Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐẢNG bộ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH đạo xây DỰNG NÔNG THÔN mới từ năm 2008 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 105 trang )

“Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm
2008 đến năm 2015”
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp, do lịch sử quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước nên phần lớn dân cư nước ta sống quần tụ theo từng dòng
họ và theo phạm vi làng, xã. Đến nay, tuy quá trình đô thị hóa đã diễn ra khá
mạnh mẽ nhưng vẫn còn hơn 70% dân số sinh sống và lao động ở nông thôn.
Nông thôn nước ta luôn chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Chính vì vậy trong thời kỳ nào Đảng ta cũng chăm lo đến
phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn như (Chương trình 135) và đầu tư cho
các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP, ngày 27/12/2008 của
Chính phủ… nhưng nông thôn phát triển còn tự phát, mỗi nơi làm một cách,
chưa theo một chuẩn mực thống nhất. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7
khóa X, Về Nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới (Quyết định số 491/Qđ-TTg
ngày 16/4/2009) và Chương trình mục tiêu Quốc gia XDNTM tại Quyết định
số 800/Qđ-TTg ngày 06/4/2010 nhằm thống nhất chỉ đạo việc XDNTM trên
cả nước. Tuy thời gian triển khai thực hiện chương trình XDNTM chưa lâu
nhưng các địa phương, nhất là cấp cơ sở đã bộc lộ nhiều lúng túng, vướng
mắc trong quá trình chỉ đạo thực hiện.
Thái Bình là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng, có vị trí
quan trọng trong phát triển KT - XH và củng cố quốc phòng - an ninh; nằm
trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế: Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh; bên cạnh đó Thái Bình được chọn là một trong 05 tỉnh
của cả nước làm điểm XDNTM. Đây là điều kiện thuận lợi, thời cơ đồng thời
cũng là trách nhiệm lớn đối với Tỉnh. Từ đó trong những năm qua, Thái Bình
đã đẩy mạnh các chương trình phát triển KT - XH nông thôn như chương
trình bê tông hóa kênh mương, làm đường, xây dựng trường học, trạm y tế và
các thiết chế văn hóa, thể dục thể thao đạt chuẩn quốc gia, chuyển đổi cơ cấu



mùa vụ, cây trồng vật nuôi, phát triển làng nghề…theo hướng XDNTM. Mặc dù đã
có nhiều cố gắng nhưng thực tế từ năm 2008 đến năm 2015 kết quả đạt được
vẫn còn khiêm tốn, cơ sở hạ tầng của Tỉnh còn nhiều bất cập và xây dựng
thiếu quy hoạch, Thái Bình vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế của Tỉnh vẫn là
thuần nông, sản xuất hàng hóa chưa phát triển mạnh, đời sống của nhân dân
còn khó khăn. Triển khai thực hiện Quyết định số 491/Qđ-TTg ngày
16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng nông thôn theo chuẩn
nông thôn mới, tỉnh Thái Bình đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần
giải quyết như xuất phát điểm của Tỉnh thấp, trình độ, năng lực của đội ngũ
cán bộ còn hạn chế, đời sống của nhân dân còn khó khăn.
Việc tìm hiểu quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo XDNTM từ năm
2008 đến năm 2015, tổng kết những thành công, những khuyết điểm hạn chế
và rút ra những bài học có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn là việc
làm cần thiết. Nghiên cứu tốt vấn đề này sẽ giúp làm rõ lý luận và quan điểm
về XDNTM. Về thực tiễn đề tài sẽ góp phần đánh giá thực trạng XDNTM trên
địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay và rút ra những kinh nghiệm làm cơ sở giúp cho
Đảng bộ tỉnh Thái Bình có thêm căn cứ đề ra những phương hướng, chủ trương
và giải pháp lãnh đạo XDNTM trên địa bàn của Tỉnh trong những năm tiếp
theo.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
*Nhóm các công trình nghiên cứu chung về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trên phạm vi cả nước, có nhiều công trình đã được công bố như:
GS Phan Đại Doãn (chủ biên), PGS,TS Nguyễn Quang Ngọc (1994), Kinh
nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb CTQG, Hà Nội.
GS Phạm Xuân Nam (1997), Phát triển nông thôn, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội; PGS, TSKH Lê Đinh Thắng (1998), Chính sách nông nghiệp, nông
thôn sau Nghị quyết X của Bộ Chính trị Nxb CTQG, Hà Nội; PGS, TS Hồng
Vinh (1998), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - Một số

2



vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội; Vũ Oanh (1998), Nông
nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp
tác hóa, dân chủ hóa, Nxb CTQG, Hà Nội; Hội thảo Khoa học kinh tế Việt
Nam (2002), Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội; Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam thời kỳ đối mới, Nxb Thống kê, Hà Nội; Phạm Quốc
Doanh (2003) “Chính sách đất đai và vấn đề nông dân không đất để thực hiện
công nghiệp hóa nông thôn”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 6 tháng 6;
Nguyễn Sinh Cúc (2004), “Tổng quan nông nghiệp năm 2003”, Tạp chí Nông
thôn mới số 108+109 (kỳ 1+2 tháng 1); Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (2004), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Việt
Nam, thực trạng và một số vấn đề đặt ra, Nxb Hà Nội; Tăng cường năng
lực hội nhập kinh tế quốc tế cho ngành nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn cùng tổ chức Ausaid nghiên cứu đã đi sâu phân tích
những quy định của WTO về thương mại nông sản; Hội nhập kinh tế quốc
tế và tác động của nó đến phát triển nông nghiệp Việt Nam là một dự án
nghiên cứu tập thể do TS Nguyễn Từ, GS, TS Phùng Hữu Phú (2009), Vấn
đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm
Trung Quốc, Nxb CTQG, Hà Nội. Đặng Kim Sơn (2011) Công nghiệp hóa
từ nông nghiệp - lý luận, thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, Nxb
Nông nghiệp; Đỗ Kim Chung và Kim Thị Dung (2012), Chương trình nông
thôn mới ở Việt Nam - Một số vấn đề đặt ra và kiến nghị, Tham luận khoa
học, Hà Nội; PGS, TS Vũ Văn Phúc (2012), XDNTM những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội, gồm 33 bài viết, nêu lên những vấn đề lý luận
chung và kinh nghiệm quốc tế về XDNTM và thực tiễn XDNTM ở Việt Nam.
*Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn ở các địa phương, cơ sở có: Nguyễn Vũ Bình (1999), “Gia Lâm trên
con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí

3


Cộng sản, tháng 12; Tô Văn Song (2002), “Hải Dương chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 12; Đỗ Xuân (2003), “Đảng bộ huyện Tiên
Lãng - Hải Phòng lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 8;
Nguyễn Văn Giầu (6/2006), “Ninh Thuận tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”;
Mai Thị Thanh Xuân (2003), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông thôn
các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội; Lê Minh
Tùng (2003), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh
An Giang, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Địa lý học, Hà Nội; Vũ Thị Mười
(2012), Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo XDNTM 2001 - 2010, Luận văn
thạc sĩ Chính trị học, Hà Nội; Đặng Thị Hoa (2012), Tìm hiểu tình hình
triển khai hoạt động XDNTM tại xã Hợp Đồng, Chương Mỹ, Hà Nội, Luận
văn tốt nghiệp khoa Kinh tế nông thôn, Đại học Nông nghiệp Hà Nội; Đỗ
Thị Hà (2012), Đánh giá tình hình thực hiện chủ trương XDNTM của nước
nhà tại xã Phú Lâm, Tiên Du, Bắc Ninh, Luận văn tốt nghiệp, chuyên ngành
Kinh tế nông nghiệp, Hà Nội; Nguyễn Duy Cần, Trần Duy Phát (2012),
Đánh giá mức độ đáp ứng theo “Bộ tiêu chi quốc gia về xã nông thôn mới”
của xã Vĩnh Viễn - Long Mỹ - Hậu Giang, Tham luận khoa học, Đại học
Cần Thơ; Nguyễn Quốc Trị (2012), Giải pháp đẩy mạnh XDNTM tỉnh Bắc
Ninh, Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Hà Nội; Minh Phước (2013),
“XDNTM ở Cà Mau: cần những giải pháp mang tính đột phá”, Tạp chí
Cộng sản, tháng 11; Nguyễn Quang Ngọc (2013), “Quảng Nam đẩy mạnh
XDNTM”, Tạp chí Cộng sản, tháng 5; Hà Trang (2013), “XDNTM ở Đồng
Bằng sông Cửu Long, tầm nhìn 2020”, Tạp chí Cộng sản, tháng 7; Huy Vũ
(2013), “Cần Thơ sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội Nghị Trung ương 7

khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, Tạp chí Cộng sản, tháng 9;
Quang Minh (2013), “XDNTM ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Kết quả bước
4


đầu và một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản, tháng 11; ThS Bùi Thanh
Tuấn (2014), “Bức tranh nông thôn tỉnh Tuyên Quang sau năm năm thực
hiện nghị quyết Trung ương 7 khóa X”, Tạp chí Cộng sản, tháng 3; Gia Bảo
(2014), “Nam Định: XDNTM là một trong năm đột phá”, Tạp chí Cộng sản,
tháng 4; Nguyễn Đăng Quang (2014), “XDNTM ở xã Chư Ă-Plây Cu”, Tạp
chí Cộng sản, tháng 6; Trần Anh Tú (2015), Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh
đạo XDNTM từ năm 2006 đến năm 2014, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng, Hà
Nội; Hoàng Công Vũ (2015), Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo XDNTM từ
năm 2008 đến năm 2013, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng, Hà Nội.
*Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông
thôn tỉnh Thái Bình có: TS Tạ Ngọc Giáo (2011), Nghiên cứu đề xuất giải
pháp nâng cao chất lượng công tác lập dự toán ngân sách để gắn chặt chẽ và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phục vụ tiến trình XDNTM ở tỉnh Thái
Bình, Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Bình; TS Nguyễn Đức Hạnh (2012),
Nghiên cứu đề xuất giải pháp truyền thông cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn và Chương trình XDNTM của
tỉnh Thái Bình, Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Bình; Nguyễn Anh Tuấn
(2012), Xây dựng mô hình tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học và công
nghệ phục vụ các xã XDNTM tỉnh Thái Bình giai đoạn từ 2012 - 2015, Cổng
thông tin điện tử tỉnh Thái Bình; PGS, TS Nguyễn Ngọc Thanh (2012), Nghiên
cứu đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống góp
phần XDNTM ở Thái Bình, Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Bình; Bùi Đức
Hạnh (2013), Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo cấp ủy cơ sở
và chất lượng sinh hoạt chi bộ phục vụ XDNTM huyện Kiến Xương Tỉnh Thái
Bình, Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Bình; Phạm Văn Tuệ (2013), Thực trạng

giải pháp nâng cao hiệu quả công tác huấn luyện, sử dụng lực lượng dự bị động
viên trong giữ vững an ninh chính trị ở cơ sở gắn với xây dựng mô hình nông
thôn mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay, Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Bình; Thạc
sĩ Nguyễn Văn Lượng (2014), Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng dạy
5


nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn giai đoạn 2012 - 2015, định hướng
2020, đáp ứng yêu cầu XDNTM ở tỉnh Thái Bình, Cổng thông tin điện tử tỉnh
Thái Bình; Lê Thị Hồng (2015), Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển
kinh tế nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010, Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng,
Hà Nội.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH THÁI BÌNH VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2008 - 2015)

1.1. Những yếu tố tác động đến xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái
Bình (2008 - 2015)
1.1.1. Vị trí, vai trò của xây dựng nông thôn mới đối với phát triển
của tỉnh Thái Bình
* Quan niệm, nguyên tắc về nông thôn mới và XDNTM.
Quan niệm về nông thôn mới: Đã có một số diễn giải và phân tích về khái
niệm thế nào là nông thôn mới. Nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn chứ
không phải là thị tứ; đó là nông thôn mới chứ không phải nông thôn truyền
thống. Nếu so sánh giữa nông thôn mới và nông thôn truyền thống, thì nông thôn
mới phải bao hàm cơ cấu và chức năng mới [30, tr.6].
Nông thôn mới là nông thôn có kinh tế phát triển, đời sống vật chất, văn
hoá, tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được nâng cao, giảm
dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu
các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng

vai trò làm chủ nông thôn mới. Nông thôn mới có kinh tế phát triển toàn diện,
bền vững, cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy
hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị.
Nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, môi trường sinh thái được
bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an
ninh chính trị và trật tự xã hội.

6


Quan niệm về XDNTM: XDNTM là “cuộc cách mạng” và là “cuộc vận
động lớn” để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia
đình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện; có nếp sống văn
hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật
chất, tinh thần của người dân được nâng cao. XDNTM là sự nghiệp cách
mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới
không chỉ là vấn đề KT - XH, mà là vấn đề kinh tế, chính trị tổng hợp.
XDNTM giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết
giúp đỡ nhau XDNTM phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Nguyên tắc XDNTM: XDNTM theo phương châm phát huy vai trò chủ
thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định
hướng các tiêu chí, quy chuẩn, xã đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và
hướng dẫn. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, bản
bàn bạc dân chủ để quyết định tổ chức và thực hiện. XDNTM được thực hiện
trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình từ mục tiêu Quốc gia, chương
trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình dự án khác đang triển khai ở nông
thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết, có cơ chế chính sách
mạnh mẽ khuyến khích đầu tư của các thành phần kinh tế, huy động đóng góp
của các tầng lớp dân cư. XDNTM được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế
hoạch phát triển KT - XH, đảm bảo an ninh, quốc phòng của mỗi địa phương, có

quy hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu
chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các bộ chuyên ngành ban hành).
Như vậy XDNTM là nhiệm vụ của của cả hệ thống chính trị và toàn thể
xã hội; cấp ủy Đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình
xây dựng quy hoạch, kế hoạch tổ chức thực hiện. Hình thức là cuộc vận động
“Toàn dân xây dựng nông thôn mới” do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ
chức chính trị, xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ
thể trong việc XDNTM.

7


Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP còn lớn, hơn 70%
dân số sinh sống và lao động ở nông thôn, thu nhập thấp, thiếu việc làm còn
nhiều. Để phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, nhiệm vụ chiến lược là thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Trong đó nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu. Do vậy, vai trò của XDNTM là rất quan trọng thể hiện trên
một số nội dung sau:
Sản xuất nông nghiệp hiện đại
Sản xuất nông nghiệp cần diện tích lớn, nhất là ngành trồng trọt như
sản xuất lương thực, cây công nghiệp và trồng rừng. Do đó, nông thôn là nơi
diễn ra phần lớn các hoạt động sản xuất nông nghiệp của các quốc gia.
Có thể nói nông nghiệp là chức năng tự nhiên của nông thôn. Chức năng cơ
bản của nông thôn là sản xuất dồi dào các sản phẩm nông nghiệp chất lượng
cao. Khác với nông thôn truyền thống, sản xuất nông nghiệp của nông thôn
mới bao gồm cơ cấu các ngành nghề mới, các điều kiện sản xuất nông
nghiệp hiện đại hoá, ứng dụng phổ biến khoa học kỹ thuật tiên tiến và xây
dựng các tổ chức nông nghiệp hiện đại [30, tr.7].
Từ đó phát triển kinh tế nông thôn góp phần tăng thu nhập cho dân cư

nông thôn ổn định KT - XH.
Giữ gìn văn hóa truyền thống
Trải qua lịch sử phát triển hàng ngàn năm, các làng xóm ở nông thôn
thường được hình thành dựa trên những cộng đồng có cùng phong tục, tập
quán, họ tộc. Người dân trong các làng xóm thường cư xử với nhau dựa trên
quan hệ huyết thống và phong tục, tập quán. Cũng chính văn hoá quê hương
đã sản sinh ra những sản phẩm văn hoá tinh thần quý báu như lòng kính già
yêu trẻ, giúp nhau canh gác bảo vệ, giản dị tiết kiệm, thật thà đáng tin, yêu
quý quê hương..., tất cả được sản sinh trong hoàn cảnh xã hội nông thôn
đặc thù. Các truyền thống văn hoá quý báu này đòi hỏi phải được giữ gìn và
8


phát triển trong một hoàn cảnh đặc thù. Môi trường thành thị là nơi có tính
mở cao, con người cũng có tính năng động cao, vì thế văn hoá quê hương ở
đây sẽ không còn tính kế tục. Do vậy, chỉ có nông thôn với đặc điểm sản
xuất nông nghiệp và tụ cư theo dân tộc, dòng tộc mới là môi trường thích hợp
nhất để giữ gìn và kế tục văn hoá quê hương. Ngoài ra, các cảnh quan nông
thôn với những đặc trưng riêng đã hình thành nên màu sắc văn hoá làng xã
đặc thù, thể hiện các tư tưởng triết học như trời đất giao hoà, thuận theo tự
nhiên với sự tôn trọng tự nhiên, mưu cầu phát triển hài hoà cũng như chú
trọng sự kế tục phát triển của các dân tộc.
Bảo vệ môi trường sinh thái
Nói đến nông nghiệp là nói đến cây trồng. Cây trồng, một mặt cung
cấp cho con người những nông sản cần thiết, một mặt có tác dụng cải tạo
môi trường, làm đẹp cảnh quan… do đó, nông nghiệp nói riêng và nông thôn
nói chung có chức năng sinh thái. Thuộc tính sản xuất nông nghiệp đã quyết
định hệ thống sinh thái nông nghiệp mang chức năng phục vụ hệ thống sinh thái,
đất đai canh tác nông nghiệp, hệ thống thuỷ lợi, các khu rừng, thảo nguyên...
phát huy các tác dụng sinh thái như điều hoà khí hậu, giảm ô nhiễm tiếng ồn, cải

thiện nguồn nước, phòng chống xâm thực đất đai, làm sạch đất...
* Vị trí, vai trò của XDNTM đối với sự phát triển KT - XH của
tỉnh Thái Bình
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của nông thôn trong sự phát triển KT - XH
của Tỉnh, Đảng bộ tỉnh sớm có chủ trương lãnh đạo xây dựng phát triển nông thôn
Thái Bình ngày càng giàu đẹp. Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Thái Bình lần thứ
XVIII (2010) xác định: “Tập trung xây dựng nông thôn mới với mục tiêu: sản
xuất phát triển; cuộc sống sung túc; diện mạo sạch sẽ; thôn, xã văn minh và quản
lý dân chủ” [2, tr.44]. Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, qua thực tiễn xây dựng
nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Bình những năm qua đã đạt nhiều kết quả quan
trọng và có vai trò to lớn đối với sự phát triển KT - XH tỉnh Thái Bình.
9


Thứ nhất, xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, đời sống nhân
dân ổn định và phát triển. Thái Bình là tỉnh nông nghiệp, có gần 90% số dân
sống ở nông thôn và hơn 70% lao động làm nông nghiệp. Vì vậy, việc
XDNTM đang được thực hiện tích cực. Từ cuối năm 2008, ở cả ba cấp tỉnh,
huyện, xã của Thái Bình đều thành lập Ban chỉ đạo xây dựng thí điểm nông
thôn mới, do đồng chí bí thư cấp ủy làm trưởng ban. Kế hoạch được thực hiện
từ quý 4 năm 2008 và các năm tiếp theo, tùy theo tính chất, quy mô của từng
dự án. Nhưng trước hết là tập trung vào các nội dung như: quy hoạch vùng
sản xuất, vùng dân cư, quy hoạch phát triển hạ tầng KT - XH theo hướng hiện
đại, tạo điều kiện thuận lợi trong sinh hoạt, phát triển văn hóa, giữ gìn môi
trường và phát triển các làng nghề ở mỗi địa phương.
Cùng với sự phát triển kinh tế, Thái Bình còn chú trọng đẩy mạnh phát
triển y tế, giáo dục, xây dựng các thiết chế văn hóa ở nông thôn gắn với nâng
cao dân chủ cơ sở, bảo đảm 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, 100% số
trường học ở tất cả các cấp học được xây dựng kiên cố…

Thứ hai, XDNTM đã tạo diện mạo mới về kết cấu hạ tầng KT - XH
hiện đại cho địa bàn nông thôn tỉnh Thái Bình, cơ cấu kinh tế và các hình thức
tổ chức sản xuất hợp lý. Quy hoạch XDNTM được tập trung chỉ đạo; tuân thủ
quy trình, quy chuẩn; bảo đảm dân chủ công khai, thống nhất trong Đảng và
nhân dân từ đó đã đạt được kết quả to lớn là 100% số xã đạt quy hoạch chung
XDNTM; 100% số xã hoàn thành quy hoạch chi tiết giao thông thủy lợi nội
đồng; có 98% hoàn thành quy hoạch chi tiết khu trung tâm xã: 100% số xã đã
xây dựng đề án XDNTM được phê duyệt; 100% số xã hoàn thành dồn điền đổi
thửa đất nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn được tập trung đầu
tư xây dựng theo bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới: tổng khối lượng đào đắp
bờ vùng, bờ thửa 17,6 triệu m3 đất; nạo vét hàng nghìn km kênh mương, sông
ngòi; cứng hóa 1644,4 km kênh mương. Xây mới nâng cấp 1808,6 km đường
10


giao thông nội đồng và giao thông nông thôn; 106 chợ nông thôn; 187 trường
trung học cơ sở tiểu học và trường mầm non; 51 nhà văn hóa và khu thể thao
xã, 191 nhà văn hóa và khu thể thao thôn.
Thứ ba, XDNTM tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát
triển, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp và dịch vụ. Nông
nghiệp, nông thôn và nông dân là ba lĩnh vực độc lập, nhưng luôn có sự tác
động qua lại, chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau. Phát triển nông nghiệp, nông thôn
và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh
tế thị trường, định hướng XHCN, phù hợp với điều kiện của Tỉnh, để giải
phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Chương trình Mục tiêu quốc gia
XDNTM là chương trình mang tính tổng hợp, sâu, rộng, có nội dung toàn diện,
bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh, quốc
phòng. Mục tiêu chung của Chương trình được xác định: XDNTM có kết cấu hạ
tầng KT - XH từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản
xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp và dịch

vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch. Các vấn đề nông nghiệp,
nông thôn, nông dân của Tỉnh luôn được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển dịch vụ.
Quán triệt tinh thần đó trong thời gian qua, phong trào XDNTM của tỉnh
Thái Bình đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong tỉnh, thu hút sự tham gia
của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của toàn tỉnh. Quá trình XDNTM đã
đạt được nhiều thành tựu. Những thành tựu đó đã góp phần thay đổi toàn diện bộ
mặt nông thôn, tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, là cơ sở
vững chắc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
1.1.2. Những tiềm năng lợi, thế và thực trạng nông
thôn tỉnh Thái Bình trước năm 2008
* Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng
sông Hồng, nằm trong vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp của vùng tam giác tăng
11


trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Thái Bình phía Bắc giáp
Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng, phía Tây và phía Nam giáp
tỉnh Nam Định và Hà Nam, phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ.
Đất đai, địa hình, khí hậu: Là một tỉnh đồng bằng có địa hình tương đối
bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1%, cao trình biến thiên phổ biến từ 1 - 2m so
với mực nước biển, thấp dần từ Bắc xuống Đông Nam. Đất đai Thái Bình phì
nhiêu màu mỡ, nổi tiếng “bờ xôi ruộng mật” do được bồi tụ bởi hệ thống sông
Hồng và sông Thái Bình. Hệ thống công trình thuỷ lợi tưới tiêu thuận lợi, góp
phần làm nên cánh đồng 14 - 15 tấn/ha và đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu
nông nghiệp để xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha trở lên.
Tổng diện tích đất tự nhiên của Tỉnh là 154.654ha trong đó: diện tích
cấy trồng hàng năm có 92.075 ha, diện tích ao hồ đã đưa vào sử dụng là 6.176
ha. Hầu hết đất đai đã được cải tạo hàng năm có thể cấy trồng được 3 - 4 vụ,

diện tích có khả năng canh tác vào vụ đông khoảng 400.000ha. Ngoài diện
tích cấy lúa, đất đai Thái Bình rất thích hợp cho các loại cây thực phẩm (khoai
tây, dưa chuột, hành, tỏi, lạc, đậu tương, ớt xuất khẩu…); cây công nghiệp
ngắn ngày (đay, dâu, cói…); cây ăn quả nhiệt đới (cam, táo, ổi bo, vải thiều,
nhãn, chuối,…); trồng hoa, cây cảnh.…
Khí hậu Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa
nhiều từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 năm trước đến
tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 oC - 24oC (thấp nhất là
4oC, cao nhất là 38oC). Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.400 mm - 1.800
mm. Số giờ nắng trong năm là 1.600 - 1.800 giờ, lượng nước bốc hơi 728
mm/năm. Độ ẩm trung bình vào khoảng 85oC - 90oC.
Tài nguyên khoáng sản: Thái Bình có mỏ khí đốt Tiền Hải (C) đã được
khai thác từ năm 1986, sản lượng khai thác bình quân mỗi năm đạt hàng chục
triệu mét khối khí thiên nhiên phục vụ cho sản xuất đồ sứ, thuỷ tinh, gạch ốp
lát, xi măng trắng…thuộc khu công nghiệp Tiền Hải. Năm 2003, Tổng công
12


ty dầu khí Việt Nam tiến hành nổ địa chấn 3D lô 103/107 vịnh Bắc Bộ để
chuẩn bị cho việc khai thác khí ngoài khơi vịnh Bắc Bộ đưa vào phục vụ phát
triển công nghiệp của Tỉnh (trữ lượng ước tính ban đầu khoảng 7 tỷ m 3). Mỏ
nước khoáng Tiền Hải ở độ sâu 450m có trữ lượng tĩnh khoảng 12 triệu m 3,
được khai thác từ năm 1992, sản lượng khai thác đạt 9,5 triệu lít/năm với các
nhãn hiệu nổi tiếng như nước khoáng Vital, nước khoáng Tiền Hải. Gần đây,
vùng đất xã Duyên Hải huyện Hưng Hà đã thăm dò và phát hiện mỏ nước
nóng 57oC ở độ sâu 178 m. Các mỏ nước này đang được đầu tư khai thác
phục vụ phát triển du lịch và chữa bệnh cho nhân dân.
Tiềm năng về nguồn nhân lực: Dân số Thái Bình là 1.786 nghìn người
đứng thứ 9 cả nước, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,83%.
Lao động trong độ tuổi 1.092 nghìn người. Lao động đang làm việc

trong các ngành kinh tế: Ngành nông nghiệp 640,2 nghìn người, chiếm
64,4% ; ngành công nghiệp 178,7 nghìn người, xây dựng 30,6 nghìn người,
công nghiệp và xây dựng chiếm 21% ; Dịch vụ 461,5 nghìn người chiếm
14,6%. Lao động có tri thức chiếm 6,5%, Lao động có nghề chiếm 30%, Lao
động phổ thông 63,5%. Tỉnh có hơn 146.000 công nhân viên chức, 77.000 lao
động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Đơn vị hành chính: Thái Bình có 1 Thành phố, 7 huyện với 10 phường,
9 thị trấn và 267 xã (Tổng cộng 286 xã, phường, thị trấn) 1991 thôn làng, tổ
dân phố, 1200 cơ quan, đơn vị. Hộ gia đình 559.634.
Truyền thống con người Thái Bình: Cùng với những tiềm năng, lợi thế
về tự nhiên, kinh tế, xã hội thì yếu tố con người và những nét văn hóa truyền
thống cũng là một trong những nguồn động lực để tạo sức bật cho tỉnh vươn
lên trong mỗi giai đoạn lịch sử. Thái Bình là một tỉnh có bề dày truyền thống
yêu nước, nhân dân dũng cảm trong chiến đấu chống ngoại xâm, cần cù sáng
tạo trong lao động sản xuất. Từ thế kỷ 18, Lê Quý Đôn - nhà bác học uyên
bác và nhà ngoại giao nổi tiếng đã làm rạng danh trí tuệ Thái Bình và Việt
13


Nam. Tiếng trống năm 1930 của nhân dân Tiền Hải cùng với tiếng trống Xô
Viết - Nghệ Tĩnh báo hiệu bắt đầu cuộc đấu tranh bất khuất của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chống đế quốc và phong kiến.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ biết bao người con
thân yêu của Thái Bình đã lên đường nhập ngũ, và hi sinh vì Tổ quốc. Trong
lao động sản xuất Thái Bình còn nổi lên phong trào thâm canh, tăng năng suất
nông nghiệp. Đặc biệt sản xuất lúa, là tỉnh đầu tiên đạt 5 tấn/ha của miền Bắc
XHCN. Khẩu hiệu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”
không chỉ là lời hiệu triệu của riêng quân dân Thái Bình mà là lời hiệu triệu
của cả miền Bắc XHCN để dốc sức người, sức của chi viện cho miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, Thái Bình tiếp tục phát huy truyền
thống tự hào đó, ra sức lao động sản xuất để xây dựng tỉnh giàu mạnh. Nông
nghiệp vẫn là thế mạnh của Tỉnh. Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, với
diện tích mặt bằng 154.654ha, trong đó khoảng 106.000ha đất canh tác nông
nghiệp, dân số gần 1,8 triệu người với gần 90% dân số sống ở nông thôn vì vậy
đây là thế mạnh của Tỉnh để Đảng bộ và nhân dân Thái Bình thực hiện thắng lợi
nghị quyết số 26, Hội nghị trung ương 7 khóa X “về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn”; Quyết định số 491, số 800 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ
tiêu chí quốc gia về XDNTM và phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về
XDNTM giai đoạn 2010 - 2020, làm cho bộ mặt nông thôn của Tỉnh thay đổi có
nền nông nghiệp và công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.
* Thực trạng nông thôn tỉnh Thái Bình trước năm 2008
Thái Bình là một tỉnh có truyền thống cách mạng, với truyền thống đó
trước năm 2008, Đảng bộ và nhân dân trong toàn tỉnh đã đoàn kết thống nhất
nỗ lực vượt qua mọi khó khăn và đạt được những thành tựu hết sức to lớn trên
mọi lĩnh vực. Trong đó, đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là thế mạnh
luôn được Tỉnh đặc biệt quan tâm. Nhờ đó mà khu vực nông thôn có bước
phát triển khá toàn diện. Sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 5,1% năm, cơ
14


cấu nông thôn có bước chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất nông
nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đời sống nhân dân không
ngừng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần...
Bên cạnh những thành tựu đó, khu vực nông thôn của Tỉnh vẫn còn
những tồn tại cơ bản: quy hoạch nông nghiệp nông thôn chắp vá, không đồng
bộ đặc biệt công tác dồn điền đổi thửa còn chậm, tính đến năm 2008 mới có 07
trên 267 xã hoàn thành quy hoạch dồn điền đổi thửa đạt 2,6%. Kênh mương
nội đồng, hệ thống thủy lợi kém hiệu quả, toàn tỉnh đến năm 2008 mới kiên cố
được 455km kênh mương chủ yếu là kênh cấp I còn lại là kênh đất từ đó đạt

hiệu quả thấp trong quá trình hoạt động; các trạm bơm điện do hợp tác xã quản
lý xuống cấp nặng (192 trạm bơm xuống cấp) [81, tr.1].
Hạ tầng KT - XH: Các trục đường giao thông xóm phần lớn không đạt bề
rộng theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải, các trục liên xã do xây dựng từ
những năm cuối thập niên 90 nên phần lớn đã xuống cấp nặng, giao thông nông
thôn nội đồng phần lớn là đường đất, kết hợp làm bờ kênh mương nên chưa đáp
ứng được yêu cầu cơ giới hóa. Một số trường học các cấp do xây dựng lâu nên đã
xuống cấp trầm trọng. Trang thiết bị phục vụ cho học tập, giảng dạy nhiều trường
còn thiếu chưa đáp ứng được với yêu cầu giáo dục, đào tạo đề ra.
Kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, chậm chuyển
sang sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn từ đó số hộ nghèo còn chiếm tỷ
lệ cao. Tổng số hộ nghèo là 51.249 trên 559.634 hộ chiếm tỷ lệ 9,16%, trong
đó chủ yếu là ở vùng nông thôn; Hình thức tổ chức sản xuất đơn điệu, hiệu
quả hoạt động thấp, quy mô sản xuất nông hộ nhỏ, đang cản trở tiến trình sản
xuất hàng hóa có sức cạnh tranh cao, thiếu động lực phát triển. Có tới 266
trên 267 xã có hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp nhưng chủ yếu chỉ cung ứng
các khâu dịch vụ cơ bản như làm đất, bảo vệ thực vật và thu hoạch; còn chế
biến, tín dụng... chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt, hệ thống kinh
doanh thuốc bảo vệ thực vật còn nhiều bất cập, gây ô nhiễm môi trường.
15


Chất lượng thuốc ở nhiều cửa hàng không đảm bảo. Cơ cấu kinh tế nông
thôn lạc hậu, tỷ trọng nông nghiệp còn rất cao. Cơ cấu kinh tế toàn tỉnh
trong đó nông nghiệp chiếm 42,7%, công nghiệp và xây dựng cơ bản là
28,3%, dịch vụ thương mại 29%; kết cấu hạ tầng nông thôn không theo
kịp yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống. Bản sắc văn hoá và đời sống
văn hóa làng xã đang bị biến dạng. Thu nhập của nông dân chậm được cải
thiện so với thu nhập chung của xã hội [1, tr.30].
Tóm lại, hiện trạng chung khu vực nông thôn toàn tỉnh Thái Bình trước

năm 2008, mặc dù đã có bước phát triển khá toàn diện, đời sống nhân dân
không ngừng được nâng cao, nhưng vẫn thấp nhiều so với khu vực đô thị. Cơ
sở vật chất, hạ tầng cơ sở được quan tâm đầu tư, nhưng thiếu tính đồng bộ và
chưa đạt chuẩn về quy mô, chất lượng, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thúc đẩy
phát triển sản xuất, đời sống. Các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và tổ hợp
tác đều có ở các xã nông thôn nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao, thiếu tính
bền vững; đời sống văn hóa tinh thần của nông dân tuy có nhiều đổi mới,
nhưng bản sắc văn hoá làng xã, nếp sống nông thôn có nhiều lai căng, biến
dạng... Tình hình an ninh trật tự tuy bảo đảm, hoạt động của các tổ chức đoàn
thể đều khắp, nhưng còn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định.
1.1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về xây dựng nông thôn mới
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay luôn khẳng định tầm
quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong quá trình lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng tiếp tục khẳng định sự nghiệp CNH,
HĐH nông thôn là một trong những nội dung, nhiệm vụ cơ bản của CNH, HĐH
đất nước. Nội dung này được thể hiện cụ thể trong các văn kiện Nghị quyết của
Đảng, đặc biệt là Đại hội X đã xác định: “Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn... Gắn phát triển kinh
tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông
16


thôn với thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã
hội”. Ngày 5 tháng 8 năm 2008, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26 - NQ/TW về Nông nghiệp, nông
dân, nông thôn. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X đã đánh giá những thành tựu
trong vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn sau hơn 20 năm đổi mới đó là:
Bộ mặt nông thôn thay đổi, đời sống vật chất, tinh thần nhân dân ngày càng cải
thiện. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường, dân chủ cơ sở

được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế
chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm
năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn
kém bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới sản xuất nông nghiệp
còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng,
giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Nông nghiệp và nông thôn phát
triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng KT - XH còn yếu kém, môi trường
ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn
chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ
hộ nghèo cao; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, còn lớn.
Trước thực trạng nêu trên, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục xây dựng và phát
triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn nhằm không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn. Xây dựng nền nông nghiệp
phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, xã hội nông thôn ổn định, giàu bản
sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công,
nông, trí vững mạnh, tạo nền tảng KT - XH và chính trị vững chắc cho sự
nghiệp CNH, HĐH xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Đồng thời, nghị quyết đã chỉ rõ những quan điểm về các vấn đề nông
nghiệp, nông dân và nông thôn đó là:
17


Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để
phát triển KT - XH bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh
quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường
sinh thái của đất nước.
Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải

quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước... Trong mối
quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ
thể của quá trình phát triển XDNTM.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ
của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết phải khơi dậy tình thần
yêu nước, tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội
nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm
đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và XDNTM,
nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu tổng quát: Xây dựng nông thôn có kết cấu hạ tầng KT - XH hiện
đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý; xã hội nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao; hệ thống chính trị ở
nông thôn được tăng cường. Củng cố liên minh công - nông - trí vững mạnh, tạo
nền tảng phát triển KT - XH và chính trị vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [3, tr.2].
Mục tiêu đến năm 2020: Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt
3,5 - 4%/năm; sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả; “nâng cao thu nhập của dân
cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn
khoảng 30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên
50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%”. Phát triển đồng bộ
kết cấu hạ tầng nông thôn, như hệ thống thuỷ lợi, giao thông suốt bốn mùa tới
hầu hết các xã và cơ bản có đường ôtô tới các thôn, đảm bảo cơ bản điều kiện
18


học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng
nông thôn. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; nâng cao
trình độ và vị thế của giai cấp nông dân; nâng cao chất lượng môi trường
nông thôn [3, tr.2].
Một số nhiệm vụ giải pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông

dân, nông thôn
Thứ nhất, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại,
đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Thứ hai, xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn gắn với phát
triển các đô thị.
Thứ ba, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn,
nhất là vùng khó khăn.
Thứ tư, đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có
hiệu quả ở nông thôn.
Thứ năm, phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa
học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông
nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn.
Thứ sáu, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các
nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân.
Thứ bảy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy
sức mạnh của các đoàn thể chính trị, xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011), trong đó đã xác định những định hướng lớn về phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại là: “Coi trọng phát triển
nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn
với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới” [27, tr.75]. Chiến lược
19


phát triển KT - XH 2011 - 2020 đã xác định rõ định hướng trong XDNTM:
Quy hoạch phát triển nông thôn gắn với phát triển đô thị và bố trí các điểm
dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ
môi trường. Triển khai chương trình nông thôn mới phù hợp với đặc điểm

từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và
phát huy những nét văn hóa đặc sắc của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi
khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả chương
trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm. Thực hiện tốt các
chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách, chương
trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí hợp lý dân cư, bảo đảm an toàn ở
những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven sông, ven biển [27, tr.123].
Thực hiện đường lối của Đảng, trong thời gian qua, phong trào XDNTM
đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước, thu hút sự tham gia của cả
cộng đồng, phát huy được sức mạnh của toàn xã hội
Trên cơ sở Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008
của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định nhiệm vụ xây dựng “Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới”giai đoạn 2010 - 2020, Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010.
Mục tiêu chung của quyết định là: XDNTM có kết cấu hạ tầng KT - XH
từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn
với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn
hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững;
đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
20


Mục tiêu cụ thể:
Một là: Đến năm 2015: 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới (theo Bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn mới).

Hai là: Đến năm 2020: 50% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới (theo Bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn mới) [45, tr.1].
Như vậy, Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về XDNTM
đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI được thể hiện rõ nét, hoàn chỉnh và
thống nhất chỉ đạo trên phạm vi toàn quốc. Những chủ trương, quan điểm về
XDNTM trên đây của Đảng và Chính phủ là cơ sở quan trọng, tạo tiền đề trực
tiếp, để Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo XDNTM đạt hiệu quả cao, phù hợp
với đặc điểm của địa phương.
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về xây dựng nông thôn
mới (2008 - 2015)
1.2.1. Phương hướng, mục tiêu
* Về phương hướng
Quán triệt nghiêm túc các chủ trương, quan điểm của Đảng và Chính
phủ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã ban hành các chương trình, chủ
trương và nghị quyết nhằm lãnh đạo, chỉ đạo XDNTM của Tỉnh cụ thể: ngày
01/9/2008 ban hành chủ trương xây dựng mô hình điểm nông thôn mới của
Tỉnh, ngày 23/02/2009 Thường trực Tỉnh ủy đã chọn 08 xã làm điểm xây
dựng mô hình nông thôn mới.
Ngày 16/10/2008, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Chương trình hành
động số 23-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW. Chương trình xác
định phương hướng là: Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại và
XDNTM là hai nhiệm vụ trọng tâm. Phải có bước đi, lộ trình thích hợp từ chỉ
đạo điểm đến toàn diện; đồng bộ từ chủ trương của cấp ủy đến thể chế hóa
thành đề án, cơ chế chính sách và chỉ đạo thực hiện của chính quyền; lồng
ghép, huy động tổng hợp các nguồn vốn từ ngân sách đồng thời phát động
phong trào thi đua sâu rộng trong toàn tỉnh, huy động sự đóng góp của toàn xã
21


hội cho XDNTM. Tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp có tính đột phá

như: quy hoạch, dồn điền, đổi thửa, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học,
công nghệ, cơ giới hóa và tổ chức sản xuất [52, tr.2].
Ngày 28/4/2011, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã ra Nghị quyết số
02-NQ/TU về XDNTM giai đoạn 2011 - 2015 định hướng đến năm 2020.
Nghị quyết đã đề ra phương hướng: Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của toàn Đảng bộ; xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; khai thác mọi nguồn lực; phát triển
kinh tế nhanh, bền vững; đẩy mạnh phát triển văn hóa - xã hội và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng đến năm 2020, Thái
Bình trở thành tỉnh nông thôn mới, có nền nông nghiệp và công nghiệp theo
hướng hiện đại [59, tr.2].
* Về mục tiêu
Mục tiêu tổng quát
XDNTM có nền sản xuất phát triển; kết cấu hạ tầng KT - XH đồng bộ,
từng bước hiện đại; văn hóa - xã hội tiến bộ; dân chủ được phát huy; môi
trường sinh thái được bảo vệ; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày
càng được nâng cao; an ninh, trật tự được bảo đảm; hệ thống chính trị được
củng cố vững chắc [59, tr.3].
Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2015, phấn đấu tất cả các xã đạt 10 tiêu chí nông thôn mới trở
lên; trong đó, 70 xã trở lên hoàn thành XDNTM, (riêng 8 xã làm điểm của
Tỉnh hoàn thành vào năm 2013)
Đến năm 2020, các xã còn lại đạt 15 tiêu chí nông thôn mới trở lên; 6
huyện trở lên đạt tiêu chí nông thôn mới [59, tr.3].
1.2.2. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu xây dựng nông thôn mới
* Tập trung tuyên truyền, vận động làm chuyển biến sâu sắc nhận
thức, hành động của nhân dân tích cực XDNTM
22



Cấp uỷ, chính quyền, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể từ tỉnh đến
cơ sở tập trung tuyên truyền để các tầng lớp nhân dân, nhất là nông dân nhận
thức đầy đủ, sâu sắc các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; xác định XDNTM là
sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, có nhiều khó khăn, phức tạp, được thực hiện bền bỉ, lâu dài. Từ đó, đề
cao ý thức trách nhiệm, thống nhất nhận thức và hành động, hăng hái đóng
góp trí tuệ, công sức, tiền của XDNTM. Kiên quyết khắc phục tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, trông chờ, ỷ lại; tâm lý, tập quán sản xuất nhỏ; chống tập tục lạc
hậu và lối sống không lành mạnh [59, tr.3].
* Quy hoạch, quản lý quy hoạch XDNTM
Xây dựng quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết khu trung tâm xã, vùng
sản xuât nông nghiệp hàng hóa tập trung và hệ thống giao thông, thủy lợi nội
đồng cơ bản theo tiêu chuẩn của các bộ, ngành Trung ương và của Tỉnh trên
từng lĩnh vực, sát với thực tế của từng địa phương, có mối liên hệ chặt chẽ
giữa các xã trong huyện, giữa các huyện, thành phố trong tỉnh và đáp ứng yêu
cầu cơ bản, lâu dài. Quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết phải được thực hiện
đúng quy trình, có sự tham gia trực tiếp của nhân dân địa phương. Xây dựng
và thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Thực hiện công khai quy
hoạch, tăng cường quản lý nhà nước và sự giám sát của nhân dân trong quá
trình thực hiện quy hoạch. Việc sửa đổi, bổ sung quy hoạch theo đúng quy
định của pháp luật. Định kỳ kiểm tra việc thực hiện quy hoạch ở cơ sở. Phấn
đấu hoàn thành quy hoạch chung XDNTM; quy hoạch chi tiết khu trung tâm
xã, vùng sản xuầt hàng hóa tập trung và hệ thống giao thông, thủy lợi nội
đồng trong quý II năm 2011 [59, tr.3].
* Phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập gắn với chuyển dịch cơ cấu lao
động ở nông thôn
Phát triển nông nghiệp, thủy sản
23



Thực hiện dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp gắn với xây dựng, chỉnh
trang hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng theo quy hoạch XDNTM. Phấn
đấu có 30% số xã trở lên hoàn thành dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp trong
năm 2011; hoàn thành dồn điền, đổi thửa ở tất cả các xã trong năm 2013.
Tổ chức sản xuất trong các vùng tập trung để tạo ra khối lượng sản
phẩm lớn, ổn định, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu chế biến và nhu cầu thị
trường; đưa nhanh các cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao, có ưu thế về thị trường vào sản xuất; chú trọng bảo vệ môi trường sinh
thái. Thực hiện tốt việc gắn kết “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà
doanh nghiệp, Nhà nước); đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ
và cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp. Xây dựng thí điểm các khu nông
nghiệp hiện đại trên cơ sở tích tụ ruộng đất, do các doanh nghiệp hoặc hợp tác
xã tổ chức sản xuẩt theo phương thức công nghiệp.
Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản, coi trọng hình thức nuôi thâm canh,
bán thâm canh; thực hiện có hiệu quả chủ trương phát triển nuôi ngao theo quy
hoạch. Mở rộng và nâng cao hiệu quả đánh bắt hải sản xa bờ [59, tr.4].
Phát triển công nghiệp, nghề và làng nghề
Duy trì và phát triển nghề, làng nghề truyền thống, phát triển ngành nghề
theo nhu cầu thị trường và thế mạnh của địa phương; chú trọng phát triển nghề,
làng nghề mới có giá trị, hiệu quả sản xuất cao, tạo việc làm cho nhiều lao động.
Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, khuyển khích, hỗ trợ
phát triển nghề, làng nghề và doanh nghiệp trong làng nghề.
Xây dựng các cụm công nghiệp ở khu vực nông thôn theo quy hoạch được
duyệt; đồng thời, đẩy mạnh thu hút các dự án đầu tư, ưu tiên các dự án công nghiệp
chế biến nông sản, thực phẩm, giải quyết nhiều việc làm ổn định, lâu dài, bảo đảm
thu nhập ngày càng cao và thực hiện các chế độ cho người lao động theo quy định,
góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn [59, tr.4].
Phát triển dịch vụ

24


Đẩy mạnh phát triển dịch vụ theo hướng văn minh, từng bước hiện đại, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của sản xuất và đời sống. Chú trọng xây dựng điểm
thương mại, dịch vụ và thu hút đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống chợ ở khu
vực nông thôn theo quy hoạch; ưu tiên chợ đầu mối, vùng có nhiều khó khăn.
Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu sản phẩm nông
nghiệp, thuỷ sản. Tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, thực
phẩm và sản phẩm nghề, làng nghề [59, tr.5].
Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất
Trên cơ sở phát triển các yếu tố của lực lượng sản xuất. Vùng sản xuất
tập trung với những thửa ruộng lớn, được áp dụng cơ giới hoá trong sản xuất, tạo
điều kiện và tích cực thúc đẩy hình thành các quan hệ sản xuất, hình thức tổ chức
sản xuất mới, phù hợp. Đổi mới phương thức, nội dung hoạt động, phát huy vai
trò của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp; khuyến khích phát triển các hình thức tổ
chức: Tổ hợp tác, hợp tác xã tự nguyện, doanh nghiệp đầu tư, liên kết đầu tư trong
sản xuất nông nghiệp, nghề, làng nghề [59, tr.5].
* Phát triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao và bảo vệ môi
trường sinh thái
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chăm lo giáo dục mầm non,
củng cố vững chắc kết quả phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở,
tiếp tục thực hiện phổ cập trình độ trung học cho thanh niên. Đẩy mạnh đào
tạo nghề gắn với giải quyết việc làm theo nghề đào tạo cho lao động ở nông
thôn. Tạo điều kiện và phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của các trung tâm
học tập cộng đồng để nâng cao dân trí và chuyển giao tiến bộ khoa học - công
nghệ đến với nông dân.
Tiếp tục nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân
và tăng cường công tác y tế dự phòng. Đẩy mạnh công tác dân số, kế hoạch
hóa gia đình; tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và thực hiện tốt bình


25


×