ tới quy mô cũng như chất lượng của
ngành nuôi trồng thủy sản. Nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào nhiều chính sách
khác nhau nhưng quan trọng nhất là chính sách đất đai, đồng thời để phát triển
nuôi trồng thì phải kết hợp với cách chính sách tìn dụng đấu tư, chính sách vảo
hiểm… Vì vậy đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách luôn là vấn đề mà
người nuôi trồng thủy sản đòi hỏi đối với các cấp các ngànhvà địa phương.
e) Lao động
Số lượng và chất lượng lao động là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến quá
trình phát triển nuôi trồng thủy sản, lao động trong nuôi trồng thủy sản đòi hỏi
phải am hiểu về kỹ thuật nuôi trồng hoặc đã có kinh nghiệm trong vệc nuôi trồng
loại thủy sản mà mình đang nuôi. Do đặc điểm của nuôi trồng thủy sản mà trong
đề tài là nuôi ngao chủ yếu là đơn vị kinh tế hộ nên lao động chủ yếu là nông

dân, vì vậy công tác đào tạo, huấn luyện phát triển nguồn lao động cho nuôi
trồng ngao là vấn đề cần đặc biệt quan tâm.

2.5.5 Các nghiên cứu về bệnh ngao.
2.2.5.1 Các nghiên cứu của thế giới
a) Bệnh do tác nhân là vi khuẩn
Do đặc tính ăn lọc nên nhiều loại vi khuẩn phổ biến trong nước biển đã
được tìm thấy trong cơ thể của động vật thân mềm, như vi khuẩn thuộc giống
Vibrio, Pseudomonas, Flavobacterium và Bacillus (Kinnee, 1983). Vi khuẩn
thường xâm nhập làm những cơ quan của động vật 2 mảnh vỏ bị tổn thương và
22


gây chết.
Bệnh vòng nâu ở động vật 2 mảnh vỏ (Brown Ring Disease-BRD).
Bệnh BRD đã được biết do vi khuẩn gây ra với các dấu hiệu bệnh lý đặc
trưng là xuất hiện một vòng sắc tố màu nâu đọng lại ở phần màng áo của ngao
bệnh (Paillard et al., 1989) , do đó bệnh này đã được đặt tên là bệnh BRD

Hình 2.1: Phân chia giai đoạn phát triển của bệnh BRD bằng mắt thường
và bằng kính hiển vi theo đề nghị của Paillard and Maes (1994)

b) Bệnh do tác nhân là ký sinh trùng
Bệnh Perkinsus: gây ra bởi hai loài động vật đơn bào nội ký sinh là
Perkinsus marinuss và Perkinsus olseni, được thông báo đầu tiên ở Vịnh Mexico.
Ký sinh trùng pekinsus đã được xác định là tác nhân gây bệnh ở nhiều loài 2
mảnh vỏ: ngao, hầu, sò và bào ngư nuôi ở các vùng khác nhau trên thế giới. Có
khoảng 50 loài động vật thân mềm khác nhau đã được phát hiện có cảm nhiễm
ký sinh trùng Perkinsus spp, nhưng ở một số vật chủ, ký sinh trùng này đã không
phát thành bệnh như: sò (Arca), trai ngọc (Pinctada).


c) Bệnh do tác nhân gây bệnh là virus:
Lo (1988,1990) đã phát hiện một loại viruss gây hoại tử tuyến tuỵ ở ngao
Meretrix lusoria. Virus này đã được có tên viết tắt là IPNV (Infectious Pancreatic
Necrossis Virus).
Lựa chọn con giống tốt, không mang virus được coi là giải pháp tối ưu để
hạn chế bệnh virus này ở ngao. Những trại giống ứng dụng công nghệ khép
kín có thể đảm bảo sản xuất giống ngao không mang virus này để cung cấp
cho các vùng nuôi.
d) Bệnh do các yếu tố môi trường
23


Những năm gần đây, một số thông tin khoa học ghi nhận về sự ảnh hưởng
của các chỉ số môi trường lên sức khoẻ và tỷ lệ sống của ngao nuôi. Tomaru &
CS., (2002) cho rằng nhiệt độ nước đã ảnh hưởng tơi sinh trưởng về chiều cao,
rộng và dày của ngao nuôi, đã thông báo rằng khi các yếu tố môi trường nước tại
vùng nuôi vượt quá ngưỡng thích hợp của động vật thân mềm thì bệnh sẽ xuất
hiện với tần xuất cao. Thực tế cho thấy, kèm theo một số hiện tượng ô nhiễm môi
trường như: sự cố tràn dầu, ô nhiễm thuốc trừ sâu hoặc kim loại nặng là hiện
tượng ngao nuôi bị chết hàng loạt
2.2.5.2 Các nghiên cứu về bệnh ngao của Việt Nam
Bên cạnh những thành công của nghề nuôi ngao, đã mang lại hiệu quả kinh
tế và xã hội cho các địa phương ở Việt Nam như: Quảng Ninh, Thái Bình, Hải
Phòng, Bến Tre,... thì những năm gần đây hiện tượng ngao chết rải rác hoặc hàng
loạt xuất hiện ở nhiều nơi, gây hoang mang cho người dân và các nhà quản lý ở
các địa phương.
Theo thông báo của UBND xã Đông Minh, huyện, Tiền Hải, tỉnh Thái Bình
năm 2009, hàng trăm tấn ngao sắp thu hoạch đã bị chết đột ngột trong 2 ngày ở
135 ha trên tổng số 250 ha ngao nuôi tại xã Đông Minh, Tiền Hải, Thái Bình.

Hiện tượng ngao chết này đã gây thiệt hại khoảng 100 tỷ đồng cho người nuôi
ngao tại địa phương. Những nghiên cứu ban đầu cho thấy thời điểm ngao chết
trùng với thời tiết nắng nóng và độ mặn của nước tăng cao.Tuy nhiên, nguyên
nhân làm ngao bị chết vẫn chưa được xác định.
Tại Tiền Giang vào đầu năm 2010, người nuôi ngao đã bị thiệt hại nặng nề,
gây thất thoát 259,62 tỷ đồng do hiện tượng ngao nuôi bị chết, ước tính có tới
70% diện tích nuôi ngao tại địa phương đã bị thiệt hại (927 ha) và làm chết
khoảng 11.925 tấn ngao nuôi tại địa phương theo tác giả Trí Quang (2010). Các
mẫu ngao bị chết tại Tiền Giang đã được thu và phân tích tại phân viện thuỷ sản
Minh Hải, tại đó ký sinh trùng Perkinsus sp được nghi ngờ. Hiện tượng ngao
nuôi bị chết có nhiễm ký sinh trùng Perkinsus sp cũng đã được phát hiện ở vùng
nuôi ngao của tỉnh Bến Tre.
Ngoài ra, nghiên cứu của Phạm Kim Phượng (2007) đã chỉ ra rằng, ngao
nuôi có thể bị chết nếu hàm lượng các kim loại nặng trong nước cao. Cụ thể khi
nồng độ cadimium ≥ 0,1 ppm thì ngao nuôi có thể chết
Trong khi đó, các công trình nghiên cứu về bệnh ngao ở Việt Nam còn rất
24


hạn chế, một số công trình nghiên cứu ngao nuôi ở Miền Nam nhưng chỉ là các
chuyên đề nghiên cứu nhỏ.
2.6 CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC TRONG NUÔI TRỒNG THUỶ
SẢN

2.6.1 Chất lượng môi trường nước trong nuôi trồng thủy sản
Chất lượng môi trường nước trong nuôi trồng thuỷ sản là yếu tố quan trọng
và quyết định đến sự thành công trong nuôi trồng thuỷ sản, trong đó nghề nuôi
ngao ven biển ở Việt Nam.
Hiện nay nghề nuôi ngao ven biển đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn, làm hồi
sinh nhiều vùng đất ven biển vốn bị bỏ hoang bấy lâu nay,tạo việc làm và thu

nhập ổn định cho một bộ phận cư dân nghèo sinh sống ở ven biển, góp phần xóa
đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà
hiện nay nghề nuôi ngao ở nước ta đang đứng trước rất nhiều thử thách: Nguy cơ
tàn phá và ô nhiễm môi trường nước dẫn tới hiện tượng ngao nuôi bị chết hàng
loạt gây thiệt hại lớn cho người nuôi.
Huỳnh Minh Sang (2011) đã thực hiện “Nghiên cứu xác định nguyên nhân
gây chết ngao Meretrix lyrata, sò huyết Andara granosa và đề xuất các giải pháp
khắc phục để phát triển bền vững nghề nuôi ngao và sò huyết ở Bến Tre”. Kết
quả đề tài xác định nguyên nhân gây chết ngao hàng loạt là do: nhiệt độ nước
cao, thời gian phơi bãi dài, kết hợp với độ mặn cao, là điều kiện tốt kích thích
cho ngao sinh sản. Khi ngao sinh sản, sức khỏe ngao yếu đi, trong điều kiện mật
độ tương đối cao, ngao không thể vùi xuống đáy để tránh sự thiêu đốt của mặt
trời và chết. Khi ngao chết bị phân hủy và sinh ra sản phẩm độc hại (chủ yếu
H2S). Khí độc này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của ngao khác và tăng thêm mức
độ chết.
Để góp phần tìm ra được những giải pháp tối ưu cho nghề nuôi ngao phát
triển bền vững, nhiệm vụ “Nghiên cứu biện pháp phòng bệnh cho ngao nuôi ở
miền Bắc Việt Nam” do Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản I đã được thực
hiện trong năm 2011. Trong đó, báo cáo chuyên đề “Đánh giá hiện trạng môi
trường một số vùng nuôi ngao miền Bắc Việt Nam” do Nguyễn Đức Bình và
cộng sự (2011) thực hiện đã nêu ra: độ mặn một số vùng nuôi có sự biến động
lớn nhưng sự biến động này không nằm ngoài quy luật tự nhiên của vùng triều
cửa sông.
25


×