Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐẢNG bộ TỈNH ĐỒNG NAI LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN mới từ năm 2008 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.53 KB, 95 trang )

“Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm
2008 đến năm 2015”
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề lớn, có tầm
quan trọng hàng đầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Xây dựng nông thôn
mới là giải pháp chủ yếu, quan trọng và có tính chiến lược nhằm thực hiện
thắng lợi Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn. Xây dựng nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế xã hội, mà còn là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp, giúp cho nông dân có
niềm tin, tích cực, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau xây dựng quê hương phát triển
giàu đẹp, dân chủ, văn minh. Đây là một chương trình lớn có tính tổng thể,
toàn diện và lâu dài nhằm đáp ứng nguyện vọng bao đời của nông dân, là
cuộc vận động đòi hỏi phải có sự nỗ lực, tham gia tích cực của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc cải
tạo, xây dựng nông thôn theo các tiêu chí mới hướng đến hiện đại, văn minh,
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và phát triển bền vững.
Đồng Nai là một tỉnh nằm ở trung tâm vùng Đông Nam Bộ, thực hiện chủ
trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng NTM, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã
nhận thức rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ, có nhiều nỗ lực, vận dụng sáng
tạo, triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương và đạt được nhiều kết quả có
ý nghĩa to lớn, tạo tiền đề vững chắc đưa Đồng Nai hòa nhập vào sự phát triển
chung của cả nước. Đến nay, bộ mặt nông thôn, đời sống nhân dân và tình
hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật,
“Tỉnh đã có 03 đơn vị cấp huyện (huyện Xuân Lộc, Thống Nhất, thị xã Long
Khánh) và 91/133 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 68,42%/ tổng số xã),
22/133 xã đạt từ 15 -18 tiêu chí (chiếm 16,54%), 20/133 xã đạt từ 10 -14 tiêu

2


chí (chiếm 15,04%)” [90, tr.20]. Tình hình nông nghiệp, nông dân, nông thôn


đã có nhiều chuyển biến tích cực, rõ nét, đó là: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
chuyển dịch đúng hướng, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân ngành nông
nghiệp giai đoạn 2008 - 2015 đạt mức khá cao (4,74%). Đời sống vật chất,
tinh thần của đa số người dân nông thôn tiếp tục được cải thiện, chất lượng
cuộc sống không ngừng được nâng lên. Môi trường sinh thái ngày càng được
chú trọng, dân chủ ở cơ sở ngày càng được phát huy v,v…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những tồn tại,
hạn chế đó là: Cơ cấu kinh tế nông thôn các xã vùng sâu, vùng xa chuyển dịch
chậm, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn chậm đổi mới so với
yêu cầu hội nhập hiện nay, nhiều hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả
chưa cao. Một số tiêu chí đạt còn thấp, bộ mặt nông thôn có nơi chưa
khang trang, đổi mới, an ninh trật tự, an toàn xã hội khu vực nông thôn còn
tiềm ẩn một số vấn đề phức tạp. Đời sống của người nông dân nhìn chung vẫn
còn khó khăn, chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa người dân khu vực
nông thôn với người dân khu vực thành thị còn cao.
Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo
xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2015 là việc làm hết sức
cần thiết. Qua đó, nhằm đánh giá những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, rút
ra những kinh nghiệm và kiến nghị xây dựng các chủ trương, giải pháp, cung
cấp những luận cứ quan trọng để Đảng bộ Tỉnh tiếp tục hoàn thiện chủ
trương, chính sách lãnh đạo xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước nhằm
phát triển kinh tế, xã hội nâng cao đời sống nông dân. Vì vậy, vấn đề này là chủ đề
thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý, các cơ quan nghiên cứu,
các nhà khoa học và đã có nhiều công trình khoa học như:

3



* Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến xây dựng nông
thôn mới trên phạm vi cả nước
Phạm Xuân Nam (Chủ biên) (1997), Phát triển nông thôn, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội; Hồng Vinh (1998), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; PGS, TSKH Lê Đình Thắng (2000), Chính sách phát triển nông
nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội; Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời
kỳ đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội; Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau, Nxb Chính trị quốc gia;.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Tiêu chuẩn - quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về quy hoạch xây dựng nông thôn mới, Nxb Nông nghiệp,
TP. Hồ Chí Minh; Đặng Kim Sơn (2011), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp lý thuyết, thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội; Đỗ Kim Chung - Kim Thị Dung (2012), Chương trình nông thôn mới ở
Việt Nam - Một số vấn đề đặt ra và kiến nghị, Tham luận khoa học, Hà Nội;
PGS, TS Vũ Văn Phúc (Chủ biên) (2012), Xây dựng nông thôn mới những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lê Thị Thanh
Hà (2014), “Phát huy vai trò của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông
thôn mới”, Tạp chí Tuyên giáo,10.
Những công trình trên đã nêu lên những vấn đề lý luận chung và kinh
nghiệm quốc tế về phát triển nông thôn, xây dựng nông thôn mới cũng như
thực tiễn xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam trong những năm qua. Cung
cấp những luận cứ, luận chứng, những dữ liệu hết sức quan trọng cho việc
hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới
của nước ta. Điểm chung nhất của các nghiên cứu này và sau khi phân tích
thực tiễn giải quyết vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc xây dựng chỉ
5


đạo chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ngoài cũng như ở

trong nước, các tác giả đều cố gắng gợi mở, nêu lên những kinh nghiệm để có
thể vận dụng cho giải quyết những vấn đề thực tiễn của Việt Nam. Những kết
quả đó là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để tác giả tiếp thu, chọn lọc và
sử dụng trong quá trình hoàn thành luận văn của mình và trong những công
trình nghiên cứu sau này.
* Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến
xây dựng nông thôn mới ở các địa phương
Vũ Thị Mười (2012), Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới 2001 - 2010, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Hà Nội; Đặng Thị Hoa
(2012), Tìm hiểu tình hình triển khai hoạt động xây dựng nông thôn mới tại xã
Hợp Đồng, Chương Mỹ, Hà Nội, Luận văn tốt nghiệp khóa kinh tế nông thôn, Đại
học Nông nghiệp Hà Nội; Nguyễn Huy Cần, Trần Duy Phát (2012), Đánh giá
mức độ đáp ứng theo“Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới” của xã Vĩnh
Tiến - Long Mỹ - Hậu Giang, Tham luận khoa học, Đại học Cần Thơ; Nguyễn
Quốc Trị (2012), Giải pháp đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới tỉnh Bắc Ninh,
Luận văn Thạc sĩ quản trị kinh doanh, Hà Nội; Nguyễn Quang Ngọc (2013),
“Quảng Nam đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Cộng sản, (tháng 5);
Hà Trang (2013), “Xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long, tầm
nhìn 2020”, Tạp chí Cộng sản, (tháng 7); Quang Minh (2013), “Xây dựng nông
thôn mới ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Kết quả bước đầu và một số vấn đề đặt
ra”, Tạp chí Cộng sản, (tháng 11); Gia Bảo (2014), “Nam Định: Xây dựng nông
thôn mới là một trong năm đột phá”, Tạp chí Cộng sản, (tháng 4); Hoàng Công
Vũ (2015), Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm
2008 đến năm 2013, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hà Nội; Trần Anh Tú (2015), Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng
6


nông thôn mới từ năm 2006 đến năm 2014, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.

Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở
các địa phương, các công trình trên đã luận giải có luận cứ, luận chứng khoa học
và từ thực tiễn về thực trạng xây dựng nông thôn mới ở các địa phương trên phạm
vi cả nước, tập trung vào những vấn đề nảy sinh, cần giải quyết, từ đó rút ra những
kinh nghiệm có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về nông
nghiệp, nông thôn tỉnh Đồng Nai
Nguyễn Hữu Danh (2010), Giải pháp phát triển ngành nghề nông thôn
tỉnh Đồng Nai, Luận văn tốt nghiệp, Hà Nội; Trần Trung Nhàn (2011), Đảng bộ
tỉnh Đồng Nai lãnh đạo đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn từ năm 1996 đến năm 2006, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội; Thu Thảo (2011), Công an tỉnh Đồng Nai
tham gia xây dựng nông thôn mới, báo điện tử Công an nhân dân; Nguyệt Hà
(2014), Lực lượng vũ trang Đồng Nai chung sức xây dựng nông thôn mới, cổng
thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai; Khánh Minh (2014), 42 xã đạt đủ các tiêu chí
nông thôn mới, cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai; Trần Danh (2015), Chuyển
hóa ở địa bàn xã nông thôn mới, cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai; Phạm
Tùng (2015), Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Xuân Lộc và Thị xã Long
Khánh đạt chuẩn nông thôn mới, cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai; Bình
Nguyên (2015), Bàn giải pháp huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới, báo
Đồng Nai; Trần Đình Thành (2015, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh
ủy Đồng Nai), Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở Đồng Nai,
cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai; Nguyễn Văn Điều (2015), Những thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình xây dựng
7


nông thôn mới tại Đồng Nai, giai đoạn 2009 - 2015, Đề án tốt nghiệp cao cấp lý
luận Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Các công trình trên nghiên cứu khá toàn diện, hệ thống và phong phú về

nội dung, đề cập khá cụ thể về quá trình xây dựng nông thôn mới của Tỉnh ở
những phạm vi, góc độ khác nhau. Song, cho đến nay dưới góc độ khoa học Lịch
sử Đảng thì chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách độc lập,
toàn diện và có hệ thống về quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây dựng
nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2015. Nhưng các công trình nghiên cứu trên
là những tài liệu quý báu để tác giả có thể tham khảo, kế thừa trong quá trình thực
hiện đề tài của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới từ năm 2008 đến năm 2015, qua đó rút ra một số kinh nghiệm vận
dụng vào lãnh đạo xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn
hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những nhân tố tác động đến quá trình xây dựng nông thôn mới
ở tỉnh Đồng Nai trong những năm 2008 - 2015.
- Trình bày có hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo xây dựng nông thôn
mới của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai từ năm 2008 đến năm 2015.
- Nhận xét và đúc kết một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai lãnh đạo xây dựng nông thôn mới trong những năm 2008 - 2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ
tỉnh Đồng Nai từ năm 2008 đến năm 2015.
8


* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh Đồng Nai xây dựng nông thôn mới.

- Về thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2015.
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp luận sử học macxít.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic là chủ yếu, đồng
thời kết hợp sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, so sánh, tổng
hợp, thống kê và phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng
Nai về xây dựng nông thôn mới
- Góp phần tổng kết quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng
Nai trong xây dựng nông thôn mới
- Đề tài làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, nghiên cứu Lịch sử
Đảng ở các Học viện, Nhà trường trong và ngoài quân đội
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG NAI
VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2008 - 2015)

1.1. Những nhân tố tác động đến quá trình xây dựng nông thôn
mới tỉnh Đồng Nai (2008 - 2015)

1.1.1. Một số quan niệm và tầm quan trọng của xây dựng nông thôn
mới đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai
* Một số quan niệm liên quan xây dựng nông thôn mới
Quan niệm về nông thôn, xây dựng nông thôn là quá trình lịch sử hàng
ngàn năm nay của dân tộc ta, là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng
về thành phần tộc người, về văn hóa, là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục,
tập quán của cộng đồng dân tộc. Qua đó, đã góp phần xây dựng và tạo lập nên
Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay. Theo Điều 1, Thông tư số 54/2009/TTBNN&PTNT ngày 21 tháng 8 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn được thống nhất như sau: “Nông thôn là một tổng thể tự nhiên kinh tế - xã hội của môi trường địa lý sinh thái nông nghiệp. Là phần lãnh thổ
không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi
cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã” [15, tr.1].
Quan niệm về NTM, trước hết phải là nông thôn, không phải là thị tứ,
thị trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay. NTM
bao hàm cơ cấu và chức năng mới là chức năng sản xuất nông nghiệp, giữ gìn
văn hóa truyền thống và chức năng sinh thái. NTM là nông thôn Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hướng tới thực hiện thành
công Bộ tiêu chí quốc gia về NTM. Là nông thôn có kinh tế phát triển toàn
diện, bền vững, đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của người dân không
ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
Nông dân được đào tạo, tiếp thu tiến bộ khoa học - kỹ thuật tiên tiến, cơ sở hạ
tầng được xây dựng đồng bộ và hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết
10


hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn ổn định, phát
triển và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ
thống chính trị cơ sở được nâng cao, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
được bảo đảm, NTM là kết hợp hài hòa giữa 3 nhân tố: Tăng trưởng kinh tế,
bền vững về môi trường và công bằng xã hội. Như vậy, NTM có thể khái quát
theo năm nội dung cơ bản sau: “Thứ nhất, đó là làng xã văn minh, sạch đẹp,

hạ tầng hiện đại; thứ hai, sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế
hàng hóa; thứ ba, đời sống về vật chất và tinh thần của người dân ở nông thôn
ngày càng được nâng cao; thứ tư, bản sắc văn hóa dân tộc được gìn giữ và
phát triển; thứ năm, xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ” [53, tr.34]
Quan niệm về xây dựng nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới là
“cuộc cách mạng” và là “cuộc vận động lớn” để cộng đồng dân cư ở nông
thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp;
phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống
văn hóa, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo thu nhập, đời sống
vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn
dân và của cả hệ thống chính trị. Đó không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà
là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp. Xây dựng NTM giúp cho nông dân có
niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông
thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Mục tiêu xây dựng nông thôn mới là: “Có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, gắn phát triển nông
thôn với đô thị theo quy hoạch” [2, tr.2]. Xây dựng xã hội nông thôn dân chủ,
ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh
thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần
của người dân ngày càng được nâng cao; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới
sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
11


Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới: Các nội dung, hoạt động của
Chương trình xây dựng NTM phải hướng tới mục tiêu thực hiện 19 tiêu chí
của Bộ tiêu chí đã ban hành, xây dựng NTM theo phương châm phát huy
vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng

vai trò định hướng các tiêu chí, quy chuẩn, xã đặt ra các chính sách, cơ chế
hỗ trợ và hướng dẫn. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở
thôn, bản bàn bạc dân chủ để quyết định tổ chức và thực hiện.
Xây dựng NTM được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép từ
các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các
chương trình dự án khác đang triển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ
trợ đối với các lĩnh vực cần thiết, có cơ chế chính sách mạnh mẽ khuyến
khích đầu tư của các thành phần kinh tế, huy động đóng góp của các tầng
lớp dân cư. Thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH,
đảm bảo an ninh, quốc phòng của mỗi địa phương, có quy hoạch và cơ
chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền
quyết định. Công khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn lực, tăng
cường phân cấp, trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện các
công trình, dự án của Chương trình. Phát huy vai trò làm chủ của người
dân và cộng đồng, thực hiện dân chủ cơ sở trong quá trình lập kế hoạch,
tổ chức thực hiện và giám sát, đánh giá.
Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và
toàn thể xã hội, cấp ủy Đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành
quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch tổ chức thực hiện. Hình thức là tổ
chức cuộc vận động sâu rộng “Toàn dân xây dựng nông thôn mới” do Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì cùng với các tổ chức chính trị, xã hội vận
động mọi tầng lớp Nhân dân phát huy vai trò của chủ thể trong việc đẩy
mạnh xây dựng nông thôn mới.

12


* Tầm quan trọng của xây dựng nông thôn mới đối với phát triển kinh
tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai
Xây dựng nông thôn là quá trình từ hàng ngàn năm nay của các thế hệ

con người Việt Nam, nhưng xây dựng nông thôn mới mà mục tiêu của Nghị
quyết số 26-NQ/TW, theo Bộ tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ ban hành thì
đây là lần đầu tiên đặt ra ở nước ta. Nó đáp ứng được mong muốn của nhân
dân ta, xuất phát từ những tiềm năng lợi thế của nước ta.
Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vị trí chiến lược trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ
sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững
ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Các vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình CNH, HĐH đất
nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn,
nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng NTM gắn với xây dựng
các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản;
phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
Nông nghiệp, nông thôn sản xuất ra những nông sản thiết yếu như:
lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và cung cấp nông sản
xuất khẩu, cung cấp lao động cho các ngành kinh tế quốc dân. Tạo ra thu nhập
một bộ phận dân cư ngày càng tăng, sức mua tăng và mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm, làm cho hoạt động ở nông thôn sôi động hơn, thúc đẩy quá
trình CNH, HĐH. Phát triển nông thôn có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ và
sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái. Là cơ sở quan
trọng để bảo đảm ổn định chính trị, xã hội, phát triển kinh tế bền vững, củng
cố và tăng cường quốc phòng, an ninh.
13


Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM là một chương trình
mang tính toàn diện, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển lâu dài,

bền vững ở khu vực nông thôn, hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhận thức sâu sắc vị trí, vai
trò của nông thôn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, từ tiềm năng
lợi thế và thực trạng xây dựng nông thôn của Tỉnh trong những năm qua,
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai sớm đề ra chủ trương lãnh đạo xây dựng và phát
triển nông thôn.
Thực tế, sau những năm đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở Đồng Nai đã thay đổi rõ rệt, tình hình nông thôn trên địa bàn tỉnh
có nhiều chuyển biến tích cực: Nông nghiệp phát triển tương đối ổn định,
nhận thức của người dân vùng nông thôn về vai trò chủ thể được nâng
cao; quyền làm chủ của người dân nông thôn ngày càng được thể hiện rõ
nét; đời sống vật chất, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn
được nâng lên. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu vực nông
thôn từng bước được đầu tư nâng cấp, hệ thống chính trị cơ sở; an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững; môi trường sinh thái
khu vực nông thôn ngày càng được quan tâm bảo vệ và ngày càng được
cải thiện góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Hiện nay, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới ở Đồng Nai càng có vị
trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Xây
dựng NTM trực tiếp khắc phục tình trạng mất cân đối trong phát triển KT
-XH vùng, lãnh thổ trên địa bàn, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa đô
thị và nông thôn. Tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát
triển, cơ cấu nền nông nghiệp hợp lý, bố trí, sắp xếp giữa các ngành kinh
tế mũi nhọn hợp lý tạo điều kiện cho nông nghiệp nông thôn phát triển
bền vững, góp phần thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, tạo cơ sở vững
chắc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
14


1.1.2. Những tiềm năng, lợi thế và thực trạng nông nghiệp, nông

thôn ở tỉnh Đồng Nai trước năm 2008
* Những tiềm năng, lợi thế của tỉnh Đồng Nai trong xây dựng nông
thôn mới
Vị trí địa lý, Đồng Nai là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có tọa độ địa lý từ 10 030’03
đến 11 034’57 vĩ độ Bắc và từ 106 045’30 đến 107 0 35’00 kinh độ Đông.
Tỉnh có diện tích tự nhiên là 5.907, 24 km 2, chiếm khoảng 1,7% diện tích
tự nhiên của cả nước, 25% diện tích vùng Đông Nam Bộ. Phía Tây giáp
tỉnh Bình Dương; phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước và Lâm Đồng; phía
Đông giáp tỉnh Bình Thuận; phía Tây Nam giáp TP. Hồ Chí Minh và
phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đồng Nai là nơi giữ vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh… (Phụ lục 1)
Về địa hình, tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng địa hình bình nguyên, núi
sót rải rác, hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam và có thể chia thành 3 dạng địa
hình chính như sau:
Dạng địa hình núi thấp: bao gồm các núi sót rải rác thuộc phần cuối của
dãy Trường Sơn, có độ cao biến động từ 200 - 700 m độ dốc phổ biến trên 20 0,
chiếm khoảng 8% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở huyện Tân Phú và một
phần các huyện Định Quán, Xuân Lộc; với dạng địa hình này, đất đai bị chia
cắt khá mạnh, rất khó xây dựng các công trình thủy lợi; định hướng chủ yếu là
để phát triển rừng tự nhiên và trồng rừng, nếu phát triển cây nông nghiệp cần
lưu ý bố trí cây lâu năm.
Dạng địa hình đồi lượn sóng: chiếm 82% diện tích tự nhiên của tỉnh,
phân bố ở hầu khắp các huyện, loại đất chủ yếu là bazan và phù sa cổ; cao trình
biến động từ 20 - 150m; độ dốc phổ biến từ 3 - 8 0; quỹ đất này chủ yếu trồng
các loại cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả và nột số cây hàng năm khác.
15



Dạng địa hình đồng bằng: là các dải phù sa hoặc dốc tụ phân bố ven
sông rạch; quy mô chiếm khoảng 10% diện tích toàn tỉnh; cao độ dưới 20m;
cây trồng chủ yếu là các loại cây ngắn ngày và rừng ngập mặn ven sông Đồng
Nai thuộc các huyện Long Thành, Nhơn Trạch.
Khí hậu, thổ nhưỡng, Đồng Nai nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với
hai mùa mưa, nắng rõ rệt (mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ
tháng 12 đến tháng 04 năm sau), nhiệt độ trung bình từ 22 0c đến 300c, lượng
mưa từ 1800 mm đến 3000 mm một năm. Quỹ đất nông nghiệp chiếm 48,31%
diện tích tự nhiên, nếu kể cả đất lâm nghiệp có rừng thì chiếm 78,38%, đất
khó sử dụng chiếm tỉ lệ 0,54%. Đất cho xây dựng khá dồi dào, quỹ đất công
nghiệp là thế mạnh của Tỉnh. Về góc độ phát triển nông nghiệp, đất đai Đồng
Nai có 3 loại: (1) Đất hình thành trên nền bazan (39,1%), thuận lợi cho phát
triển cây công nghiệp; (2) đất hình thành trên phù sa cổ và đá phiến sét
(49,9%), phù hợp với cây ngắn ngày và cây ăn trái; (3) đất thủy thành phù
hợp với cây lương thực, hoa màu, cây ăn trái (9,9%). Khí hậu, thủy văn
Đồng Nai ôn hòa, thuận lợi cho phát triển, ít lũ lụt; hệ thống sông hồ đa
dạng thuận tiện cho công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây
dựng; ngày mưa không nhiều (120 -170 ngày trong năm), độ ẩm lớn (80 82%). Như vậy, khí hậu và thổ nhưỡng rất thuận lợi cho canh tác nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản và các loại cây công nghiệp, cây ăn quả có giá
trị cao như cao su, tiêu, điều, mía, cà phê, sầu riêng, măng cụt, ca cao…
Tài nguyên, khoáng sản, khá đa dạng, có một số thế mạnh về tài
nguyên nước, diện tích mặt nước 16.666 ha (2,8% diện tích tự nhiên), cung
cấp 30,2x109m3 nước/năm cho nền kinh tế và nuôi trồng, khai thác thủy
sản; lượng nước ngầm tốt về chất lượng, giàu về số lượng có khả năng
cung cấp nước sạch. Về tài nguyên rừng khá phong phú (146.228ha), che
phủ 25% diện tích, đặc biệt là rừng tự nhiên có độ đa dạng sinh học và hệ
sinh thái quý hiếm, có lợi thế về du lịch sinh thái, đặc biệt, Nam Cát Tiên
16



là vùng rừng được công nhận là rừng Quốc gia, khu sinh quyển của đất
nước. Về tài nguyên khoáng sản như: Đá, cát, đất sét, bôxít ... có trữ lượng
lớn phục vụ cho khai thác công nghiệp.
Nguồn nhân lực, tính đến năm 2013, dân số là 2.768.700 người,
phân bố trên 9 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố, có mật độ 469 người/km 2, phân
bổ không đều, thành phố Biên Hòa có mật độ cao nhất 3.292,93 người/km 2,
huyện Vĩnh Cửu thấp nhất 126,00 người/km 2. Năm 2005, tỉ lệ dân thành thị
là 33,43%, nông thôn là 66,57%; trong đó nữ chiếm 50,64%, nam 49,36%.
Số dân trong độ tuổi lao động là 1.097.927 người (49,58% dân cư), thể hiện
dân số trẻ có khả năng cung ứng lao động cho các ngành kinh tế. Lao động
trong ngành nông nghiệp chiếm 44,23%; công nghiệp 31,61%, dịch vụ
24,16%, tỉ lệ thất nghiệp 3,2%, tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 32%. Về giáo
dục phổ thông, có 97,3% dân số trong độ tuổi 15 - 25 biết đọc và viết.
Kết cấu hạ tầng, đã được cải thiện và có nhiều thuận lợi. Hệ thống
giao thông thủy lợi thuận tiện gồm: Đường bộ, đường thủy, đường sắt nối liền
các tỉnh trong khu vực Đông Nam Bộ và cả nước như quốc lộ 1A, quốc lộ 20,
quốc lộ 51, quốc lộ 56, đường sắt Bắc - Nam, đường xuyên Á; có sân bay
quân sự Biên Hòa, gần sân bay Tân Sơn Nhất; có cảng Đồng Nai, Gò Dầu A,
Gò Dầu B, Thị Vải - Phước Thái ... tiếp nhận tàu 15.000 tấn tạo điều kiện cho
Đồng Nai gắn kết quan hệ toàn diện với các tỉnh khác trong cả nước và quốc
tế.. Trong tương lai, các dự án đường sắt, đường cao tốc, sân bay quốc tế
Long Thành được xây dựng thì mạng lưới giao thông sẽ thuận lợi cho giao
lưu kinh tế. Kết cấu hạ tầng điện và nước đáp ứng cơ bản nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt. Hạ tầng bưu chính viễn thông phát triển tốt, đạt 21,79 máy điện
thoại/100 dân, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.
Kinh tế - xã hội có nhiều bước phát triển. Tỉnh có nhiều dân tộc, tôn
giáo khác nhau sinh sống, trong tiến trình lịch sử hơn 300 năm, Đồng Nai là

17



vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa. Trên vùng đất này, các dân
tộc anh em đã xây dựng nên một “Nông Nại đại phố” sầm uất, những sản
phẩm nổi tiếng như: đá Biên Hòa, gốm Biên Hòa, đường mía Biên Hòa… đã
trở nên nổi tiếng và được ưa chuộng từ xưa đến nay. Đồng Nai có văn miếu
Trấn Biên (1775) là biểu tượng cho truyền thống văn hóa hiếu học, tôn sư,
trọng đạo, là nơi đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, nơi giữ gìn văn hóa dân tộc.
Đồng Nai có 38 dân tộc anh em, trong đó người Kinh chiếm tỷ lệ 94%, người
Hoa chiếm 5,3%, còn lại các dân tộc bản địa như: Chơro, Mạ, XTiêng…có
nhiều thành phần tôn giáo khác nhau, bao gồm: Thiên Chúa giáo, Phật giáo,
Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi giáo…Tín đồ tôn giáo chiếm trên 52% dân
số toàn tỉnh, phần lớn theo Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành. Các tổ chức
tôn giáo được tổ chức khá chặt chẽ.
Với những đặc điểm nêu trên, tỉnh Đồng Nai có thuận lợi hơn nhiều địa
phương khác trong phát triển kinh tế theo hướng đa dạng hóa các ngành nghề.
Trong đó ngành công nghiệp có nhiều thế mạnh nhất, có khả năng thu hút
nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, hình thành vùng chuyên canh nông sản
hàng hóa lớn cho tiêu dùng và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, xuất
khẩu. Đồng Nai có triển vọng trở thành trung tâm kinh tế lớn nếu hợp tác chặt
chẽ với Thành phố Hồ Chí Minh và các Tỉnh trong vùng, giảm thiểu nguy cơ
cạnh tranh gây bất lợi. Những tiềm năng, lợi thế đó cũng tạo điều kiện để tỉnh
Đồng Nai thực hiện có hiệu quả CTMTQG về xây dựng nông thôn mới.
* Thực trạng nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Đồng Nai trước năm 2008
Trước năm 2008, phát huy truyền thống đoàn kết và cách mạng, Đảng
bộ và Nhân dân các dân tộc, tôn giáo trong Tỉnh đã vượt qua nhiều khó khăn,
cùng nhau phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh
vực. Trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển KT-XH, trong đó lĩnh
vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn được tỉnh Đồng Nai coi trọng.

18



Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ VIII (năm 2005)
đã đề ra 12 chương trình phát triển KT-XH Tỉnh giai đoạn 2006 - 2010, trong
đó khẳng định: “Đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH theo định hướng XHCN,
nhất là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Chuyển nhanh về chất nền sản
xuất nông nghiệp và phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn theo
hướng khuyến khích, hỗ trợ phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển dịch
vụ và phát triển mạnh các ngành nghề, nhất là ngành nghề truyền thống ở
nông thôn” [65, tr.47].
Trong quá trình tổ chức thực hiện, Tỉnh ủy, HĐND, UBND Tỉnh đã
ban hành nhiều cơ chế, chính sách, quan tâm đầu tư nhằm đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của người nông dân. Chính vì vậy, Đảng bộ, chính
quyền và Nhân dân Tỉnh đã đạt được một số kết quả bước đầu trong quá trình
xây dựng, phát triển nông thôn, cụ thể trên một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát
triển, nông thôn nhiều nơi đổi mới.
Đã ổn định một số vùng chuyên canh cây công nghiệp với quy mô diện
tích lớn (cà phê, cao su, điều), gần 100% diện tích lúa, đậu, bắp, mía,
mì sử dụng giống có năng suất cao, trên 80% các khâu công việc được
cơ giới hóa. Chăn nuôi gia súc và thủy sản phát triển mạnh, hình thành
một số mô hình chăn nuôi theo quy trình công nghiệp, mô hình trang
trại áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến. Công tác trồng và bảo vệ
rừng được đẩy mạnh, công tác quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên
khoáng sản, bảo vệ môi trường đạt một số tiến bộ [67, tr. 14 - 15].
Thứ hai, nông nghiệp phát triển khá toàn diện, đúng hướng.

19



Cơ cấu kinh tế nông nghiệp từng bước chuyển biến tích cực, tăng tỷ
trọng sản phẩm chăn nuôi, công tác khuyến nông được tăng cường, tạo điều
kiện phát triển sản xuất nông nghiệp ổn định theo hướng sản xuất hàng hóa,
nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động. “Giá trị sản
xuất tăng bình quân 5,6%/năm, đạt được một số tiến bộ quan trọng trong việc
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển tốt mô hình kinh tế trang
trại, câu lạc bộ năng suất cao. Thực hiện có hiệu quả chương trình cơ giới hóa
nông nghiệp, kiên cố hóa kênh mương thủy lợi phục vụ sản xuất, sơ chế sản
phẩm sau thu hoạch” [67, tr.14].
Thứ ba, kết cấu hạ tầng kinh tế nông thôn có bước phát triển quan
trọng. Tỉnh đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở kiên cố vững
chắc, bộ mặt xã hội nông thôn của tỉnh thay đổi đáng kể, từng vùng nông
nghiệp, nông thôn khá hơn trước. Quy mô đầu tư phát triển, cơ cấu đầu tư
đúng hướng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật được tập trung hơn như:
duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp đô thị, xây dựng đường giao thông liên thôn, liên
tỉnh, hiện đại hóa mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống mạng lưới điện, cấp
thoát nước, các công trình văn hóa, y tế, giáo dục.
Thứ tư, kinh tế nông thôn và đời sống vật chất, tinh thần nông dân ngày
càng cải thiện. Đã cơ bản hoàn thành việc đầu tư hạ tầng các xã đặc biệt khó
khăn theo chương trình 135 và hỗ trợ người dân tộc thiểu số theo chương
trình 134 của Chính phủ; tập trung đầu tư trên 74% vốn ngân sách cho phát
triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu vực nông thôn; phát triển cụm
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, góp phần tác động tích cực đến phát triển
sản xuất, xây dựng nông thôn, tạo việc làm và giảm nghèo vùng nông thôn.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong xây dựng phát triển nông
thôn ở tỉnh Đồng Nai trước năm 2008 còn bộc lộ một số hạn chế. Cụ thể là:
Nền kinh tế còn một số lĩnh vực phát triển chưa cân đối, chưa đồng bộ,
sản xuất nông nghiệp tuy có chuyển biến theo hướng sản xuất hàng hóa

20


nhưng chưa thật sự bền vững, giá trị sản xuất bình quân trên ha đất chưa cao,
tỷ trọng dịch vụ trong ngành nông nghiệp còn thấp.
Thực hiện các biện pháp hỗ trợ nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Công tác
quản lý giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu chưa chặt chẽ.
Thực hiện xây dựng thương hiệu nông sản hàng hóa, đầu tư phát triển
cây trồng, vật nuôi chủ lực, triển khai đầu tư vùng chăn nuôi tập trung chậm.
Đầu tư kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Nguyên nhân của những tồn tại, bất cập.
Ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, hạ
tầng kinh tế kỹ thuật của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung và của
tỉnh Đồng Nai nói riêng chưa được Nhà nước quan tâm đầu tư.
Cơ chế, chính sách, giá cả thị trường, vật tư nông nghiệp tăng cao…
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở một số cấp ủy, tổ
chức đảng và người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa phát huy hết tinh thần
trách nhiệm, thiếu chủ động, sáng tạo trong quản lý, điều hành.
Sự phối hợp trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chưa thật đồng
bộ, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp và huy động nguồn lực để thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân của các cấp, các ngành đã
được triển khai nhưng chưa được sâu rộng, nhận thức của nhân dân về chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn mang tính thụ động.
Thực trạng trên, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Đồng
Nai tiếp tục quán triệt đường lối của Đảng, phát huy tối đa tiềm năng, thế
mạnh của địa phương. Triển khai thực hiện các chương trình, nội dung, giải
pháp đồng bộ và sự vào cuộc của các cấp, các ngành đẩy mạnh xây dựng
NTM là nội dung, nhiệm vụ quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển

kinh tế của Tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
21


1.1.3. Chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam (2008 - 2015)
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn khẳng định tầm
quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Trong quá trình
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nội dung, nhiệm vụ
cơ bản của CNH, HĐH đất nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
(2006) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề
nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng,
phải luôn coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng
một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có
năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Xây dựng các quy hoạch
phát triển nông thôn, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây
dựng làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh.
Cụ thể hóa chủ trương đó, Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung
ương khóa X ra Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn đã tiếp tục khẳng định những quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng
hiện đại. Nghị quyết đánh giá: “Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới,
dưới sự lãnh đạo của Đảng nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt
được thành tựu khá toàn diện và to lớn” [2, tr.1]. Nông nghiệp tiếp tục phát
triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công
nghiệp, dịch vụ, ngành nghề. Kết cấu hạ tầng KT-XH được tăng cường, bộ
mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư
ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo

đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị được củng cố và tăng cường. Dân chủ
cơ sở được phát huy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
22


Tuy nhiên, Nghị quyết cũng chỉ ra những hạn chế “Những thành tựu
đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các
vùng” [2, tr.1]. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm.
Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Nông nghiệp và nông
thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém,
môi trường ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân
nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng
sâu, vùng xa, chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các
vùng còn lớn.
Trước thực trạng nêu trên, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục xây dựng và phát
triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn nhằm không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của dân cư vùng nông thôn. Tạo nền tảng KT-XH và
chính trị ngày càng vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nghị quyết chỉ rõ quan điểm: “Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo
đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ
môi trường sinh thái của đất nước” [2, tr.2] . Xây dựng nông thôn mới gắn với
xây dựng cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là
căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt. Phát triển
nông nghiệp, nông dân, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm

vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tiếp tục “Triển khai chương trình xây dựng nông thôn
23


mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc
trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy những nét văn hóa đặc sắc của
nông thôn Việt Nam” [42, tr.123].
Từ chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết,
Chương trình hành động, Quyết định để thực hiện Nghị quyết của Đảng
như: Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008, Ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ nhằm khẳng định và bổ sung
nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương để tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết 26NQ/TW. Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010, Phê duyệt
CTMTQG về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020, đây là một Chương trình
tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng. Quyết
định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 và Quyết định số 342/QĐTTg ngày 20 tháng 2 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Bộ
tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới (Phụ lục 2). Trong đó xác định mục tiêu
phấn đấu “Đến năm 1015 có 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đến năm
2020 có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (theo Bộ tiêu chí quốc gia về xây
dựng nông thôn mới)” [59, tr.1]. Đối với xã nông thôn mới “gồm 19 tiêu chí
theo 05 nhóm: Quy hoạch; Hạ tầng kinh tế - xã hội; Kinh tế và tổ chức sản
xuất; Văn hóa - xã hội - môi trường; Hệ thống chính trị. Huyện nông thôn mới
có 75% số xã trong huyện đạt nông thôn mới; tỉnh nông thôn mới có 80% số
huyện trong tỉnh đạt nông thôn mới” [59, tr.3].
Về mục tiêu tổng quát, Nghị quyết khẳng định: Xây dựng nông thôn
mới “có kết cấu hạ từng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản

sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo
vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng
24


cường”[2, tr.2]. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân
cư nông thôn hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các
vùng khó khăn. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân
- nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị
vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu đến năm 2020: “Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thủy sản đạt
3,5 - 4%/năm, sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, giải quyết cơ bản việc
làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện
nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%, số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
khoảng 50%” [2, tr.2]. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng nông thôn, nâng
cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn.
Một số nhiệm vụ giải pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn
Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời
phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị.
Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng
khó khăn. Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có
hiệu quả ở nông thôn
Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công
nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công
nghiệp hoá nông thôn.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực,

phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nông dân.
25


Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức
mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.
Như vậy, Nghị quyết số 26-NQ/TW là sự vận dụng quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn và xây dựng nông thôn mới vào thực tiễn đất nước trong tình hình
mới, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Những
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng NTM là nền tảng
tư tưởng cơ bản để Đảng bộ tỉnh Đồng Nai quán triệt, cụ thể hóa thành chủ
trương lãnh đạo và tổ chức thực hiện xây dựng NTM phù hợp với đặc điểm,
lợi thế và khả năng của địa phương.
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai về xây dựng nông
thôn mới (2008 - 2015)
Xuất phát từ đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Tỉnh và
yêu cầu của công cuộc đổi mới, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Dưới sự lãnh
đạo của BCHTW và hướng dẫn của các cơ quan chức năng, Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai đã quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà
nước, luôn coi việc lãnh đạo thực hiện thắng lợi xây dựng NTM là nhiệm vụ
chính trị thường xuyên và đặc biệt quan trọng của toàn Đảng bộ. Chủ trương
của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai về xây dựng NTM từ năm 2008 đến năm 2015 thể
hiện trong các văn bản như: Quyết định số 74/2008/QĐ-UBND ngày 31 tháng
10 năm 2008 Phê duyệt đề án NTM tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2008 - 2010 và
tầm nhìn đến năm 2015. Kế hoạch số 97-KH/TU ngày 28 tháng 12 năm 2008 của
Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IX, Nhiệm kỳ 2010 - 2015... Nội dung chủ trương cụ
thể như sau:

* Về quan điểm phát triển
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là
nhiệm vụ trọng tâm trong việc phát triển nông thôn. Kết hợp hài hòa giữa phát
26


triển kinh tế xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo vệ môi trường,
đảm bảo trật tự xã hội, an ninh quốc phòng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân.
- Xây dựng mô hình nông thôn mới phát triển bền vững trên cơ sở khai
thác hợp lý, hiệu quả các nguồn lực, trong đó trước hết là sức dân cộng với sự
hỗ trợ của Nhà nước phù hợp với cam kết hội nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
- Phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, đa dạng và bền vững kết
hợp phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phục vụ sản xuất
và đời sống.
- Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để phát triển nông nghiệp
nâng cao số lượng và chất lượng nông sản, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng, và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và hàng
hóa xuất khẩu.
- Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phát huy tính năng động của kinh tế hộ gia
đình, kinh tế hợp tác và liên kết liên doanh với các doanh nghiệp [70, tr.1].
* Về mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể:
Mục tiêu tổng quát: Đề án xây dựng NTM theo Quyết định số 74/2008/
QĐ-UBND là: “Xây dựng nông thôn mới có sự phát triển toàn diện, bền vững
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường” [70, tr.2]. Đồng thời, Kế
hoạch số 97-KH/TU ngày 29 tháng 12 năm 2008 khẳng định:
Xây dựng nông thôn mới phát triển bền vững trên cơ sở khai thác hợp
lý, hiệu quả các nguồn lực, phát huy cao nội lực, tăng cường sự hỗ trợ

của Nhà nước. Trong quá trình phát triển, kết hợp hài hòa giữa phát triển
kinh tế - xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo vệ môi trường,
đảm bảo trật tự xã hội, an ninh quốc phòng. Xây dựng nông thôn mới có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, đẩy mạnh phát triển công
27


×