Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
HỆ TẠI CHỨC KHÓA K2012/TP1
…………..o0o…………..

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

KHỦNG HOẢNG KINH TẾ,
NHỮNG BÀI HỌC TỪ QUÁ KHỨ

GVHD: TRƯƠNG TRUNG TÀI
SV THỰC HIỆN: TRẦN MINH HÙNG
LỚP: NGÂN HÀNG
KHĨA K2012/TP1
SĐT: 0909341323
EMAIL:

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


MỤC LỤC


I.

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH LÀ GÌ?

Chúng ta thấy được rằng một nền kinh tế hoạt động hiệu quả thì cần phải giải quyết được vấn đề bất
cân xứng trong thông tin để các luồng vốn có thể được sử dụng một cách có hiệu quả. Vấn đề thơng tin bất
cân xứng là một rào cản cho việc luân chuyển vốn một cách có hiệu quả và thường được các nhà kinh tế
học miêu tả như là những trở ngại tài chính. Khi những trở ngại về tài chính tăng lên, thị trường tài
chính kém hiệu quả hơn trong việc điều chuyển vốn từ người tiết kiệm tới các hộ gia đình và các cơng ty


có cơ hội đầu tư sản xuất, kết quả là các hoạt động của nền kinh tế suy giảm. Một cuộc khủng hoảng tài
chính xảy ra khi mà luồng thơng tin trên thị trường tài chính chịu một biến động đặc biệt nghiêm trọng,
dẫn đến những trở ngại tài chính tăng vọt và thị trường tài chính ngưng hoạt động. Cuối cùng tồn bộ hoạt
động của nền kinh tế đều sụp đổ.(theo Mishkin)
Khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh khoản của các tập đồn tài
chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.
Dấu hiệu của Khủng hoảng tài chính là:
- Các NHTM khơng hồn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
- Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng khơng thể hồn trả đầy đủ các khoản
vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
II.

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2007 – 2009

2.1. NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN KHỦNG HOẢNG 2007 - 2009
Cuộc khủng hoảng đầu tiên nổ ra tại Mỹ mà khơng có bất cứ dấu hiệu cảnh báo nào, sau đó lan sang
các nước cơng nghiệp Tây Âu - những trung tâm tài chính lớn của thế giới và nhanh chóng lan rộng ra
tồn cầu. Một số nhận định cho rằng nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng là do chính sách phi điều
tiết các hoạt động đầu tư của ngành ngân hàng và đặc biệt là chính sách lãi suất quá thấp trong một thời
gian quá lâu của FED. Và các công cụ tài chính trực tiếp gây ra thảm họa này là các món nợ có thế chấp
bất động sản dưới chuẩn, chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS- Mortage- Back Security)
hoặc CDOs. Bên cạnh đó, sự suy sụp của thị trường bất động sản và “vỡ nợ tín dụng” hàng lọat các ngân
hàng thua lỗ cũng là nguyên nhân trực tiếp gây ra đại khủng hoảng.
2.1.1 Đổi mới tài chính trong thị trường thế chấp
Trước năm 2000, chỉ có vài tài khoản vay tín dụng xếp hạng tín dụng tốt mới có thể được thế chấp nhà
ở. Tuy nhiên, những tiến bộ trong cơng nghệ máy tính và kỹ thuật thống kê mới, được gọi là khai thác dữ
liệu, đã dẫn đến việc mở rộng tín dụng, cho phép đánh giá định lượng rủi ro tín dụng cho một tầng lớp mới
các tài khoản thế chấp nhà ở rủi ro cao. Các hộ gia đình có hồ sơ tín dụng bây giờ có thể được chỉ định
một số điểm tín dụng, được biết đến như là điểm FICO (đặt theo tên nơi phát triển nó Fair Isaac

Corporation), giúp dự đốn khả năng họ sẽ có thể bị mất khả năng chi trả các khoản thanh toán nợ cho
vay. Ngồi ra, bằng cách giảm chi phí giao dịch, cơng nghệ máy tính cho phép gói các khoản vay nhỏ hơn
lại với nhau vào chứng khoán nợ tiêu chuẩn, một q trình được gọi là chứng khốn hóa. Những yếu tố
này đã giúp cho các ngân hàng có thể cung cấp các khoản thế chấp dưới chuẩn cho khách hàng vay với
các hồ sơ tín dụng chưa hồn hảo. Do những đặc tính như vậy nên rủi ro của nợ dưới chuẩn rất cao song
bù lại thì lãi suất của các khoản vay nợ dưới chuẩn cũng cực kỳ hấp dẫn.
Khả năng định lượng với giá rẻ rủi ro vỡ nợ của các khoản thế chấp có rủi ro cơ bản cao và đóng gói
lại thành một khoản nợ chuẩn an tồn được gọi là các chứng khốn đảm bảo thế chấp (MBS) (Chứng
khoán bảo đảm bằng thế chấp là loại chứng khoán được phát hành dựa trên cơ sở một hoặc một nhóm
các khoản thế chấp. Về bản chất, chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp là một loại trái phiếu. Thay vì, trả
cho nhà đầu tư một khoản trái tức cố định và tiền gốc, thì người phát hành chứng khốn thanh tốn bằng
dịng tiền phát sinh từ những khoản thế chấp được dùng để đảm bảo cho số chứng khốn đó. Dạng đơn
3


giản nhất của chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp là kiểu "sang tay thế chấp", trong đó tất cả số tiền gốc
và lãi thanh toán hàng tháng (sau khi đã trừ đi phí dịch vụ) trong một hợp đồng thế chấp sẽ được "sang
tay" cho nhà đầu tư.) là nguồn cung cấp mới tài chính cho các khoản thế chấp).
Đổi mới tài chính khơng dừng lại ở đó. Kỹ thuật tài chính, là sự phát triển của cơng cụ tài chính phức
tạp mới, đã dẫn đến các sản phẩm tín dụng có cấu trúc có thể chi trả ra dòng thu nhập từ một tập hợp các
tài sản cơ bản, được thiết kế để có những đặc điểm nguy cơ đặc biệt mà nó tạo sự hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư với các sở thích khác nhau. Trong các sản phẩm này nổi tiếng nhất là nghĩa vụ nợ thế chấp (CDOs)
2.1.2. Bong bóng thị trường nhà ở
Bong bóng thị trường nhà ở là hiện tượng giá trị thị trường của nhà ở tăng quá cao, vượt xa giá trị thực
của nó do các hoạt động đầu cơ thái quá vào thị trường này. Bong bóng nhà ở xảy ra bắt nguồn từ tháng
2001, tại Mỹ. Vào giai đoạn suy thoái kinh tế 2001- 2002 do việc các quỹ đầu tư mạo hiểm vào các công
ty công nghệ cao (dot.com) khơng hiệu quả, cộng thêm chi phí của hai cuộc chiến tranh Iraq và Afganistan
nền kinh tế Mỹ trở nên mất cân đối nghiêm trọng. Giá nhà đất trở nên đắt đỏ, phần lớn dân lao động nhập
cư và người da màu phải ở nhà thuê với chi phí cao. Để giúp nền kinh tế thốt khỏi tình trạng trì trệ, FED
đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến các ngân hàng cũng hạ lãi suất để cho vay mua bất động sản. Cụ thể,

lãi suất cơ bản của FED bị cắt giảm từ 6%/năm xuống chỉ cịn 1%/năm từ 2000 đến 2003. Đồng thời,
chính sách của Chính phủ Mỹ lúc bấy giờ là tạo điều kiện cho cư dân nghèo được vay tiền dễ dàng hơn để
mua nhà. Tóm lại, lãi suất thấp, chính sách của Chính Phủ, sự mạo hiểm của các ngân hàng khi nới lỏng
các điều kiện cho vay để giúp người dân mua địa ốc dễ dàng hơn, cộng thêm sự liều lĩnh của khu vực đầu
tư tư nhân khi vay tiền để đầu tư hoặc mua bất động sản, chính các yếu tố này đã dẫn đến giá nhà đất tại
Mỹ tăng cao vùn vụt. Việc này tiếp tục gây ra hiệu ứng dây chuyền là sự ỷ lại là giá nhà tiếp tục tăng, nên
đầu cơ càng mạnh hơn.

Hình 1. Giá nhà đất tăng cao, đỉnh điểm là cuối năm 2005 – đầu 2006

4


Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng hồn trả vì họ ỷ lại
nếu cần sẽ bán căn nhà để trả nợ ngân hàng và vẫn có lời. Từ đó các ngân hàng cũng chạy đua cạnh tranh
và tìm mọi cách để ưu đãi khách hàng, đẩy mạnh các khoản vay dưới chuẩn (subprime) vì người vay nợ
khơng đủ tiêu chuần để đi vay. Do đó, bong bong đã hình thành và dần phình to trên thị trường bất động

sản.
Hình 2. Nợ dưới chuẩn tăng rõ rệt từ 2004 - 2006

Sau đó, do lo lắng về làm phát, FED bắt đầu tăng dần lãi suất từ 1 % lên đến 5.25% giữa năm 2006,
động thái này buộc NHTM phải tăng lãi suất cho vay mua nhà. Cường độ mua nhà giảm, giá nhà trượt dốc
vì cung vượt quá cầu. Những người vay mua nhà bắt đầu lo lắng khi giá trị căn nhà họ mua giảm thấp hơn
khoản nợ họ đã vay. Một ảnh hưởng nữa là những người vay dưới chuẩn mất khả năng trả nợ do lãi suất bị
điều chỉnh cao hơn nhiều so với lãi suất ban đầu (họ đã chọn theo hình thức ARM – lãi suất điều chỉnh
theo lãi suất thả nổi vì tin tưởng giá nhà đất sẽ tiếp tục tăng), thứ hai, giá trị căn nhà những người này đã
mua bị tụt giảm thảm hại so với giá trị khoản vay nợ của họ, nên người vay muốn bán nhà để trả nợ cũng
khơng được. Từ đó, bong bong nhà đất đổ vỡ.
Bong bóng nhà ở vỡ làm nhiều người vay tiền ngân hàng đầu tư nhà không trả được nợ dẫn tới bị tịch

biên nhà thế chấp. Nhưng giá nhà xuống khiến cho tài sản tịch biên không bù đắp nổi khoản ngân hàng
cho vay, khiến các ngân hàng rơi vào khó khăn. Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì
khơng thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO viết tắt của collateralized debt obligations) và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - viết
tắt của mortgage-backed security) do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng. Kết quả là
bảng cân đối tài sản của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng tín dụng của họ bị các tổ chức đánh giá đánh
tụt. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra.
Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đối với bong bóng thị trường tài sản xảy ra
thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc cho vay liên
ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân hàng phá sản
sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi
cịn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn.

5


2.1.3. Thông tin bất cân xứng và các cơ quan xếp hạng tín dụng
Các cơ quan xếp hạng tín dụng, người đánh giá chất lượng của các chứng khoán nợ về khả năng vỡ
nợ, là một nhân tố góp phần vào bất cân xứng thông tin trong thị trường tài chính.Các cơ quan xếp hạng tư
vấn cho khách hàng về cách cấu trúc cơng cụ tài chính phức tạp, như CDOs, đồng thời họ đã xếp hạng các
sản phẩm giống nhau. Các cơ quan đánh giá do đó là các đối tượng xung đột lợi ích bởi vì nguồn lợi
khổng lồ họ thu được từ tư vấn cho khách hàng về cách cấu trúc sản phẩm làm cho sự đánh giá của họ
khơng cịn chính xác nữa. Kết quả đánh giá cực kỳ thổi phồng đó cho phép bán các sản phẩm tài chính
phức tạp có khả năng xảy ra rủi ro vượt xa hơn các nhà đầu tư tính toán.
Kết luận: Khủng hoảng đã xảy ra khi thị trường nhà đất Mỹ bị đóng băng từ khoảng tháng 7/2007 sau
khi lãi suất cho vay thế chấp bị điều chỉnh tăng hàng loạt làm hàng triệu người vay tiền mua nhà đầu cơ
khơng thể trả nợ. Thị trường chứng khốn phái sinh từ nợ vay thế chấp dưới chuẩn mất khả năng thanh
khoản gây ra khủng hoảng tín dụng và thiệt hại không nhỏ cho các ngân hàng lớn không chỉ bên trong
nước Mỹ. Thị trường bất động sản liên tục đi xuống trong giai đoạn này khi mà cầu thấp hơn lượng cung
rất nhiều. Giá tài sản cầm cố là nhà đất giảm liên tục làm cho những ngân hàng và nhà đầu tư đã bơm vốn
vào thị trường nhà đất không thu hồi được số tiền này và bị mất trắng, chấp nhận phá sản; kéo theo thị

trường chứng khốn suy sụp, kinh tế Mỹ đình trệ và chính phủ phải đưa ra nhiều biện pháp giải cứu.
2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC ĐẠI KHỦNG HOẢNG
2.2.1. Giá nhà đất: phình to và nổ tung
Như đã đề cập ở phần nguyên nhân, Chính phủ Mỹ muốn nâng cao tỷ lệ dân chúng sở hữu nhà cũng
như đẩy mạnh xuất khẩu để giảm thâm hụt ngân sách bằng cách hạ lãi suất cho vay. Xã hội Mỹ vốn là xã
hội tiêu dùng, có được nguồn tín dụng giá rẽ, dân Mỹ bắt đầu mua nhà cửa, ban đầu xuất phát từ nhu cầu
có thực. Thơng qua chứng khốn hóa các khoản vay đã làm gia tăng tính thanh khoản các MBS. Các ngân
hàng thu được khoản tiền cho vay mà không đợi đến khi đáo hạn. Các tổ chức cho vay muốn quay vòng
dòng tiền càng nhanh nên hạ thấp dần các tiêu chuẩn cho vay gây vì nghĩ rằng rũi ro đã được chuyển cho
các nhà đầu tư. Cho vay càng nhiều tiền thu về càng nhiều, các ngân hàng thương mại càng trở nên giàu
có. Dịng vốn từ khắp nơi trên thế giới đổ về càng đẩy giá nhà lên cao, xa rới giá trị thực của tài sản. Hiện
tượng đầu cơ này dẫn đến hình thành bong bóng bất động sản.
Do dịng tiền khơng đổ vào đầu tư sản xuất để cao ra một lượng của cải cân bằng với lượng cung tiền
tăng thêm, điều đó có thể gây nên lạm phát cao cho nền kinh tế. Fed đã tăng lãi suất cứ 0.25% mỗi lần
điều chỉnh kể từ quý 1/2005. Chi phí vay tăng lên, việc đầu cơ trở nên ít sinh lợi, nhà cửa bắt đầu khó bán
nên giảm giá. Nhà đầu tư khắp nơi bán cắt lỗ ào ạt. Bong bóng bất động sản nổ tung!

Hình 3. Giá nhà đất và cuộc suy thối 2007-2009
6


Không trả được nợ, hàng loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát mãi tài sản. Cleveland (Ohio) là thành
phố đầu tiên châm ngòi cho cuộc khủng hoảng lan rộng ở nước Mỹ và trên toàn thế giới. Theo số liệu
thống kê, khoảng 1/10 số nhà mua tại Cleveland bị thu hồi để phát mãi. Những người nhập cư mua nhà trở
lại với giấc mơ tay trắng. Giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại trong quý 3/2007, mức tồi tệ nhất từ cuộc khủng
hoảng tài chính 1930.
2.2.2. Sự suy giảm tài sản trên bản cân đối của các tổ chức tài chính:
Tài sản của các tổ chức tài chính chủ yếu là các MBS, CDOs bị mất giá nghiêm trọng, có nguy cơ nuốt
mất hồn tồn vốn sở hữu của các tổ chức tài chính, khiến các tổ chức này có nguy cơ bị phá sản. Bên
cạnh đó, các công ty đứng ra bảo hiểm MBS, như AIG, cũng lâm vào cảnh khốn đốn khi phải đứng ra bảo

lãnh các khoản vay xấu. Biện pháp đặt ra cho các tổ chức tài chính là thay đổi cơ cấu bằng cách bán bớt
tài sản của mình, việc này sẽ tốn chi phí rất cao trong giai đoạn bất thị trường bất ổn.
Việc tự cứu mình buộc các ngân hàng siết chặt tín dụng, tăng cường các rào cản cho vay trong đó có
việc tăng cao lãi suất để bù vào rũi ro. Điều này khiến những người có nhu cầu vốn thật sự như người tiêu
dùng và các doanh nghiệp khó tiếp cận tín dụng, mặc dù họ là đối tượng có khả năng thanh tốn cao nhất.
Rào cản tài chính ngày càng cao, việc điều tiết vốn của hệ thống tài chính trở nên khơng thơng suốt.
2.2.3. Sự tháo chạy của hệ thống ngân hàng – Shadow banking System.
Shadows banking system là hệ thống các ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm và các tổ
chức không chịu sự giám sát chặt chẽ như ngân hàng thương mại.
Hệ thống này trước đây là các tổ chức chủ yếu thực hiện việc phát hành các khoản nợ thế chấp được
chứng khốn hóa, bản thân hệ thống này cũng nắm giữ nhiều tài sản bằng các MBS, CDOs. Bằng các
nghiệp vụ repos chừng khoán, các Shadows banking systems đem tài sản thế chấp vào các tổ chức tài
chính khác cho vay để hưởng lãi suất thấp dưới hình thức tự động chuyển đổi (nếu cất trữ MBS, CDOs thì
khơng hưởng được lãi). Đây là kênh dẫn vốn quan trong cho nền kinh tế lúc chưa xảy ra khủng hoảng.
Cũng như các tổ chức tài chính khác Shadow banking System cũng bị suy giảm tài sản. Do hai nguyên
nhân, thứ nhất, do trước đây các tổ chức này còn giữ lại phần lớn các khoản vay dưới chuẩn mà khơng bán
cho các tổ chức tài chính khác, nên phải đương đầu với tỉ lệ mất khả năng trả nợ ngày càng cao của những
khỏan vay này.Theo ước tính, khoản tiền vay này tăng vùn vụt từ 160 tỷ USD năm 2001 lên 540 tỷ vào
năm 2004 và đạt đỉnh 1300 tỷ năm 2007 (Trần Văn Thọ và Lê Anh 2008). Thứ hai, chính vì sự sụt giảm
trong giá trị mà các MBS và CDOs trở nên khó thanh khoản nên khi cầm cố để vay người cho vay đòi hỏi
trị giá tài sản phải cao hơn nhiều so với khoản cần vay đôi lúc giá trị chênh lệch là 50% ( trước khủng
hoảng khoảng này gần bằng 0%). Do việc cầm cố để lấy tiền như trước đây chịu một tỷ lệ chiết khấu cao
như vậy, vả lại các ngân hàng này cũng cần tiền bù vào vốn sở hữu bị ăn gần hết nên buộc phải bán tháo
tài sản của mình.
Kênh dẫn vốn với lãi suất thấp dồi dào trước đây bị khóa, nguồn tín dụng càng khan hiếm hơn. Doanh
nghiệp lao đao, thất nghiệp tràn lan, cầu tiêu dùng giảm mạnh, giá cả hàng hóa sụt giảm do cầu giảm,
giảm phát –nợ là đấy.
2.2.4. Thị trường tài chính tồn cầu
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ bắt đầu từ năm 2007 và ngày càng trầm trọng hơn kéo theo sự sụp đổ
đối với thị trường tài chính, hệ thống tài chính ngân hàng Mỹ đồng loạt đổ vỡ, ngành dịch vụ sản xuất bắt

đầu chững lại và đi xuống. Tiếp tục từ sự tàn khốc này, cuộc đại khủng hoảng 2008 phát triền và lan rộng
ra các nước công nghiệp Châu Âu. Đây là một khu vực quan trọng trên bản đồ kinh tế của thế giới với
những nền kinh tế lớn như Đức, Anh, Pháp, đặc biệt là Liên minh Châu Âu. Năm 2007, Tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của toàn Châu Âu đạt 20.103 tỷ USD, chiếm 36% GDP của toàn thế giới. Cuộc khủng
hoảng tài chính tồn cầu xảy ra tác động mạnh mẽ đến mọi khía cạnh của nền kinh tế Châu Âu từ thị
trường chứng khoán, hệ thống ngân hàng đến vấn đề tăng trưởng kinh tế.

7


Những đối tượng nhạy cảm và bị tác động đầu tiên đều liên quan đến trực tiếp đến hoạt động cho vay
dưới chuẩn. Điển hình là sự sụp đổ của Northern Rock vào tháng 9/2007, đây là ngân hàng lơn thứ năm có
tuổi đời trên 100 năm tại Anh.
Cuộc đại suy thoái lan nhanh từ Âu sáng Á, nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu từ Nhật và EU phải tuyên bố
rơi vào suy thoái. Ngay cả Nga, một cường quốc kinh tế, cũng chịu chung số phận. Giá dầu sụt giảm
mạnh, cùng với nhu cầu xây dựng đang đi xuống ảnh hưởng đến hai mặt hàng xuất khẩu chiến lược của
Nga là dầu mỏ và kim loại, góp phần đẩy quốc gia này lún vào suy thoái.
Như một hiệu ứng dây chuyền, tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sụt giảm
trong chi đầu tư và tiêu dùng, hệ quả là nhiều doanh nghiệp phá sản, tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều quốc gia
tăng cao, trong khi lịng tin của cơng chúng giảm đến đáy trong nhiều năm.
Đỉnh điềm là sự phá sản trên hệ thống quốc gia của Ireland, một trong những nước được đánh giá là có
nên kinh tế thành cơng nhất Châu Âu vì tỉ lệ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới với GDP thực tăng
trưởng bình quân hằng năm là 6,3% từ 1995 tới 2007, trở thành một trong những nước giàu có nhất châu
Âu với lượng vốn chủ sở hữu công ty Mercedes cao hơn cả Đức. Vì vậy mà Ireland cịn được goi là :”con
cọp vùng Celtic”.

Hình 5. Tỷ
nợ
lạm
phát


thất nghiệp
của
Ireland
qua
các
thời kì

lệ

Nhưng đằng sau đó thì với giá bất động sản cao ngất ngưởng cùng với sự bùng nổ của việc cho vay thế
chấp đã trở thành gốc rễ của cuộc khủng hoảng tài chính lớn năm 2008 tại Ireland, khiến cho nên kinh tế
nước này suy thoái trầm trọng và đứng trên bờ vực phá sản trên quy mô quốc gia. Thất nghiệp tăng từ
4.5% trước khủng hoảng lên 12.5% trong khi GDP sụt hơn 10%. Danh sách đóng thuế ít dần trong khi thất
thốt từ khu vực ngân hàng tiếp tục tăng lên, dẫn đến thâm hụt ngân sách chính phủ với một con số đáng
giật mình hơn 30% trong năm 2010. Do đó Ireland đã phải rút khỏi khỏi liên minh Châu Âu và quỹ tiền tệ
IMF.
Vì vậy, các nước Châu Âu chịu ảnh hưởng của cc suy thối nặng nề hơn nhiều so với Hoa Kỳ.
2.2.5. Sự thất bại của các doanh nghiệp hàng đầu
Tác động của cuộc khùng hoảng đến bảng cân đối của doanh nghiệp làm cho các doanh nghiệp hàng
đầu điêu đứng. Trước hết phải kể đến sự sụp đổ của mơ hình ngân hàng đầu tư độc lập (investment bank)
tại Phố Wall. Cả 5 ngân hàng độc lập của con phố tài chính này đều trải qua bước ngoặt quan trọng trong
năm 2008. Các ngân hàng này báo cáo tổng nợ trong năm tài khóa 2007 lên đến 4,100 tỷ, chiếm 30% GDP
danh nghĩa của Mỹ năm 2007. (Nguồn: Edward Conard (2012). Unintended Consequences. Penguin. pp.
8


145–155. ISBN 978-1470823573.): Lehman Brothers phá sản, Bear Sterms và Merill Lynch bị thâu tóm,
Morgan Stanley và Goldman Sachs trở thành ngân hàng thương mại,phải chịu các quy định nghiêm ngặt
hơn. Tính đến ngày 15/12/2008, số NHTM của Mỹ phải đóng cửa đã lên đến con số 25, so với số 3 ngân

hàng bị ngưng hoạt động trong năm 2007. Phải kể những tên tuổi lớn như Washington Mutual, IndyMac
Bank.
Trong tháng 7/2008, đổ vỡ tài chính tại Fannie Mae và Freddie Mac, đây thực chất là 2 công ty tư nhân
chuyên cho vay cầm cố nhưng được Chính phủ Mỹ bảo trợ (GSEs). Hai định chế này đã tập hợp các
khoản vay có thế chấp dưới chuẩn thành một nhóm và chuyển đổi thành một loại “Chứng khoán đảm bảo
bằng thế chấp” (MBS và cùng nhau bảo lãnh cho khoảng hơn 5 nghìn tỷ đồng thế chấp. Khi thị trường cho
vay dưới chuẩn ở Mỹ sụp đổ, hai tổ chức này hồn tồn mất thanh khoản, khơng thể chi trả cho một lượng
lớn các nhà đầu tư nắm giữ MBS. Bộ tài chính Mỹ và Cục dự trữ liên bang phải ra tay vực dậy để cứu
sống Fannie Mae và Freddie Mac. Đầu tháng 9/2008, công ty này được đưa vào tiếp quản bởi Chính Phủ
để tránh nguy cơ phá sản.
Sự kiện này châm ngòi cho những vụ đổ vỡ tiếp theo với những tên tuổi lớn khác.
Hình 6: Hệ số nợ của một số ngân hàng đầu tư

Vào thứ hai, 15/9/2008, sau khi bị thua lỗ trong thị trường cho vay dưới chuẩn, Lehman Brothers, sau 158
năm tồn tại, ngân hàng đầu tư lớn thứ tư tại Mỹ với quy mô tài sản hơn 600 tỷ USD và hơn 25,000 công
nhân, đã đệ đơn xin phá sản, trở thành công ty lớn nhất bị phá sản trong lịch sử Hoa Kỳ. Một ngày trước
đó, Merrill Lynch, ngân hàng đầu tư lớn thứ ba, cũng phải chịu tổn thất lớn khi nắm giữ các chứng khốn
dưới chuẩn, đã phải cơng bố bán cho Bank of America với cái giá thấp hơn 60% so với giá trị của nó một
năm trước đó. Đúng 10 ngày sau vụ Lehman Brothers, Washington Mutual tạo nên vụ phá sản ngân hàng
lớn nhất trong lịch sử với tổng tài sản thiệt hại tới 307 tỷ USD.
Thứ ba, 16 /09/2008 , AIG, một gã khổng lồ trong ngành bảo hiểm với tài sản hơn 1000 tỷ USD. Cùng
chung số phận, đã phải hứng chịu một cuộc khủng hoảng về thanh khoản khi xếp hạng tín dụng của công
ty này bị hạ bậc. Công ty này trước đó đã kí 400 tỷ USD hợp đồng bảo hiểm (giao dịch hốn đổi tín dụng
mặc định), mà những hợp đồng này phải trả cho những khoản thua lỗ do chứng khoán thế chấp dưới chuẩn
gây ra. Cục dự trữ Liên bang đã nhảy vào với một khoản cho vay 85 tỷ USD để cứu AIG, làm cho tổng dư
nợ Chính phủ sau đó tăng đến 173 tỷ USD.
9


2.3. ĐỈNH ĐIỂM CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG

Tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến Ngân hàng Trung ương Mỹ, Anh
Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng loạt khơi thơng dịng vốn. Các quốc gia trên
cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng như kích thích hoạt
động tiêu dùng và cho vay. Trong đó, FED quyết định dùng 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của các ngân
hàng. Trước khi được thông qua vào ngày 1/10/2008, kế hoạch hỗ trợ lớn chưa từng có trong lịch sử đã
vấp phải khơng ít phản đối tại Quốc hội Mỹ. Đặc biệt tại vòng bỏ phiếu vào ngày 29/9/2008, Hạ viện bất
ngờ không .thông qua kế hoạch với tỷ lệ 228 phiếu chống và 205 phiếu thuận, Thị trường chứng khoáng
sụp đỗ ngay lập tức khi thơng tin này được truyền hình tực tiếp trên truyền hình, chỉ số Dow Jones giảm
6,98%.
Đỉnh điểm vào tuần đầu tháng 10, từ ngày 6/10/2008, đánh dấu tuần suy giảm tồi tệ nhất trong lịch sử
Mỹ. Ngày 15/10/2008, thị trường chứng khoán giảm kỷ lục 733 điểm (7.9%), mức giảm mạnh nhất kể từ
ngày thứ sáu đen tối 19/10/1987. Chênh lệch tính dụng đã vượt quá giới hạn trong 3 tuần tiếp theo, sự
chênh lệch giữa lại suất trái phiếu các Côngty Baa (những công ty có mứa độ rủi ro trung bình theo xếp
hạng của Moddy's) và lãi suất trái kho bạc Mỹ đã hơn 5.5 điểm phần trăm (550 điểm cơ bản)

Hình 7. Chênh lệch tín dụng đã tăng hơn 4 điểm phần trăm (400 điểm cơ bản) trong cuộc khủng
hoảng tài chính.
Các cuộc tranh luận về gói cứu trợ và sự sụp đổ của thị trường chứng khoán do chênh lệch lãi
suất đạt đỉnh điểm vào tháng 12/2008(thời điểm Chênh lệch tín dụng hơn 5.5 điểm phần trăm).
Nguồn: Ngân hàng dữ trự liên bang st. Louis, />Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số Dow Jones sụt tới 25% giá trị
chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Không chỉ ở phố Wall, tuần lễ từ 15 đến 21/9/2008 thị trường
chứng khoán của cả thế giới chao đảo, từ Tôkyô đến Thượng Hải, Seoul và Hồng Kơng, các chỉ số chứng
khốn đều tuột dốc mạnh. Tại châu Âu, các thị trường chứng khoán Paris, Luân Đơn, Franfurt,
Amsterdam cùng chung số phận. Thị trường chứng khốn Matxcơva cũng lâm vào tình trạng hoảng loạn
đến nỗi phải tạm đóng cửa để chờ cho cơn bão đi qua.
Sự thất bại của thị trường tài chính và lãi suất gia tăng dẫn đến sự sụt giảm chi tiêu tiêu dùng và đầu tư.
Kinh tế Mỹ lâm vào suy thoái với tốc độ nhanh, GDP thực tế giảm mạnh, khoảng - 1,3% trong quí thứ 3
năm 2008, đến quí 4 tiếp tục giảm xuống -5,4% và - 6,4% trong quí tiếp theo. Tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt,
vượt quá 10% vào cuối năm 2009.
10



Tiếp theo Mỹ, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Nhật Bản đã chính thức cơng bố lâm vào suy thoái
kinh tế ngày 18/11/2008 sau khi tăng trưởng âm liên tiếp trong hai quý II và III/2008. Như vậy, đây là lần
đầu tiên kể từ năm 2001, kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thối. Trước đó, khu vực đồng tiền chung Euro
cũng lần đầu tiên rơi vào suy thối kể từ khi hình thành năm 1999. Số liệu thống kê cho thấy GDP của 15
nước sử dụng đồng tiền chung Euro đã tăng trưởng âm liên tiếp trong quý II và quý III/2008. Đức là nền
kinh tế lớn nhất châu Âu và đứng thứ ba thế giới chính thức rơi vào cuộc suy thối lớn nhất trong vòng 12
năm qua, kinh tế Anh cũng lâm vào suy thoái, theo dự báo năm 2009 sẽ chịmức sút giảm mạnh nhất kể từ
gần hai thập niên qua, số người thất nghiệp có thlên tới 3 triệu người vào năm 2010. Số liệu thống kê của
Italia cho biết nền kinh tế nước này đang rơi vào cuộc suy thoái nặng nề nhất kể từ năm 1992.
Khủng hoảng tài chính cũng tràn qua Trung Quốc, Nga, Ấn Ðộ, Braxin...là những nơi được dự đốn là
ít chịu tác động nhất. Kinh tế Trung Quốc vốn được coi là một động lực tăng trưởng của kinh tế thế giới,
sau nhiều năm tăng trưởng ở mức hai con số, đã giảm chỉ còn 9% trong quý III/2008. Ngân hàng Thế giới
cho biết tăng trưởng GDP của Trung Quốc chỉ đạt 7,5% trong năm 2008, mức thấp nhất trong vòng 19
năm qua. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đã giảm sút nghiêm trọng từ 16% trong tháng 6 xuống còn
8,2% trong tháng 10/2008, thấp nhất trong 7 năm qua. Xuất khẩu suy giảm do khủng hoảng tài chính, theo
dự báo sẽ cịn khó khăn hơn trong năm 2009, kéo theo sự sụt giảmnhiều ngành sản xuất khác và làm tăng
tỷ lệ thất nghiệp.
Khủng hoảng tài chính tại Nga đang ngày càng trầm trọng khi đồng Rúp mất giá mạnh, Chính phủ đã
phải chi 58 tỷ USD để giữ giá đồng tiền này. Trong khi đó, nguy cơ thâm hụt ngân sách của Nga rất lớn và
kinh tế khó khăn, bởi thời kỳ thịnh vượng nhờ giá dầu lửa cao đã chấm dứt. Nền kinh tế Nga vốn ổn định
và mạnh lên trong thời gian khá dài nhờ xuất khẩu dầu lửa được giá, nhưng hiện đứng trước nhiều khó
khăn do khủng hoảng tài chính và giá dầu thế giới giảm mạnh, xuống dưới 50 USD/thùng - đây là mức
thấp nhất trong 4 năm qua.
2.4. SỰ CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ VÀ SỰ HỒI PHỤC
2.4.1. Những cuộc giải cứu tại Mỹ và Châu Âu
Mặc dù suy thối kinh tế do cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu rất nghiêm trọng nhưng hậu quả này
được hạn chế rất nhiều so với cuộc đại khủng hoảng 1929-1930 nhờ vào sự can thiệp quyết liệt nhằm vực
dậy thị trường tài chính qua đó kích thích nền kinh tế.

Tại Mỹ:
Cục dự trữ liên bang Mỹ hành động bất thường trong chính sách tiền tệ để kích thích nền kinh tế, giúp
cho hệ thống tài chính hoạt động bình thường. Chính phủ Mỹ đã tung ra gói cứu trợ trị giá 150 tỷ USD để
giúp tập đoàn bảo hiểm toàn cầu AIG vượt qua khó khăn.
Kế hoạch cứu trợ tài sản gặp khó khăn (mua lại các khoản nợ xấu) – TARP có ý nghĩa quan trọng nhất.
Chính quyền đã thơng qua đạo luật hồi phục kinh tế 10/2008 bằng cách ủy quyền cho Bộ Tài chính khoản
chi tiêu 700 tỷ USD để mua lại các khoản cho vay dưới chuẩn của các ngân hàng đầu tư. Ngồi ra đạo luật
cịn nâng cao mức bảo đảm tiền gửi từ 100 ngàn USD lên 250 ngàn USD để hạn chế làn sóng rút tiền ra
khỏi các ngân hàng, tiếp sau đó cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên bang FDIC đưa ra đảm bảo cho các khoản
nợ mới phát hành thông qua các quỹ hỗ tương và kho bạc thời gian 1 năm và mua lại đúng mệnh giá.
Tương tự như vậy chính phủ các nước châu Âu cũng bơm vào hệ thống ngân hàng 10 ngàn tỷ USD để
ngăn chúng khỏi bị sụp đổ.
Trong cuộc giải cứu này chính phủ Mỹ cịn kích thích nền kinh tế bằng các gói kích cầu. Tháng 2/2008
sau khi được quốc hội Mỹ thông qua gói kích cầu trị giá 780 tỷ USD bằng hỗ trợ 600 USD trên mỗi tài
khoản thuế thu nhập cá nhân.
Tổng thống mới đắc cử Obama đã đề xuất và được thơng qua gói: Phục hồi và tái đầu tư 2009, gói kích
thích 789 tỷ USD (gói này đến nay vẫn cịn gây tranh cãi về hiệu quả của nó).
11


Với nhiều gói cứu trợ từ chính phủ và những nổ lực phi thường của FED, cuối cùng thị trường cũng có
dấu hiệu hồi phục vào tháng 3/2009.
Châu Âu:
Những thất bại ngân hàng đã lan rộng sang châu Âu vào mùa thu năm 2008 dẫn đến gói cứu trợ khổng
lồ từ chính phủ: Hà Lan, Bỉ, Luxambua đã bơm vào 16 tỷ USD để chống đỡ cho Fortis khỏi sụp đổ. Một
cổ đông lớn của ngân háng châu Âu ECB là Hà Lan cũng tung vào thị trường 13 tỷ USD để giúp tập đoàn
bảo hiểm – ngân hàng khổng lồ. Đức cung cấp gói cứu trợ 50 tỷ USD để cứu Hypo Real Estate Holdings
và Ireland thông qua ba ngân hàng lớn của mình đã bảo đảm chính phủ đảm bảo cho tất cả những khoản
cho vay ở ngân hàng thương mại cũng như cac khoản vay lien ngân hàng. Cũng giống như Mỹ, Tây ban
nha, Hy Lạp đã tung ra gói cứu trợ 70 tỷ USD nợ xấu và khuyến khích người dân cho vay.

Kho bạc Vương quốc Anh đã được thơng qua gói giải cứu 400 tỷ bảng bao gồm bảo đảm 250 tỷ bảng
bảo đảm nợ ngân hàng, 100 tỷ dành cho các tài sản này giao dịch hốn đổi trái phiếu chính phủ Mỹ, 50 tỷ
còn lại để mua lại cổ phần các ngân hàng Anh.
Ngồi ra Hàn Quốc với gói cứu trợ 100 tỷ USD, Thụy Điển 200 tỷ USD, Pháp (400 tỷ)…tất cả đều bảo
đảm các khoản tiền gửi tại ngân hàng. Ngoài việc từng quốc gia có gói cứu trợ riêng mình, cịn có sự phối
hộp đồng bộ các chính phủ để giúp tranh cho thị trường toàn cầu bị sụp đổ.
2.4.2. Bài học nhận được từ cuộc khủng hoảng trong cách điều hành vĩ mơ:
Từ cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009 ở Mỹ cho thấy rằng: phải có những biện pháp theo dõi
những hiệu ứng phụ trong quá trình đưa ra “liều thc” kích thích tăng trưởng kinh tế. Kích cầu không
phải lúc nào cũng là giải pháp tốt để nền kinh tế vượt qua suy thối mà có lúc nó có thể là hiểm họa gây
nên lạm phát và suy thối. Nếu thể chế tài chính có những khiếm khuyết khiến dịng tiền kích cầu lệch
hướng ra khỏi mục tiêu ban đầu hoặc sử dụng chúng kém hiệu quả. Ở kịch bản xấu nhất dịng vốn này có
thể khơng đổ vào đầu tư sản xuất mà là để đầu cơ vào các tài sản hoặc bất động sản gây nên tình trạng
bong bóng tài sản. Xét cho cùng thì các gói kích cầu chẳng qua là chính sách nới lỏng tiền tệ, hạ thấp lãi
suất cho vay như Mỹ đã làm. Điều này dễ dẫn đến nguy cơ sự lựa chọn vô trách nhiệm và rủi ro đạo đức
trong việc sử dụng vốn vay khi mà các biện pháp giám sát hệ thống ngân hàng bị buông lỏng mà ngay cả
một hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả bật nhất như Mỹ còn gặp phải.
III.

TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM

3.1. Tác động khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam
3.1.1. Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính tồn cầu đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước
ta chậm lại. Kế hoạch đầu năm 2008, tăng trưởng GDP dự kiến từ 8,5 – 9%. Tháng 5 năm 2008 Quốc hội
đã điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng GDP xuống 7%, nhưng đến tháng 10 năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng GDP thực
tế là 6,52%, dự kiến năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ từ 6,5 đến 6,7%.
3.1.2. Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng
Mặc dù hiện tại hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam chưa chịu tác động mạnh từ cuộc khủng
hoảng tài chính của Mỹ vì hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của hội nhập;

nhưng trước mắt sẽ có những hạn chế trên một số lĩnh vực như:
- Mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị trường tài chính bên ngồi và với ngân
hàng Mỹ sẽ gặp khó khăn; Trong ngắn hạn, do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính, lợi nhuận của
nhiều ngân hàng có thể giảm, thậm chí một số ngân hàng nhỏ có thể thua lỗ; nợ xấu tăng lên; nên hệ thống
ngân hàng tài chính Việt Nam có nguy cơ bị ảnh hưởng trong một vài năm;
- Khả năng giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tế sẽ giảm, ảnh hưởng đến nợ vay ngắn hạn của Việt Nam
tại các ngân hàng và doanh nghiệp.
12


3.1.3. Đối với hoạt động xuất khẩu
Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu.
Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do cầu tiêu dùng
tại thị trường Mỹ đang trên đà giảm mạnh. Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ
sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của ViệtNam trong năm 2008 và cả năm 2009 (nếu
nền kinh tế Mỹ chưa có dấu hiệu phục hồi). Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng cịn tuỳ thuộc vào tính chất của
từng mặt hàng. Khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới,
đặc biệt là EU và Nhật Bản – đây là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.
Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, các nhà
nhập khẩu khơng có khả năng thanh tốn do khó khăn về tài chính, theo đó nhập khẩu đối với hàng hố
xuất khẩu của Việt Nam sẽ có xu hướng giảm. Thực tế những tháng gần đây, với tác động tiêu cực của
khủng hoảng tài chính, xuất khẩu của Việt nam đã bắt đầu có biểu hiện giảm sút, kim ngạch xuất khẩu
tháng 11 đã tiếp tục giảm và xuống dưới ngưỡng 5 tỷ USD/tháng. Đây là tháng thứ ba kim ngạch xuất
khẩu suy giảm.
Tháng 11 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 4,8 tỷ USD giảm so với mức 5,044 tỷ USD
của tháng 10. Trong đó: Dệt may giữ được kim ngạch ở mức 780 triệu USD, giày dép tăng nhẹ lên 400
triệu USD so với 396 triệu USD của tháng 10/2008. Một số mặt hàng khác cũng suy giảm trong đó đặc
biệt là dầu thơ giảm mạnh do giá dầu đã giảm 60% so với mức tháng 7/2008. Dấu hiệu của suy giảm kinh
tế đã bắt đầu xuất hiện. Khủng hoảng tài chính sẽ dẫn đến suy thoái kinh tế, nhiều mặt hàng thế mạnh của
Việt Nam sẽ giảm giá và chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu.

3.1.4.Đối với vốn đầu tư của nước ngoài kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
Với tình hình khủng hoảng như hiện nay, chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị trường xuất khẩu có
khả năng bị thu hẹp nên dịng vốn chảy vào ViệtNam có khả năng giảm sút. Thêm vào đó, hầu hết các dự
án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư,
nên khi các tổ chức tài chính, các ngân hàng gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn không
được ký kết hoặc không thể giải ngân được. Tuy nhiên, theo dự báo (tháng 11 năm 2008) Việt Nam vẫn
thực hiện khoảng 10 tỷ USD vốn giải ngân, bằng 16,2% vốn đăng ký và tăng 44% so với cùng kỳ năm
2007. Qua xem xét luồng vốn FDI trong 11 tháng đầu năm nay, có thể nhận thấy hầu hết các nhà đầu tư
nước ngoài là từ châu Á (13% từ Nhật Bản và 67% từ các nước châu Á khác), trong đó các nhà đầu tư đến
từ châu Âu và Mỹ chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn khoảng 5% trong số vốn đăng ký, gần 60 tỷ USD. Do
vậy, năm 2008 Việt Nam có cơ sở để tin tưởng việc triển khai thực hiện các dự án đăng ký trong năm
2008 sẽ khơng gặp nhiều khó khăn và trong năm 2009 hy vọng sẽ tăng lên hoặc có thể giữ ở mức như năm
2008. Tình hình chung do khủng hoảng tài chính với việc làm khó khăn, thu nhập giảm, tiêu dùng giảm
lượng kiều hối có khả năng sụt giảm. Tuy nhiên, cho đến nay lượng kiều hối vẫn tăng ổn định, dự kiến
năm nay đạt khoảng 8 tỷ USD tăng 60% so với năm 2007. Mặc dù vậy nếu khủng hoảng vẫn còn kéo dài,
lượng kiều hối sút giảm là điều không thể tránh khỏi.
3.1.5. Hoạt động của thị trường chứng khốn (TTCK) sẽ gặp khó khăn, bất lợi cho các nhà đầu tư
- Khủng hoảng tài chính ngày càng ảnh hưởng rộng trên thị trường tài chính thế giới, theo đó các nhà đầu
tư và các quỹ đầu tư nước ngồi sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn, hoặc họ sẽ có xu hướng
thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi các thị trường lớn của họ đang gặp khó khăn và việc họ cơ cấu
lại chứng khốn Việt Nam là điều có thể xảy ra.
- Có thể có khả năng các nhà đầu tư ngoại rút vốn khỏi thị trường Việt Nam để ứng cứu cho công ty mẹ tại
các thị trường lớn, nhưng khả năng này rất ít vì lượng vốn đầu tư của mỗi nhà đầu tư ở thị trường Việt
Nam là không nhiều và hiện Việt Nam vẫn là địa điểm đầu tư an tồn có độ tin cậy cao. TTCK Việt Nam
là một nơi có ưu thế đầu tư khi tình hình kinh tế vĩ mơ ViệtNam đang có chiều hướng tốt dần…
- Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường chứng khốn sẽ
khơng tránh khỏi tác động xấu, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu, theo đó giá cổ phiếu có thể sụt giảm.

13



- Khủng hoảng tài chính tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam, TTCK
lập tức bị tác động xấu vì những lo ngại của các nhà đầu tư trong nước. Yếu tố tâm lý là khá quan trọng, vì
vậy cần có những giải pháp, đặc biệt là thông tin, tuyên truyền đầy đủ để củng cố niềm tin cho các nhà đầu
tư; hạn chế những lo ngại thái quá làm ảnh hưởng xấu đến TTCK.
3.1.6. Đối với thị trường bất động sản (BĐS)
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam tiềm lực tài chính khá hạn hẹp mà
phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài chủ yếu là vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Đây là một khó khăn của doanh nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng hoảng tài chính hiện nay.
Cuối năm 2007 tình trạng đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao so với giá trị thực. Thị
trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm 2008 nền kinh tế Việt Nam gặp khó khăn do
ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng cao buộc người dân phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS
đóng băng, giá BĐS đã giảm đến 40%, các doanh nghiệp kinh doanh BĐS rơi vào khó khăn, khơng bán
được sản phẩm l ại phải chịu lãi suất cao do chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng cao.
Đến nay thị trường cũng chưa có dấu hiệu phục hồi. Giá BĐS giảm sẽ kéo theo tài sản ngân hàng cũng
giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại rơi vào tình thế bất lợi.
Hiện nay khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa ốc tuy không làm ảnh
hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở Việt Nam nhưng nó sẽ ảnh hưởng gián tiếp qua các tác động đến thị
trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán và các yếu tố tâm lý của người dân. Tuy nhiên theo báo
cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì cho vay BĐS chiếm khoảng 9,5% tổng số dư nợ của các Ngân
hàng và tổ chức tín dụng. Mặc dù vậy việc tác động gián tiếp đến thị trường BĐS Việt Nam như đã nói ở
trên là có thể.
3.1.7. Đối với thị trường hàng hố và dịch vụ
Sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dung. Trong tình hình kinh tế thế giới đang suy thối, tình hình
kinh tế vĩ mơ của Việt Nam mặc dầu đã được cải thiện nhưng nói chung vẫn cịn nhiều khó khăn. Trong
thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mơ do chi phí
sản xuất tăng, đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Một số hoạt động dịch vụ sẽ bị thu hẹp, đặc biệt là lượng
khách du lịch sẽ giảm so với năm 2007
3.2 Bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam
Qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam đã rút ra một số bài học kinh nghiệm về việc duy trì

tăng trưởng và phát triển bền vững của Việt Nam, bao gồm:
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế vừa qua đã cho thấy sự yếu kém của công tác giám
sát, dự báo và cảnh báo về khả năng xảy ra khủng hoảng. Do vậy, cần tăng cường nguồn lực để làm tốt
công tác này ở cấp quốc gia, khu vực và trên phạm vi tồn cầu.
Thứ hai, phải ln coi trọng ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và an
toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng. Có chính sách tài khố và chính sách tiền tệ phù hợp, vận hành
theo cơ chế thị trường, đi đơi với phát huy vai trị quản lý của nhà nước nhằm khắc phục những khiếm
khuyết của thị trường.
Thứ ba, mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, do đó các giải pháp đối phó với khủng
hoảng, ngăn chặn suy giảm kinh tế phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng quốc gia. "Là một nước
đang phát triển, với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, thị trường nội địa còn nhiều tiềm
năng, cùng với các giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất khẩu, chúng tôi đã tập trung
nguồn lực triển khai thực hiện các dự án hạ tầng, nhất là giao thông, năng lượng, thuỷ lợi, y tế, giáo dục...
để sớm đưa vào sử dụng; chú trọng hơn việc phát triển thị trường nội địa, nhất là khu vực nơng thơn", Thủ
tướng nói. Theo Thủ tướng, Việt Nam đối phó với khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu trong bối cảnh
tương đối khác so với nhiều nước trên thế giới, cụ thể là lạm phát và mặt bằng lãi suất cơ bản cùng ở mức
cao. Do vậy, cùng với việc cắt giảm lãi suất đến mức hợp lý, Việt Nam đã thực hiện chính sách hỗ trợ lãi
suất, bảo lãnh tín dụng, miễn, giảm, giãn nhiều loại thuế cho từng lĩnh vực và đối tượng cụ thể.
14


Bài học thứ tư, đó là các nước nghèo, người nghèo, khu vực nông thôn là những đối tượng chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất của khủng hoảng, do vậy, cùng với các giải pháp kích thích kinh tế, bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mơ thì Việt Nam đã đặc biệt quan tâm tới bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, hỗ trợ cho khu
vực nông nghiệp nông thôn.
Thứ năm, khi đã xác định được mục tiêu và giải pháp đúng đắn thì phải chỉ đạo điều hành quyết liệt,
đồng bộ, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền để tạo đồng thuận cao trong xã hội, phát huy được sức
mạnh tổng hợp của đất nước. Ngày nay, tình hình có thể biến đổi rất nhanh, do đó cũng cần thường xuyên
rà soát, cập nhật các đánh giá và phân tích đ ể điều chỉnh chính sách kịp thời.
Thứ sáu, trong bối cảnh q trình tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, việc đối phó với khủng hoảng địi

hỏi phải có sự nỗ lực của từng quốc gia, đồng thời phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tập trung nguồn lực
và phối hợp hành động chung trên phạm vi khu vực và toàn cầu, thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc
tế.
IV.
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã làm biến đổi sắc thái kinh tế của nhiều nước đặt biệt
nền kính tế nước Mỹ. Chính vì sự lay động nền kinh tế nước Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh
hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm
lại ở hầu hết các nước khác. Vì sự tác động kép của cuộc khủng hoảng kinh tế, nên việc nghiên cứu những
nguyên nhân và tìm ra biện pháp khác phục, bình ổn nền kinh tế các nước trên thế giới nói chung và nền
kinh tế Việt Nam nói riêng là hết sức quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Để từng bước khơi
phục bình ổn nền kinh tế, Chính phủ phải quan tâm thắt chặt hơn những chính sách tài chính tiền tệ, chứng
khốn, nguồn vốn ra vào của Nhà đầu tư nước ngoài, v.v...
Tuy vậy nhờ sự can thiệp kịp thời của chính phủ trong việc ban hành và thực thi một loạt các giải
pháp chống lạm phát mà tình hình đã dần ổn định, cơ cấu kinh tế vĩ mô đã được đảm bảo, Việt Nam trước
mắt đã thoát khỏi nguy cơ khủng hoảng. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2008 giảm xuống còn
6,31%, năm 2009 còn 5,32%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh về vốn đăng ký (từ 71,7 tỷ USD
năm 2008 còn 21,5 tỷ USD năm 2009) và vốn thực hiện (từ 11,5 tỷ USD xuống 10 tỷ USD). Lượng khách
quốc tế giảm từ trên 4,2 triệu lượt người xuống còn trên 3,7 triệu lượt người. Lượng kiều hối giảm từ 7,2
tỷ USD xuống còn gần 6,3 tỷ USD,vốn đầutư gián tiếp sụt giảm mạnh. Tốc độ tăng giá tiêu dùng cao
trong năm 2007 (12,63%), bùng phát trong năm 2008 đã tăng tới 19,89% (tính bình qn năm đã tăng tới
22,97%). Giá USD nếu năm 2007 giảm nhẹ, thì năm 2008 tăng 6,31% và năm 2009 đã tăng 10,7%. Nhập
siêu năm 2007 lên trên 14,2%, năm 2008 đã lên đến trên 18 tỷ USD và năm 2009 cũng gần 12,9 tỷ USD.
Nhưng các biện pháp trên chưa thực sự được cho là hồn hảo, nó đã để lại khơng ít những hậu quả
và di chứng cho nền kinh tế. Đánh giá lại về hiệu quả các biện pháp này là một việc làm đúng đắn để
chúng ta có thể rút được bài học kinh nghiệm cho những năm tiếp sau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- The Economics of money, Banking, and Financial Markets (Tenth Editional- Frederic
S.Mishkin)

- Chính phủ (2008), Báo cáo tại Kỳ họp Quốc hội tháng 11 năm 2008;
Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Báo cáo nhanh.
Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin tổng hợp tháng 11/2008.
Trường BDCB tài chính (2008), Kết quả Hội thảo trực tuyến “Khủng hoảng tài chính phố
Wall: Những biện pháp ứng phó đối với các nền kinh tế châu Á” do Trường BDCB tài chính
phối hợp với Trung tâm Tài chính và Phát triển châu Á – Thái Bình Dương thuộc Bộ Tài
chính Trung Quốc và Trung tâm Thơng ;
Web VnEconomy.vn, Khủng hoảng kinh tế tài chính Hoa Kỳ 2007- 2009.
Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội kinh tế và kinh doanh

15



×