Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐẢNG bộ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH đạo xây DỰNG NÔNG THÔN mới từ năm 2008 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.47 KB, 101 trang )

“Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm
2008 đến năm 2015”
Việt Nam là một nước nơng nghiệp, do đó nơng thơn chiếm giữ vai trò
rất quan trọng trong tổ chức đời sống xã hội. Nông thôn Việt Nam không chỉ
là địa bàn sản xuất, cung cấp lương thực, thực phẩm của cả xã hội mà còn là
nơi để người dân Việt Nam bám trụ trong cuộc đấu tranh chống các thế lực
ngoại bang xâm lược. Nói tới vai trị của nơng thơn, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã khẳng định: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền
kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà,
chính phủ trơng mong vào nơng dân, trơng cậy vào nông nghiệp một phần
lớn. Nông dân ta giầu thì nước ta giầu. Nơng nghiệp ta thịnh thì nước ta
thịnh” [32, tr.215 - 216].
Ngày nay, khi cả nước đang tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa với mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại,
thì nơng thơn càng chiếm giữ vai trị quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi lẽ,
khơng thể có một nước cơng nghiệp trong khi nơng thơn cịn nghèo nàn, lạc
hậu. Vậy mục tiêu đó có thể thực hiện được hay khơng? Giải pháp để thực
hiện mục tiêu đó như thế nào? là những vấn đề đặt ra trong quá trình lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nhận thức rõ điều đó, ngày 05/8/2008, Hội
nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã họp và ban
hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Những quan điểm, mục tiêu, giải pháp mà Nghị quyết đưa ra nhằm xây dựng
nơng thơn có kinh tế phát triển, với các hình thức sản xuất tiên tiến, hiệu quả;
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Chủ trương trên đã đáp
ứng được mong ước của nhân dân. Vì vậy, đã tạo nên phong trào thi đua sôi
nổi xây dựng NTM trên khắp các địa phương trong cả nước.
Nam Định là vùng trọng điểm trồng lúa của khu vực đồng bằng Bắc bộ, có
điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Trong những

1



năm 2008 - 2015, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh, Chương trình xây dựng
NTM đã thu được nhiều kết quả quan trọng, đưa Nam Định trở thành một trong
những địa phương dẫn đầu cả nước về xây dựng NTM. Tuy nhiên, quá trình xây
dựng NTM ở Nam Định vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là vấn đề về chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; vấn đề tăng thu nhập cho cư dân nông thôn; vấn
đề giảm nghèo…, gây cản trở cho quá trình xây dựng NTM trong thời gian qua.
Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan cần tiếp tục làm tốt công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo
xây dựng NTM trong những năm 2008 - 2015, rút ra những kinh nghiệm quý báu,
cung cấp những luận cứ quan trọng để Đảng bộ Tỉnh tiếp tục hồn thiện chủ
trương, chính sách lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH
VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2008 - 2015)

1.1. Những nhân tố tác động đến quá trình đảng bộ tỉnh Nam

Định lãnh đạo xây dựng nông thôn mới (2008 - 2015)
1.1.1. Một số vấn đề chung về nông thôn và xây dựng nông thôn mới
Quan niệm về nông thôn: Đến nay, khái niệm nông thôn được thống nhất
với quy định tại Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cụ thể: “Nông thôn là phần lãnh thổ
không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi
cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã” [10, tr.1].
Quan niệm về NTM: Là nơng thơn có kinh tế phát triển, đời sống vật chất,
văn hoá, tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được nâng cao, giảm
dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu
các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị, đóng vai trị làm
chủ NTM. NTM có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được

xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa
2


nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nơng thơn ổn định, giàu bản
sắc văn hố dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống
chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Quan niệm về xây dựng NTM: Xây dựng NTM là cuộc cách mạng và
cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nơng thơn đồng lịng xây dựng
thơn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất tồn
diện (nơng nghiệp, cơng nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hố, mơi trường và
an ninh nơng thơn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của
người dân được nâng cao. Xây dựng NTM là sự nghiệp cách mạng của toàn
Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. NTM khơng chỉ là vấn đề KT - XH,
mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp. Xây dựng NTM giúp cho nơng dân
có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đồn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông
thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Vai trị của nơng thơn trong sự nghiệp phát triển đất nước
Trong lịch sử, nơng thơn đóng vai trị vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển của dân tộc Việt Nam. Vai trị đó được thể hiện trên tất cả các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng - an ninh.
Trước hết, nông thôn là địa bàn sản xuất và cung cấp lương thực, thực
phẩm cho tiêu dùng của cả xã hội. Người nông dân ở nông thôn sản xuất lương
thực, thực phẩm để nuôi sống họ và cung cấp cho nhân dân cả nước. Sự gia
tăng dân số là sức ép to lớn đối với sản xuất nông nghiệp trong việc cung ứng
đủ lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội. Vì vậy, sự phát triển bền vững nơng
thơn sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu lương thực và thực phẩm tiêu dùng cho toàn
xã hội và nâng cao năng lực xuất khẩu các mặt hàng này cho quốc gia.
Với 74,8% số dân sống bằng nông nghiệp, khu vực nông thôn thực sự là
nguồn nhân lực dồi dào cho khu vực thành thị. Sự thâm nhập của lao động vào

thành thị cũng như sự gia tăng dân số đều đặn ở các vùng thành thị là không đủ
để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế quốc gia. Nếu việc di chuyển

3


nhân công ra khỏi nông nghiệp sang các ngành khác bị hạn chế thì sự tăng
trưởng sẽ bị ảnh hưởng và việc phát triển kinh tế sẽ phiến diện. Vì vậy, phát
triển bền vững nơng thơn sẽ góp phần làm ổn định kinh tế của quốc gia.
Hơn thế nữa, nông thơn cịn là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm
của khu vực thành thị hiện đại. Nếu thị trường rộng lớn ở nông thôn được khai
thông, thu nhập người dân nông thôn được nâng cao, sức mua của người dân
tăng lên, cơng nghiệp có điều kiện thuận lợi để tiêu thụ sản phẩm sản xuất của
tồn ngành, khơng chỉ hàng tiêu dùng mà cả các yếu tố đầu vào của nơng
nghiệp. Phát triển nơng thơn sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển công nghiệp và
những ngành sản xuất khác trên phạm vi tồn xã hội.
Nơng thơn có rất nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, bao gồm nhiều tầng
lớp, nhiều thành phần khác nhau. Mỗi sự biến động dù tích cực hay tiêu cực đều
sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc
phịng của cả nước. Do đó, sự phát triển và ổn định nơng thơn sẽ góp phần quan
trọng trong việc đảm bảo ổn định tình hình của cả nước.
Nông thôn chiếm đại đa số nguồn tài nguyên, đất đai, khoáng sản, động
thực vật, rừng, biển, nên sự phát triển bền vững nơng thơn có ảnh hưởng to
lớn đến việc bảo vệ môi trường sinh thái; việc khai thác, sử dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên khu vực nông thôn bảo đảm cho sự phát triển lâu dài và
bền vững của đất nước.
Vai trò của phát triển nơng thơn cịn thể hiện trong việc gìn giữ và tô
điểm cho môi trường sinh thái của con người, tạo sự gắn bó hài hồ giữa con
người với thiên nhiên và hình thành những nơi nghỉ ngơi trong lành, giải trí
phong phú, vùng du lịch sinh thái đa dạng và thanh bình, góp phần nâng cao

cuộc sống tinh thần cho con người.
Thực tiễn các nước đã chứng minh việc tập trung phát triển các vùng đô
thị sẽ dẫn đến sự lạc hậu của các vùng nơng thơn. Chính sự lạc hậu này là một
trong những nguyên nhân tạo nên sự suy thoái kinh tế, đã và đang làm chậm lại

4


tốc độ tăng trưởng của các khu vực đô thị và của cả nền kinh tế. Vì vậy, muốn
phát triển đất nước, Việt Nam cần có những chính sách thúc đẩy sự phát triển
của khu vực nông thôn.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Nam Định
* Điều kiện tự nhiên
Nam Định là một tỉnh ven biển phía Đơng Nam đồng bằng châu thổ
Sơng Hồng, với tọa độ địa lý từ 19 độ 55 phút đến 20 độ 16 phút vĩ độ Bắc và
106 độ đến 106 độ 33 phút kinh độ Đông, cách thủ đô Hà Nội 90 km về phía
Nam (theo quốc lộ 1A qua Hà Nam) và cách thành phố Hải Phòng 80 km về phía
Tây (theo quốc lộ 10 qua Thái Bình). Phía Đơng, Nam Định giáp tỉnh Thái Bình,
phía Tây giáp tỉnh Ninh Bình, phía Nam và Đơng Nam giáp biển Đơng, phía Bắc
giáp tỉnh Hà Nam. Diện tích tự nhiên của Nam Định là 1.651,4 km2, bằng khoảng
0,5% diện tích tự nhiên cả nước, với số dân là 1.839.900 người, bằng khoảng
2,47% dân số cả nước, mật độ dân số là 1.113người/km2 [21, tr.2].
Tỉnh Nam Định có 9 đơn vị hành chính cấp huyện và 1 thành phố trực thuộc
tỉnh với 194 xã, 20 phường cùng 15 thị trấn, trong đó có 9 thị trấn huyện lỵ và 6 thị
trấn độc lập khác trực thuộc huyện. Nam Định là vùng đất đang phát triển với nhiều
tiềm năng, lợi thế về nông nghiệp, chăn nuôi, thủy hải sản, thủ công nghiệp…
Đặc điểm khí hậu Nam Định mang tính chất chung của khí hậu đồng bằng
Bắc bộ, là khí hậu chí tuyến gió mùa ẩm, có mùa đơng lạnh khơ do chịu tác động
mạnh của gió mùa Đơng Bắc. Mặt khác, khí hậu Nam Định cũng có những sắc
thái riêng do vị trí Đơng Nam giáp biển. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 240C, độ ẩm trung bình năm 83 - 84%, với lượng mưa trung bình hàng năm là

1.400mm, chia làm 2 mùa rõ rệt, số giờ nắng trong năm khoảng 1.650 -1.700 giờ.
Nam Định có hệ thống sơng ngòi dày đặc với tổng chiều dài khoảng
530,1 km, trong đó riêng bốn sơng lớn: sơng Hồng, sơng Đáy, sơng Nam
Định và sông Ninh Cơ dài 251 km.
* Điều kiện kinh tế - xã hội:

5


Thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, KT - XH tỉnh
Nam Định đã có những chuyển biến tích cực và dần đi vào thế ổn định, phát
triển: GDP tăng bình quân 7,65%/năm (2001- 2005), sản xuất nơng nghiệp có
bước phát triển mạnh, sản xuất cơng nghiệp dần được khôi phục và phát triển.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng nâng dần tỷ trọng công
nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Các vùng kinh tế trọng điểm được quan
tâm đầu tư phát triển. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, thu nhập
bình quân đầu người theo giá hiện hành đã tăng từ 5,14 triệu đồng/năm (năm
2005) lên 14,4 triệu đồng/năm (năm 2010).
Bên cạnh những thuận lợi về mạng lưới giao thông phục vụ cho phát

triển kinh tế, thế mạnh nổi bật của Tỉnh là có lực lượng lao động dồi dào và
các giải pháp để tạo việc làm cho người lao động được Tỉnh đặc biệt quan tâm.
Đến năm 2015, với số dân trên 2,3 triệu người, vốn cần cù, thơng minh, giàu
tiềm năng, nhưng GDP bình qn đầu người vẫn thấp so với các tỉnh trong cả
nước. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn chiếm trên 40%. Trong thời gian
tới, nơng nghiệp ở Nam Định vẫn đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm và
quyết định mức thu nhập của nhiều hộ gia đình nơng dân. Cùng với sự phát triển
kinh tế, các vấn đề xã hội của tỉnh Nam Định cũng được giải quyết từng bước
như chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nhất là các vấn đề
công bằng xã hội đạt được thành tựu quan trọng. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo

có bước phát triển mới cả về quy mơ và chất lượng. Tồn tỉnh có 10 trường Cao
đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, trong đó mỗi năm có từ 4000 5000 công nhân kỹ thuật tốt nghiệp ra trường. Hiện nay, trên địa bàn Tỉnh có 3
trường Đại học: Đại học Điều dưỡng, Đại học Dân lập Lương Thế Vinh và Đại
học Sư phạm kỹ thuật. Mục tiêu của Tỉnh đến năm 2010 là nâng tỷ lệ lao động
được đào tạo lên 45- 50%. Đây sẽ là một thuận lợi rất lớn cho sự nghiệp phát
triển KT - XH của Tỉnh nói chung, sự nghiệp xây dựng NTM nói riêng.

6


Cơng tác chăm sóc sức khỏe cho người dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
mạng lưới bệnh viện tuyến thành phố, huyện, các phòng khám đa khoa khu vực và
mạng lưới trạm y tế xã tiếp tục được tăng cường đầu tư, mua sắm trang thiết bị
phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh. Theo thống kê tính đến năm 2005, tồn Tỉnh
có 250 cơ sở y tế, trong đó có 17 bệnh viện, 4 phịng khám đa khoa khu vực và
229 trạm y tế xã, phường với tổng số 3.483 giường bệnh và 4.308 cán bộ y tế.
Như vậy, Nam Định có điều kiện tự nhiên - xã hội hết sức thuận lợi cho
phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, bền vững. Là vùng đất có 2 cửa sông
(sông Hồng, sông Đáy), một dải bờ biển, một vùng đồng bằng trù phú, một
nguồn nhân lực vô tận, nên ở nhiều thời điểm, Nam Định luôn là nơi đầu sóng
ngọn gió của các cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời cũng là nơi đóng góp
sức người, sức của to lớn cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
1.1.3. Thực trạng nông thôn tỉnh Nam Định trước năm 2008
Thực trạng nông thôn tỉnh Nam Định trước năm 2008 được thể hiện rõ
trong phần đánh giá khái quát của chương trình hành động số 23-Ctr/TU ngày
30/9/2008 của Tỉnh ủy Nam Định về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Về thành tựu, Chương trình chỉ rõ: “Trong những năm qua, dưới sự lãnh
đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn và xây dựng giai cấp nông dân của tỉnh đã đạt được
những kết quả quan trọng” [41, tr.1].

Cơ cấu sản xuất nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản chuyển dịch tích cực
theo hướng sản xuất hàng hóa. Giá trị sản xuất nơng, lâm, thủy sản tăng bình
quân trên 3%/năm. Do áp dụng tốt các biện pháp kỹ thuật thâm canh nên năng
suất lúa hàng năm ổn định ở mức cao, đạt 120 tạ/ha/năm, “Sản lượng lương
thực hàng năm đạt gần 1 triệu tấn, trong đó có từ 350.000 - 400.000 tấn lúa
hàng hóa” [41, tr.1]. Sản xuất chăn nuôi tiếp tục chuyển dịch tích cực theo
hướng giảm chăn ni nhỏ lẻ chuyển dần sang chăn ni hàng hóa theo mơ
hình trang trại, gia trại. Sản xuất muối, nuôi trồng và khai thác thủy sản,

7


ngành nghề nơng thơn tiếp tục được duy trì, phát triển.
Kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn như giao thông, thủy lợi, điện, nước
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn được tăng cường đầu tư xây dựng, góp
phần phục vụ tốt sản xuất, đời sống, giảm nhẹ thiên tai. Kinh tế nông nghiệp,
nông thôn phát triển cũng đã góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội
như giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho dân cư nông thơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng KT - XH của Tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, trong những năm trước 2008,
nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nam Định vẫn còn tồn tại một số những hạn chế.
Về vấn đề này, Chương trình hành động cũng chỉ rõ:
Một là, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất còn chậm. Trong nông nghiệp
chủ yếu vẫn là trồng trọt, các ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, chế biến
nông, thủy sản phát triển chưa thực sự ổn định và vững chắc, tốc độ phát triển
chưa tương xứng với tiềm năng.
Hai là, chậm đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất. Hiệu quả hoạt động của
Ban Nông nghiệp xã, Hợp tác xã nơng nghiệp ở một số địa phương cịn hạn chế.
Ba là, kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp, thủy sản
tuy đã được quan tâm đầu tư, nâng cấp, song chưa đáp ứng được yêu cầu của

sản xuất hàng hóa. Hệ thống giao thơng nơng thơn được xây dựng đã lâu nên
ngày càng bị hư hỏng, xuống cấp. Các vấn đề về việc làm, đời sống, nước
sạch và vệ sinh mơi trường nơng thơn cịn nhiều bất cập, tình trạng ơ nhiễm
mơi trường có chiều hướng gia tăng.
Bốn là, một bộ phận không nhỏ lao động nơng thơn thiếu gắn bó với ruộng
đồng, thiếu đầu tư cho sản xuất nông nghiệp. Đời sống vật chất, tinh thần của dân
cư nông thôn tuy đã được cải thiện đáng kể, song tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn nhiều.
Thu nhập, mức sống giữa dân cư nông thôn và thành thị ngày càng chênh lệch.
Từ thực trạng trên đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Nam Định phải có những bước đi,
cách làm phù hợp với thực tiễn của địa phương nhằm phát huy tiềm năng sẵn

8


có của tỉnh để phát triển sản xuất nơng nghiệp, đẩy nhanh quá trình xây dựng
NTM, giảm bớt sự ngăn cách giữa thành thị và nơng thơn.
1.1.4. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng
nông thôn mới
Qua các giai đoạn cách mạng của nước ta, nông dân ln là lực lượng có
đóng góp to lớn về tinh thần, sức lực, tính mạng và của cải, vượt qua mn vàn
hy sinh, gian khổ, góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như quá trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều khẳng định tầm vóc
chiến lược của vấn đề nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn. Chính vì vậy, Đảng ta
ln đặt nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là
cơ sở và lực lượng để phát triển KT- XH bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh, quốc phịng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường
sinh thái.
Mốc son khởi đầu thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước được xác định là
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986). Nhưng, những bước đi đầu tiên trong

cải tiến cơ chế quản lý đã cho thấy sự xuất hiện sớm hơn của tư duy mới, cách
làm mới trong lĩnh vực kinh tế, trong đó có Chỉ thị 100 (tháng 10/1981) của Ban
Bí thư Trung ương Đảng về khốn sản phẩm trong nơng nghiệp, về thay đổi cách
chỉ đạo, tổ chức sản xuất, quản lý HTX nông nghiệp, đã đem lại niềm phấn khởi
và khí thế mới ở nơng thơn, giải phóng sức sản xuất cho hàng triệu nông dân.
Trên cơ sở thắng lợi của cơ chế Khốn 100 (khốn đến nhóm và người
lao động), ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về Đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế trong nông nghiệp, trong đó xác định rõ vai trị của kinh tế hộ,
coi hộ gia đình xã viên HTX nơng nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao
quyền sử dụng ruộng đất...
Tác dụng của cơ chế Khoán 10 cùng với những thành tựu về thủy lợi, cải
tạo giống, thâm canh tăng năng suất ở đồng bằng Bắc bộ và mở rộng diện tích

9


đất canh tác ở đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nền nông nghiệp Việt Nam
sang trang sử mới. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, đến năm 1988 vẫn còn phải nhập
khẩu hơn 450.000 tấn gạo, nhưng từ năm 1989, Việt Nam vừa bảo đảm nhu cầu
lương thực trong nước, có dự trữ, vừa xuất khẩu gạo mỗi năm từ 1,0 đến 1,5
triệu tấn và tiến dần lên tới 4 đến 4,5 triệu tấn như hiện nay.
Các văn kiện Đại hội lần thứ VII, VIII, IX của Đảng và nhiều chỉ thị, nghị
quyết hội nghị Trung ương trong các nhiệm kỳ đó đều thể hiện rõ chủ trương,
chiến lược nhất quán đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, từng bước xác
định ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát triển tồn diện kinh tế nơng thơn và
xây dựng NTM, tiến đến khẳng định thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn và xây dựng NTM, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trong trước mắt và lâu dài.
Sau hơn 20 tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế nơng nghiệp đã có
những bước phát triển đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nơng

thơn từng bước được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững. Tuy nhiên, những thành tựu đó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế, còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém. Nguyên nhân chính của những
hạn chế, yếu kém trên chủ yếu do nhận thức về vị trí, vai trị của nơng nghiệp,
nơng dân, nơng thơn cịn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách
có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nơng dân, nơng
thơn; chính sách phát triển cịn thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá; việc tổ chức
chỉ đạo thực hiện và cơng tác quản lý nhà nước cịn nhiều bất cập, yếu kém.
Từ thực tiễn nêu trên, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008, Về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết là sự cụ thể hóa nội dung xây dựng
NTM được đề cập trong Văn kiện Đại hội X của Đảng.
Xác định nông dân là chủ thể, xây dựng NTM là căn bản, phát triển toàn
diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt, Nghị quyết đã đưa ra 4 quan điểm

10


xây dựng NTM, trong đó khẳng định: “Nơng nghiệp, nơng dân, nông thôn có vị
trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế xã hội bền vững, giữ gìn
ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước” [1, tr.3]; các vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển nông nghiệp,
nông thôn và nâng cao đời sống của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng,
từng lĩnh vực; giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nơng thơn là nhiệm vụ
của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Nghị quyết đã xác định mục tiêu tổng qt: “Xây dựng nơng thơn mới có

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lý” [1, tr.3]; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn
hố dân tộc; dân trí được nâng cao; hệ thống chính trị ở nơng thơn được tăng
cường. Củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền
tảng KT - XH và chính trị vững chắc cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đến năm 2020, Nghị quyết xác định mục tiêu phải đạt được là: Tốc độ tăng
trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; “Nâng cao thu nhập của dân cư
nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nơng nghiệp cịn khoảng
30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã
đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%” [1, tr.4]. Phát triển đồng bộ kết cấu
hạ tầng KT - XH nông thôn, trước hết là hệ thống thuỷ lợi. Nâng cao chất lượng
cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững cơng cuộc xố
đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nơng
dân, tạo điều kiện để nơng dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Nâng cao năng lực phòng

11


chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống đê sơng, đê biển và rừng phịng
hộ ven biển. Nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.
Để thực hiện được mục tiêu trên, Nghị quyết đã đề ra những nhiệm vụ
cấp bách cần thực hiện nhằm phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là triển khai Chương trình xây dựng NTM,
thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng đi trước một bước. Xây dựng NTM cần
phải thực hiện những nội dung:
Thứ nhất, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại,
đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Thứ hai, xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn gắn với phát triển

các đô thị; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, nhất là
những vùng khó khăn.
Thứ ba, đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có
hiệu quả ở nông thôn.
Thứ tư, phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học
công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hóa nông nghiệp,
công nghiệp hóa nông thôn.
Thứ năm, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các
nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân.
Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát
huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị ở nông thôn, nhất là Hội Nông dân.
Từ chủ trương của Đảng, Chính phủ đã cụ thể hóa bằng việc ra Nghị
quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008, Ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn. Quyết
định số 491- QĐ/TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban
hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM. Theo đó, đối với xã NTM phải đạt 19 tiêu

12


chí trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở nơng thơn và
mọi mặt đời sống nông dân. Được cụ thể hóa thành 5 nhóm tiêu chí: Quy
hoạch; hạ tầng kinh tế xã hội; kinh tế và tổ chức sản xuất; văn hóa - xã hội môi trường; hệ thống chính trị.
Căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi vùng, Quyết định 491QĐ/CP đã đề ra chỉ tiêu thực hiện 19 tiêu chí theo từng vùng khác nhau:
Trung du miền núi phía Bắc; Đồng bằng sơng Hồng; Bắc Trung bộ; Dun
hải Nam Trung bộ; Tây Nguyên; Đông Nam bộ; Đồng bằng sơng Cửu Long.
Huyện NTM là huyện có 75% số xã trong huyện đạt NTM. Tỉnh NTM có
80% số huyện trong tỉnh đạt NTM.

Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM đã cụ thể hóa đặc tính của xã hội
nông thôn mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là căn cứ
để xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM, là
chuẩn mực để các xã lập kế hoạch phấn đấu đạt 19 tiêu chí NTM. Đồng thời là
căn cứ để chỉ đạo và đánh giá kết quả thực hiện xây dựng NTM của các địa
phương trong từng thời kỳ; đánh giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt chuẩn NTM;
đánh giá trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền xã và các tổ chức hoạt
động chính trị - xã hội trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM.
Tiếp đó, ngày 04/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
800/QĐ/TTg, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai
đoạn 2010 - 2020. Mục tiêu chung của Chương trình là:
Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng KT - XH từng bước hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với
phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô
thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn
hóa dân tộc; mơi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ
vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng
cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa [38, tr.1].

13


Mục tiêu cụ thể: “Đến năm 2015: 20% số xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn
mới” [38, tr.1]. Đến năm 2020, số xã đạt tiêu chuẩn NTM nâng lên 50%.
Nội dung chương trình mang tính tổng thể về phát triển KT - XH, chính
trị, an ninh quốc phịng, thể hiện qua 11 vấn đề: Quy hoạch xây dựng NTM;
phát triển hạ tầng KT - XH; chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao
thu nhập; giảm nghèo và an sinh xã hội; đổi mới và phát triển các hình thức tổ
chức sản xuất có hiệu quả ở nơng thơn; phát triển giáo dục - đào tạo ở nông
thôn; phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nơng thơn; xây dựng đời sống

văn hóa, thơng tin và truyền thơng nông thôn; cấp nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thơn; nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể
chính trị - xã hội trên địa bàn; giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn.
Xây dựng NTM là quá trình xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông
thôn theo hướng hiện đại hóa, trong đó người nông dân thực sự làm chủ. Họ
vừa là chủ thể, vừa là đối tượng để hướng tới xây dựng NTM thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với nước ta - một nước kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp thì vấn đề phát triển nông thôn không những mang ý nghĩa phát triển
kinh tế mà còn bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội để phát triển đất nước.
Như vậy, có thể thấy chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây
dựng NTM được thể hiện một cách cụ thể, chi tiết. Tất cả những quan điểm và sự
chỉ đạo này sẽ trở thành đường lối chung để Đảng bộ tỉnh Nam Định vận dụng và
phát triển sáng tạo trong điều kiện cụ thể của địa phương, tiếp tục lãnh đạo quá
trình xây dựng NTM ngày càng thu được nhiều thắng lợi quan trọng.
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam Định về xây dựng nông thôn
mới (2008 - 2015)
1.2.1. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu xây dựng nông thôn mới
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của Chương trình xây dựng NTM,
Đảng bộ tỉnh Nam Định đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, cụ thể hóa Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thành mục tiêu, nhiệm vụ, giải

14


pháp cụ thể trên tất cả các mặt: Phát triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng
KT - XH, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư nông thôn, đào tạo và
bồi dưỡng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn… Từng bước đưa
Nam Định trở thành tỉnh đi đầu trong phong trào xây dựng NTM, góp phần
khơng nhỏ vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước.
* Quan điểm chỉ đạo

Quá trình xây dựng NTM ở tỉnh Nam Định được thực hiện theo quan
điểm chỉ đạo thống nhất sau:
Một là, xây dựng NTM là nhiệm vụ có tính chiến lược trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Tỉnh, được thực hiện trong mối
quan hệ mật thiết với nông nghiệp và nông dân, trong đó nông dân là chủ thể
của quá trình phát triển; xây dựng NTM là căn bản, phát triển nông nghiệp là
then chốt; là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó “Cấp
ủy đảng và chính quyền cơ sở đóng vai trò lãnh đạo, điều hành, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận đóng vai trò nòng cốt trong vận
động các tầng lớp nhân dân thực hiện” [41, tr.4].
Hai là, xây dựng NTM là cuộc vận động xã hội sâu sắc và toàn diện (cả
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, sản xuất, đời sống, nếp sống, phong tục,
tập quán theo 19 tiêu chí do Chính phủ ban hành) được thực hiện theo phương
châm: “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra và dân hưởng thụ”; phát huy vai trò chủ động của cộng đồng dân cư,
đặc biệt là cộng đồng thôn xóm; các hoạt động cụ thể ở thôn, xã do chính
cộng đồng người dân bàn bạc và quyết định.
Ba là, với phương châm xây dựng NTM trên phạm vi toàn Tỉnh, mỗi giai
đoạn lựa chọn những xã ưu tiên hỗ trợ để đạt mục tiêu đề ra. Trước mắt, trong
giai đoạn 2010 - 2015 cần tập trung xây dựng 96 xã làm điểm để đạt chuẩn
NTM, làm cơ sở nhân rộng mô hình. Cùng với đó, các xã còn lại vẫn tiến
hành lập quy hoạch, lập đề án xây dựng NTM căn cứ vào đặc điểm và khả

15


năng của địa phương. Đến 2015, hoàn thành lập quy hoạch và lập đề án xây
dựng NTM cho các xã còn lại trong Tỉnh; từng bước xây dựng và hoàn chỉnh
các tiêu chí NTM, làm cơ sở để xây dựng NTM những năm tiếp theo.
* Mục tiêu:

Mục tiêu tổng quát: “Phát triển sản xuất nơng nghiệp hàng hóa, bền vững,
có năng suất, chất lượng, hiệu quả và tăng dần khả năng cạnh tranh, đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực” [41, tr.1]; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của dân cư nông thôn, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, chăm lo đảm bảo các
điều kiện học tập, khám, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao, đặc biệt
quan tâm tới các địa phương, đối tượng nghèo, khó khăn;
Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng KT - XH ngày một hiện đại; có cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; đảm bảo an ninh nông thôn, giữ gìn
bản sắc văn hóa và mơi trường sinh thái; phát huy sức mạnh của hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng
cao hiệu quả hoạt động của hội nông dân các cấp [41, tr.2].
Mục tiêu cụ thể
Một là, “Đến năm 2015 có 30 - 40% số xã đạt tiêu chí NTM” [41, tr.2];
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đạt 2,4%; tỷ trọng
nông - lâm - ngư nghiệp trong cơ cấu GDP đạt 21%; tỷ lệ lao động nơng nghiệp
trong tổng số lao động cịn 50%; thu nhập bình quân đầu người đạt 26 triệu
đồng/năm; tỷ lệ hộ nghèo còn 4,5%; tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh là 85%.
Hai là, “Đến năm 2020 có 60 - 70% số xã đạt tiêu chí NTM” [41, tr.2];
tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đạt 2%; tỷ trọng
nông - lâm - ngư nghiệp trong cơ cấu GDP đạt 14%; tỷ lệ lao động nông
nghiệp trong tổng số lao động giảm xuống cịn 35%; thu nhập bình qn đầu
người đạt 50 triệu đồng/năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 3%; tỷ lệ hộ sử
dụng nước hợp vệ sinh là 100%.

16


1.2.2. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Một là, phát triển sản xuất nơng nghiệp tồn diện theo hướng sản xuất

hàng hóa sạch, bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao,
đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn
Để thực hiện được nhiệm vụ này, Đảng bộ Tỉnh yêu cầu “Các ngành, các
địa phương rà soát, bổ sung, xây dựng quy hoạch phát triển nơng nghiệp, nơng
thơn đến năm 2020. Tập trung rà sốt, bổ sung quy hoạch thủy lợi, quy hoạch về
sử dụng đất đai bảo đảm quản lý chặt chẽ đất trồng lúa, quy hoạch chuyển đổi cơ
cấu nông - lâm - ngư - diêm nghiệp” [41, tr.3]. Khuyến khích tích tụ ruộng đất,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, lựa chọn phát triển các đối tượng cây trồng, vật ni có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, đáp ứng với yêu cầu thị trường.
Căn cứ vào quy hoạch và điều kiện cụ thể, Đảng bộ tỉnh Nam Định yêu
cầu các huyện, thành phố tập trung phát triển mạnh các ngành sản xuất:
Về trồng trọt: Chỉ đạo, hướng dẫn nơng dân tích cực thâm canh lúa, màu,
cây công nghiệp đảm bảo an ninh lương thực. Mở rộng diện tích lúa có chất
lượng, giá trị kinh tế cao. Phát triển mạnh các cây rau màu phục vụ chế biến
xuất khẩu; tích cực cải tạo vườn tạp, phát triển mạnh nghề trồng hoa, cây cảnh,
cây hương liệu, sản xuất rau sạch đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
Áp dụng nhanh các biện pháp thâm canh tổng hợp, cơ giới hóa thu hoạch, giảm
chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất lúa.
Về chăn nuôi: Phát triển mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm. Chuyển mạnh
từ chăn nuôi tận dụng phân tán, nhỏ lẻ sang chăn ni tập trung, khuyến khích
phát triển chăn ni trang trại, gia trại, doanh nghiệp chăn nuôi vừa và nhỏ.
Củng cố tổ chức thú y, thường xuyên thực hiện tốt cơng tác tiêm phịng và các
biện pháp phịng bệnh cho gia súc, gia cầm. Tổ chức lại và từng bước hiện đại
hóa các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm.
Về lâm nghiệp: Xây dựng và thực hiện quy hoạch về bảo vệ rừng, nhất là
rừng phòng hộ và rừng ngập mặn. Bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, mở rộng

17



trồng rừng trên các vùng mới được bồi tụ tại Cồn Lu, Cồn Ngạn của huyện Giao
Thủy và Cồn Mờ của huyện Nghĩa Hưng. Động viên nhân dân trồng cây xanh,
cây ăn quả trên các dải đất trống ven đê, ven làng và vùng ven biển
Về thủy sản: Phát triển mạnh ni trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng
hóa, đảm bảo có hiệu quả cao và bền vững. Làm tốt công tác quản lý sản xuất và
cung ứng giống thủy sản. Phát triển đa dạng các loại hình và đối tượng nuôi cho
phù hợp với điều kiện tự nhiên và yêu cầu của thị trường. Tập trung phát triển
các loại hải sản có giá trị kinh tế cao và xuất khẩu như tôm sú, ngao, cua biển;
các loại cá truyền thống, tơm càng xanh, cá rơ phi đơn tính.
Về diêm nghiệp: Tiếp tục đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng cho vùng sản
xuất muối. Động viên diêm dân đầu tư cải tạo sân phơi, ô nề, thống chạt, tổ
chức tốt sản xuất thâm canh trên diện tích muối hiện có. Mở rộng sản xuất
muối sạch; tăng cường liên kết sản xuất và tiêu thụ muối, nâng cao hiệu quả thu
nhập của người sản xuất.
Về phát triển ngành nghề - dịch vụ: Phát triển mạnh công nghiệp, dịch
vụ ở nông thôn. Chú trọng các nghề chế biến, thủ công, mỹ nghệ, đa dạng
hóa các loại dịch vụ. Tăng cường tổ chức và quản lý đối với các dịch vụ
thiết yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp như làm đất, cung ứng các loại vật tư
thiết yếu, tín dụng, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Hạn chế những mặt tiêu cực
của thị trường. Triển khai chương trình “Bảo tồn và phát triển làng nghề”
gắn với phát triển du lịch, dịch vụ và phát triển nghề mới. Tăng cường xúc
tiến thương mại, coi trọng cả thị trường xuất khẩu và nội địa, quan tâm tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến
nông, thủy sản. Nâng cao chất lượng đảm bảo vệ sinh thực phẩm theo cam
kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Xây dựng thương hiệu các sản
phẩm nông, thủy sản của Nam Định.
Hai là, tiếp tục đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nơng thơn;
hưởng ứng chương trình xây dựng nơng thơn mới

18



Để tiếp tục đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn, Đảng
bộ tỉnh Nam Định xác định cần phải tranh thủ sự quan tâm của Chính phủ
và các bộ, ngành Trung ương và huy động các nguồn lực của các thành
phần kinh tế. Tỉnh ủy xác định nhiệm vụ đầu tiên trong xây dựng kết cấu
hạ tầng KT - XH là: “Tập trung củng cố nâng cấp hệ thống đê, kè, cống
đảm bảo khả năng chống chịu bão cấp 10, 11, hồn thành cứng hóa mặt đê ”
[41, tr.5]. Rà soát bổ sung quy hoạch thủy lợi, nâng cao năng lực tưới, tiêu
phục vụ sản xuất nông nghiệp, sản xuất muối và nuôi trồng thủy sản. Làm
tốt cơng tác phịng chống bão lụt, tìm kiếm cứu nạn, hạn chế thấp nhất thiệt
hại do bão, lụt gây ra; cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông nông thôn. Cải
tạo, phát triển đồng bộ hệ thống lưới điện, ngành điện quản lý và bán điện
đến các hộ nơng thơn trong tồn Tỉnh. Nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, y tế
dự phòng, các bệnh viện đa khoa tuyến huyện. “Hồn thành chương trình
kiên cố hóa trường học, xây dựng trụ sở xã, các trung tâm văn hóa xã, thơn,
xóm. Cải tạo, nâng cấp chợ nơng thơn; tăng cường các biện pháp bảo vệ
môi trường nông thôn, hướng tới 100% các xã, thị trấn đều có cơng trình
nước sạch - vệ sinh mơi trường nơng thơn” [41, tr.5].
Để hưởng ứng Chương trình xây dựng NTM của Chính phủ, Đảng bộ
Tỉnh đề ra nhiệm vụ tổ chức tốt cuộc vận động xây dựng NTM, coi đây là
một nội dung quan trọng giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, tạo thành phong trào thi đua sâu rộng trong các thơn, xóm, làng, xã.
Tỉnh ủy đã xác định các nội dung cơ bản của Chương trình mà Tỉnh sẽ thực
hiện đó là “Phát triển hạ tầng KT - XH và khu dân cư trên cơ sở quy hoạch
NTM; xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, thúc đẩy phát
triển kinh tế; phát triển văn hóa - xã hội; thực hiện dân chủ cơ sở, giải
quyết các vấn đề bức xúc, đảm bảo an ninh nông thôn” [41, tr.6].
Ba là, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất
là các đối tượng, địa phương có nhiều khó khăn


19


Để thực hiện giải pháp này, Đảng bộ Tỉnh đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể
đó là “Tiếp tục đầu tư phát triển các cụm công nghiệp, các làng nghề, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nơng thơn; thực hiện có hiệu quả Chương trình
mục tiêu Quốc gia về xóa đói, giảm nghèo” [41, tr.6], bổ sung ngân sách tỉnh và
huy động các nguồn vốn hợp pháp khác cho các hoạt động của Chương trình.
Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế, nước sạch.
Tổ chức tốt các hoạt động hỗ trợ, tạo điều kiện cho hộ nghèo, người nghèo được
hưởng đầy đủ, kịp thời các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe ban đầu và khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế, thực hiện tốt chính
sách bảo hiểm y tế đối với người nghèo, giảm tỷ lệ sinh ở nông thôn.
Nâng cao chất lượng Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”. Thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ sở, giải quyết kịp thời khiếu nại,
tố cáo của công dân, giữ vững an ninh, trật tự an tồn xã hội ở nơng thơn.
Bốn là, đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã và các hình
thức tổ chức sản xuất dịch vụ có hiệu quả ở nơng thơn
Đổi mới cơ bản các nội dung tổ chức, quản lý trong Hợp tác xã theo mơ
hình Hợp tác xã mới trên cơ sở các quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5
(khóa IX) về kinh tế tập thể, phù hợp với Luật Hợp tác xã và với đặc điểm tổ
chức sản xuất nông nghiệp của Tỉnh, tạo ra động lực mới cho Hợp tác xã phát
triển. Bên cạnh đó, Đảng bộ Tỉnh cũng xác định cần đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Hợp tác xã, có cơ chế khuyến khích Hợp tác xã
chuyển mạnh sang hoạt động dịch vụ hỗ trợ xã viên. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền để nâng cao nhận thức của xã viên về mơ hình Hợp tác xã, đổi mới
hoạt động của Hợp tác xã với bước đi vững chắc, bảo đảm ổn định và thúc đẩy
sản xuất phát triển. “Hỗ trợ kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển sản xuất theo
hướng hàng hóa, quy mơ lớn. Phát triển các mơ hình, phương thức liên kết sản

xuất giữa nông dân với các thành phần kinh tế” [41, tr.7].
Năm là, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong

20


nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh chuyển giao và ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất
“Trên cơ sở quy hoạch của từng ngành, từng địa phương để có kế hoạch đào
tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và đội ngũ lao
động có đủ năng lực, trình độ, đáp ứng yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh.
Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thôn, xã và đào tạo, dạy nghề
cho lao động nông nghiệp nông thôn” [41, tr.7].
Khuyến khích phát triển đào tạo các ngành, nghề về nông nghiệp, nông thôn
trong các trường đại học, cao đẳng, trung tâm dạy nghề trên địa bàn tỉnh. Củng cố,
phát triển mạng lưới các cơ sở dạy nghề trên địa bàn. Thực hiện xã hội hóa cơng
tác đào tạo, dạy nghề, đa dạng hóa các cơ sở đào tạo, phương thức đào tạo, có
chính sách hỗ trợ đào tạo, gắn các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất.
Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của nơng dân về
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nâng cao chất lượng
phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với Hội Nông dân và các tổ chức
xã hội để đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông, khuyến ngư, tổ chức các lớp tập
huấn kỹ thuật, xây dựng nhiều mơ hình trình diễn cho nơng, ngư dân áp dụng.
Bên cạnh đó, cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan khoa học Trung
ương đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quản lý và sản xuất. Lựa chọn
giống, công nghệ thích hợp cho từng lĩnh vực, áp dụng tốt các tiến bộ kỹ thuật
vào trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, khai thác và chế biến nông, thủy sản.
Sáu là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước, nêu cao trách nhiệm của các cấp, các ngành; xây dựng và thực
hiện các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp, nông

thôn
Để tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, cần phải đổi mới
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với phong trào nông dân và tổ

21


chức Hội Nông dân, phát triển nông nghiệp và xây dựng NTM; nâng cao vai
trò chỉ đạo, điều hành đảm bảo tập trung thống nhất, đồng bộ, hiệu qủa của
các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế nơng nghiệp và xây dựng NTM; kiện tồn bộ máy
quản lý nhà nước theo quy định đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông dân,
nông thôn; xây dựng và ban hành một số cơ chế chính sách khuyến khích
phát triển nơng nghiệp, nơng thơn như: Khuyến khích chuyển đổi, chuyển
nhượng ruộng đất, mở rộng quy mô sản xuất, tiếp tục thực hiện dồn điền
đổi thửa; hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp, ngư
nghiệp, ngành nghề nông thôn; khuyến khích phát triển kinh tế hộ, trang
trại, kinh tế HTX; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng KT - XH; hỗ trợ bồi
dưỡng đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
Như vậy, chủ trương xây dựng NTM của Đảng bộ tỉnh Nam Định chính
là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng và Chính phủ về vấn đề nơng nghiệp,
nông dân, nông thôn, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng vào
điều kiện thực tiễn ở địa phương. Chủ trương trên khơng chỉ có ý nghĩa định
hướng, là cơ sở cho việc chỉ đạo tổ chức thực hiện mà còn là nền tảng tạo nên
sự thống nhất về ý chí và hành động của tồn Đảng, tồn dân trên địa bàn
Tỉnh đồn kết, khắc phục khó khăn, hoàn thành thắng lợi những mục tiêu,
nhiệm vụ xây dựng NTM mà Đảng bộ Tỉnh đã đề ra.
1.3. Đảng bộ tỉnh Nam Định chỉ đạo xây dựng nông thôn mới (2008 - 2015)
1.3.1. Chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động, thi đua xây dựng nơng
thơn mới

Là tỉnh có thế mạnh trong sản xuất nông nghiệp, Nam Định xác định xây
dựng NTM là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để giải quyết vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn, đồng thời là khâu đột phá trong phát triển KT - XH. Để
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này, Tỉnh đã huy động sức mạnh của toàn hệ

22


thống chính trị với nhiều giải pháp đồng bộ trong xây dựng NTM, trong đó
nhấn mạnh công tác tuyên truyền.
Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh ủy, UBND Tỉnh đã
triển khai thực hiện công tác tuyên truyền nhằm “Nâng cao nhận thức của mọi
tầng lớp nhân dân về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng
NTM” [68, tr.1]. Qua đó, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và
hành động của mỗi cá nhân; phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động khắc
phục khó khăn, thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng NTM. Đồng thời
làm cho từng người dân, cộng đồng dân cư, nhất là ở các xã xây dựng NTM
giai đoạn 2010 - 2015 nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn vai trò chủ thể của
mình trong xây dựng NTM theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra và dân hưởng thụ”.
Nội dung công tác tuyên truyền được Tỉnh ủy, UBND Tỉnh đề ra rất cụ
thể, đó là: “Các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các văn bản của Tỉnh;
tuyên truyền về vị trí, vai trị của các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” [68, tr.2]. Nội dung tuyên truyền được tiến hành dưới nhiều hình thức
phong phú như mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng, các hội nghị báo cáo viên,
tuyên truyền viên các cấp; tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng: Báo Nam Định, Đài Phát thanh và Truyền hình, Cổng Thông tin và
Giao tiếp điện tử, hệ thống Đài Phát thanh và truyền thanh huyện và cơ sở;
tuyên truyền qua bản tin sinh hoạt chi bộ; biên soạn và phát hành các tài liệu

về Chương trình xây dựng NTM tỉnh Nam Định…
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh, Chi cục Phát triển nông thôn phối hợp
với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy lập kế hoạch tuyên truyền, triển khai thực hiện;
phối hợp với các cơ quan thông tin, truyền thông và các đoàn thể để tuyên
truyền, phổ biến sâu rộng Chương trình xây dựng NTM đến tồn thể đồn
viên, hội viên và nhân dân; giúp Ban Chỉ đạo Tỉnh mở lớp tập huấn cho các

23


sở, ban, ngành, đoàn thể; tổ chức hội nghị triển khai Chương trình xây dựng
NTM, đồng thời tham mưu với UBND Tỉnh phát động phong trào thi đua
“Toàn dân chung sức xây dựng nơng thơn mới”, tạo ra khơng khí phấn khởi
cho cán bộ, đảng viên, các cấp, các ngành hăng hái thi đua lao động sản xuất,
cơng tác, hồn thành thắng lợi các mục tiêu đề ra.
Báo Nam Định, Đài Phát thanh và Truyền hình Tỉnh tuyên truyền xây dựng
và phát sóng đều đặn chuyên mục “Chung sức xây dựng nông thôn mới tỉnh
Nam Định”, đăng tải các tin, bài, phóng sự tun truyền về các hoạt động, các
mơ hình, điển hình tiên tiến, cách làm hay về Chương trình xây dựng NTM.
“Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nam Định phối hợp với Sở Thông tin - Truyền thông
thường xuyên mời các ngành chức năng, các địa phương đến cung cấp thơng tin
về tình hình, kết quả xây dựng NTM ở địa phương, đơn vị; chỉ đạo, định hướng
tuyên truyền trên các cơ quan báo chí, các phương tiện thơng tin truyền thông
của Tỉnh” [68, tr.4]. Chuyên mục “Xây dựng nông thôn mới” trên bản tin Thông
báo nội bộ của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy cũng được xây dựng và duy trì đều đặn,
đăng tải kịp thời các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh, các kết quả,
mô hình sáng tạo, gương điển hình trong xây dựng NTM tại các địa phương, đơn
vị. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo các huyện, thành phố, các đơn vị
trực thuộc dán băng rôn, khẩu hiệu, panô, áp phích với chủ đề về xây dựng
NTM. Hội Văn học, Nghệ thuật Tỉnh chỉ đạo Tạp chí Văn nghệ Nam Định đăng

tải tin, bài, tác phẩm văn học nghệ thuật về chủ đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn và xây dựng NTM; vận động các hội viên tích cực sáng tác các tác phẩm
văn học nghệ thuật, tranh cổ động về chủ đề xây dựng NTM. Ban Xây dựng
Đảng, các sở, ban, ngành, đồn thể của Tỉnh đều có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn,
đồng thời tăng cường phối hợp với các địa phương triển khai tích cực các nhiệm
vụ tuyên truyền xây dựng NTM.
Đến hết năm 2015, việc thực hiện công tác tuyên truyền đã thu được một
số kết quả như: tồn tỉnh đã dựng 130 panơ, 1.500 băng rôn, khẩu hiệu, đăng

24


tải và phát sóng hơn 10.000 tin, bài, phóng sự về xây dựng NTM. Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Tỉnh, các Sở: Nội vụ, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã
hội, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Liên minh hợp tác xã, Hội Nơng
dân và các đồn thể đã phối hợp với các huyện, thành phố:
Tổ chức 256 lớp tập huấn, bồi dưỡng về xây dựng NTM cho 22.800 lượt
cán bộ làm công tác xây dựng NTM từ tỉnh đến cơ sở. Trong đó có 821
thành viên Ban Giám sát cộng đồng, 229 Ban Thanh tra nhân dân cấp xã,
lãnh đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc 96 xã xây dựng NTM, 5.520 đại biểu
HĐND, 4.636 cán bộ HTX nơng nghiệp; 500 cơng chức quản lý tài
chính cấp xã và 8.857 cán bộ thơn xóm [96, tr.2].
Bên cạnh công tác tuyên truyền, vận động, các phong trào thi đua xây dựng
NTM cũng được Tỉnh quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Ngày 24/6/2011,
UBND tỉnh Nam Định đã tổ chức Lễ phát động hưởng ứng Phong trào thi đua
“Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” do Thủ tướng Chính phủ phát
động trước đó. Tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Văn Tuấn - Trưởng Ban chỉ đạo
Chương trình xây dựng NTM của Tỉnh đã phát động các cấp, ngành, đoàn thể,
địa phương và nhân dân trong toàn tỉnh tham gia, hưởng ứng phong trào. Nội
dung thi đua tập trung vào việc thực hiện 6 nhiệm vụ, bao gồm: Làm tốt công

tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo quyết tâm, đồng thuận trong
xây dựng NTM; thực hiện thắng lợi Nghị quyết 11 của Chính phủ, hồn thành
vượt mức các chỉ tiêu KT - XH, đảm bảo quốc phòng, an ninh năm 2011;
quán triệt và thực hiện tốt việc gắn kết phong trào xây dựng NTM với Cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các
phong trào thi đua khác; bằng nhiều biện pháp huy động tối đa các nguồn lực
đóng góp của nhân dân, doanh nghiệp và các nguồn lực khác để tạo cơ sở
vững chắc cho xây dựng NTM; tiến hành tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm
từng thời kỳ, giai đoạn và thực hiện tốt công tác thi đua - khen thưởng để

25


×