Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ NĂM 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.29 KB, 14 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
NGÀNH NGÂN HÀNG

TIỂU LUẬN:

KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ
NHỮNG BÀI HỌC TỪ QUÁ KHỨ
GVHD: Trương Trung Tài

Họ tên: Nguyễn Cẩm Hường
Lớp: Ngân hàng 2012
Điện thoại: 01225.737.747
Email:
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2014


Mục lục


Tóm tắt
Khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay là một vấn đề nan giải với tất cả các quốc gia, gây đau đầu cho
các chuyên gia kinh tế. Đây không còn là đề tài hiếm hoi nữa mà là một vấn đề hết sức quan trọng trong nền
kinh tế của các quốc gia. Các chuyên gia kinh tế đều đang trên con đường tìm giải pháp tối ưu để phục hồi
nền kinh tế toàn cầu.
Vậy khủng hoảng kinh tế là gì? Đâu là nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng kinh tế? Việt Nam đứng
trước khủng hoảng kinh tế khi vừa gia nhập WTO đã chịu ảnh hưởng như thế nào? Các giải pháp và phương
thức để ngăn ngừa khủng hoảng kinh tế? Đó là lý do em thực hiện đề tài “Khủng hoảng kinh tế và những
bài học từ quá khứ”.
Bài tiểu luận này nhằm vào việc tìm hiểu rõ khái niệm, nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng và
những tác động của khủng hoảng mà Việt Nam đã phải trải qua. Đồng thời, cho phép chúng ta rút ra những


bài học quý báu về chính sách tài chính lành mạnh, nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội nhập kinh
tế trong tương lai.

I.

Giới thiệu
Khủng hoảng và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản không còn là đề tài mới mẻ mà đã được nghiên cứu
khá nhiều trong các tài liệu về chủ nghĩa tư bản hiện đại cả ở phương Đông và phương Tây. Đó luôn là một
mối đe dọa lớn trong nền kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới dù đã đi qua nhưng vẫn để lại những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế của nhiều quốc gia. Vì thế,
khủng hoảng kinh tế trở thành một trong số những vấn đề mà các nhà kinh tế quan tâm nhất.
Lịch sử đã chứng minh, cho dù nền kinh tế phát triển đến đâu thì các quốc gia đều không tránh khỏi
khủng hoảng kinh tế. Có thể nói, tìm hiểu về khủng hoảng kinh tế và rút ra bài học từ quá khứ là một vấn đề
lớn mà mỗi công dân kinh tế nên biết đến. Việc tìm hiểu rõ để tìm cách hạn chế và ngăn chặn khủng hoảng
là một vấn đề hết sức cấp bách đối với toàn thể nhân loại. Nhận thức được vấn đề trên, em đã chọn “Khủng
hoảng kinh tế và những bài học từ quá khứ” làm đề tài để viết tiểu luận này.
Bài viết gồm hai phần:
- Hệ thống lý thuyết, trong đó bao gồm:
 Khái niệm khủng hoảng kinh tế.
 Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế.
 Hậu quả do cuộc khủng hoảng kinh tế để lại.
 Cách khắc phục.
- Tình hình Việt Nam, trong đó gồm:
 Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
 Những bài học từ quá khứ.
-

II.

Mục tiêu nghiên cứu:

Hiểu biết rõ ràng, chính xác về khái niệm, nguyên nhân, hậu quả cũng như cách khắc phục khủng hoảng
kinh tế.
Phân tích được ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam và rút ra
được bài học từ cuộc khủng hoảng kinh tế đã trải qua.
Nâng cao kiến thức môn học, tăng cường hiểu biết kinh tế thế giới, đồng thời chia sẻ những thông tin đã
tìm hiểu được.

Hệ thống lý thuyết


1. Khái niệm khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế là sự mất cân bằng trong nền kinh tế thị trường, là sự không ổn định trong quá
trình tái sản xuất trong nền kinh tế. Quá trình mất ổn định này kéo dài và không thể điều chỉnh được dẫn
đến những chấn động nặng nề cho nền kinh tế. Khủng hoảng kinh tế diễn ra trên mọi lĩnh vực của nền sản
xuất xã hội.
Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tài sản xuất đang bị suy sụp tạm thời. Thời gian khủng
hoảng làm những xung đột giữa các giai cấp trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một
quá trình tích tụ tư bản mới.
Karl Marx là người đã đưa ra học thuyết về khái niệm khủng hoảng kinh tế gây ra nhiều tranh cãi.
Những nghiên cứu của ông không đưa ra bản chất của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản mà chủ
yếu gợi lên nhiều lý luận khác nhau. Một đặc điểm chủ yếu của những lý luận này là khủng hoảng không
phải ngẫu nhiên mà nó bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư bản với vai trò là một hình thái xã hội.
Những lý luận này bao gồm:
- Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận: Tích tụ tư bản gắn liền với xu hướng chung của mức độ tập trung
cơ bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến
khủng hoảng.
- Tiêu thụ dưới mức: Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh giai cấp với mục đích cắt giảm
tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối
mặt với vấn đề thường xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương xứng với quy mô sản xuất và tổng cầu
không tương xứng với tổng cung.

- Sức ép lợi nhuận từ lao động: Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê mướn tăng lên và làm tăng tiền
lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt đến một mức độ nhất định
sẽ gây ra suy thoái kinh tế.
Về mặt lý luận, ít nhất những quan điểm trên không mâu thuẫn với nhau và có thể đóng vai trò là
những nội dung trong một học thuyết tổng hợp về khủng hoảng kinh tế.
Chu kỳ kinh tế, hay còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế. Chu kỳ này bao
gồm 4 giai đoạn là: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi, phồn vinh diễn biến theo đồ thị dưới đây:

-

Khủng hoảng: Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ kinh tế. Ở giai đoạn này, những dấu hiệu khủng hoảng
kinh tế sẽ xuất hiện, đầu tiên là khủng hoảng tiêu thụ. Khủng hoảng tiêu thụ xảy ra khi lượng cung lớn
hơn cầu, các doanh nghiệp dự trữ hàng hóa quá nhiều trong kho, giá cả hàng hóa giảm xuống, khi đó


cuộc cạnh tranh tiêu thụ hàng hóa trở nên gay gắt. Các doanh nghiệp hoặc sẽ thu hẹp, hoặc sẽ đình chỉ
sản xuất. Đối mặt với việc không có khả năng thanh toán nợ, doanh nghiệp bán trái phiếu, cổ phiếu, rút
tiền khỏi ngân hàng làm giá trị thị trường giảm mạnh dẫn đến khủng hoảng tiền tệ tín dụng. Cùng với sự
phá sản của các doanh nghiệp, công nhân mất việc, đời sống nhân dân trở nên vô cùng khó khăn. Khi đó,
các nhà tư bản lại ra sức bóc lột công nhân, khiến mâu thuẫn của tư bản chủ nghĩa càng trở nên gay gắt.
- Tiêu điều: Ở giai đoạn này, nền sản xuất ở trạng thái trì trệ. Việc sản xuất không giảm sút nữa nhưng vẫn
không tăng lên. Hàng hóa hoặc bị tiêu hủy hoặc bị bán phá giá. Trong tình hình đó, các doanh nghiệp sẽ
làm mọi cách để giảm chi phí sản xuất, đổi mới tư bản cố định và cải tiến kỹ thuật. Nhờ vào đó, tư liệu
sản xuất và tư liệu sinh hoạt được tăng lên đưa nền kinh tế dần thoát khỏi sự đóng băng, đi vào giai đoạn
phục hồi.
- Phục hồi: Nhờ các doanh nghiệp đổi mới tư bản cố định, sản xuất bắt đầu rộng mở, đây là giai đoạn sản
xuất dần đi vào ổn định như trước khủng hoảng. Giá cả hàng hóa tăng, nhu cầu công việc tăng dẫn đến
lợi nhuận tăng cao, khi đó, nền kinh tế sẽ bước sang giai đoạn mới, đó là giai đoạn phồn vinh.
- Phồn vinh: Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của chu kỳ kinh tế. Cung cầu hàng hóa phát triển, nhu
cầu tín dụng tăng, tỷ suất lợi tức phát triển. Lợi nhuận tăng cao, sản xuất vượt trội so với trước khủng

hoảng. Quy mô sản xuất và thương nghiệp rộng mở, nền kinh tế phục hồi, phát triển mạnh mẽ, làm tiền
đề cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
Các giai đoạn của chu kỳ kinh tế liên quan mật thiết với nhau có sẽ thay đổi mức độ, quy mô hay phạm
vi khác nhau tùy theo từng quốc gia, từng thời điểm.

2. Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế
-

-

Nguyên nhân khách quan: là những nguyên nhân do các yếu tố bên ngoài như môi trường sinh thái, tác
động của thiên nhiên,… Thường những nguyên nhân khách quan là do thiên tai như lũ lụt, hạn hán, dịch
bệnh hay động đất. Bên cạnh đó, sự phá hủy môi trường sinh thái của con người cũng được xem như
một nguyên nhân khách quan, tuy nhiên, từ nguyên nhân này sẽ tác động ngược trở lại công, nông
nghiệp và chuyển hóa thành một nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân chủ quan: là những nguyên nhân do quản lý kinh tế - xã hội gây ra. Một quốc gia có sự
quản lý tốt về kinh tế - xã hội sẽ dễ khắc phục được khủng hoảng kinh tế hơn những quốc gia khác. Một
nền kinh tế thiếu thốn về sản phẩm sẽ dễ dẫn đến khủng hoảng kinh tế.

Bên cạnh các nguyên nhân trên, theo dòng của lịch sử, ta còn có thể phân tích được một nguyên nhân
khác. Khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ phương Tây, cụ thể là, từ năm 1825 ở Anh nổ ra cuộc khủng
hoảng kinh tế đầu tiên, đến nay đã có hơn 16 cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ. Có thể nói, nguyên nhân
khủng hoảng kinh tế chỉ bắt đầu ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Các cuộc khủng hoảng này đều bắt nguồn từ những nguyên nhân tồn tại trong chính bản chất của tư
bản chủ nghĩa, đó là mâu thuẫn gay gắt giữa sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất vô chính phủ quá đông khiến
lượng cung cầu liên tục thay đổi, gây ra sự mất ổn định. Giá cả hàng hóa quá sức mua đối với người tiêu
dùng khiến cho lượng hàng hóa tồn đọng tăng cao. Cung càng tăng, cầu càng giảm, và khủng hoảng nổ ra
vào lúc sản xuất đạt tới mức cao nhất. Tình trạng giữa cung và cầu là không ổn định một cách nghiêm trọng.
Giai đoạn của chu kì tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện bằng hàng hoá sản xuất thừa so với nhu cầu có
tiềm năng thanh toán, sản xuất giảm sút, vốn đầu tư cơ bản bị rút bớt, thất nghề và lạm phát tăng lên, những

tỷ lệ chủ yếu của tái sản xuất bị rối loạn. Nguyên nhân chủ yếu là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản;
từ đó nảy sinh một loạt mâu thuẫn phái sinh: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa sản xuất
và tiêu dùng, mâu thuẫn giữa tính có tổ chức trong các xí nghề riêng biệt và tình trạng sản xuất không chính
phủ trong toàn xã hội. Những mâu thuẫn đó đưa nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đến khủng hoảng kinh tế.
Khủng hoảng là giai đoạn cơ bản của chu kì kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khối lượng hàng hoá sản xuất vượt


quá khối lượng nhu cầu có tiềm năng thanh toán. Từ đó nảy sinh sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc
dân.

3. Hậu quả do cuộc khủng hoảng kinh tế để lại
Khủng hoảng kinh tế đi qua để lại hậu quả nặng nề cho toàn bộ nền kinh tế thế giới. Khủng hoảng gây
tổn thất và tạo ra sự bấp bênh trong nền kinh tế, khiến cho toàn bộ rơi vào sự suy thoái trầm trọng. Khủng
hoảng đồng thời phá hoại sản xuất và làm rối loạn lĩnh vực lưu thông.
Doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, quy mô bị thu hẹp, giá cả thị trường giảm sút mạnh, khối lượng
mậu dịch trong và ngoài nước cũng bị thu hẹp, giá cổ phiếu hạ thấp, nhiều ngân hàng đóng cửa, thị trường
tiền tệ tín dụng đóng băng.
Tích tụ là yêu cầu căn bản của việc mở rộng sản xuất ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Khối lượng giá trị
thặng dư tăng lên trong quá trình phát triển sản xuất của tư bản chủ nghĩa tăng lên tạo khả năng hiện thực
cho tích tụ tư bản tập trung. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng nhanh, dẫn đến việc độc quyền tư bản.
Nền kinh tế suy thoái, tư bản càng ra sức bóc lột, công nhân lao động càng vất vả, khoảng cách giàu
nghèo ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ngày càng tăng. Mâu thuẫn cơ bản của tư bản chủ
nghĩa, chính là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng nặng nề. Lực lượng sản
xuất vượt quá giới hạn chịu đựng, nổi dậy chống lại quan hệ sản xuất.
Sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái của cả nền kinh tế. Khi
khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng sản xấu thừa làm cho tiêu dùng hàng hóa tăng dẫn đến nhu
cầu sử dụng tiền vượt lên tới đỉnh điểm. Khi đó, nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung của xã hội và gây sức ép
lên hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính, gây ra khủng hoảng tài chính.
Mức độ rủi ro đầu cơ trên lĩnh vực bất động sản tại Mỹ bị tăng vọt, do giá cả các tài sản tài chính dao
động mạnh và khó lường, toàn bộ môi trường vĩ mô bị bất ổn, các tổ chức tài chính và bảo hiểm không còn

khả năng phân loại các khoản nợ theo từng lớp rủi ro.
Dưới tác động của khủng hoảng kinh tế từ Mỹ, các toàn bộ các quốc gia gánh chịu hậu quả và tạo nên
phản ứng dây chuyền trong thị trường bất động sản, kéo theo cuộc khủng hoảng kinh tế toàn thế giới. Các
quốc gia đứng trước ngã rẽ, hoặc bất động sản sẽ tiếp tục và các nhà đầu tư được lợi lớn, hoặc bất động sản
sẽ tiếp tục đóng băng và tất cả sẽ bị vỡ nợ.

4. Cách khắc phục
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mang tính chất quyết định trong việc khắc phục cuộc khủng
hoảng kinh tế. Quan hệ sản xuất tùy theo mức độ phù hợp mà hoặc sẽ giúp lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ, hoặc sẽ biến thành trở ngại của lực lượng sản xuất. Nói cách khác, quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất có mối liên quan mật thiết với nhau và tác động lẫn nhau trong nền kinh tế thị trường, đồng thời,
ảnh hưởng đến việc khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế. Điều này dẫn đến cách khắc phục khủng hoảng
kinh tế đầu tiên đó là quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Hay nói cách khác, cần giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Thứ hai, giữa cung và cầu về hàng hóa phải có sự thích ứng cần thiết khách quan về hình thái hiện vật
và hình thái giá trị. Đây là một tiền đề quan trọng vì quan hệ cung cầu có thể điều tiết được sự chênh lệch
giữa giá cả và giá trị thị trường. Sự thay đổi của giá cả thị trường và quan hệ cung cầu tác động lẫn nhau,
giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối. Vì vậy cần định hướng và thực hiện một cách khôn khéo đối với
sự vận động của cơ chế thị trường.
Thứ ba, cho dù các quốc gia đã sử dụng rất nhiều giải pháp để ứng phó với khủng hoảng, nhưng hiệu
quả của các chính sách đó lại không thực sự được tin tưởng. Để thị trường tài chính thế giới thoát được tình
trạng đóng băng, cần tạo ra niềm tin cho các nhà đầu tư, người dân đối với chính sách của Chính phủ đối
với cuộc khủng hoảng.


Thứ tư, cần phòng chống rủi ro đổ vỡ thanh khoản toàn hệ thống tài chính, đặc biệt là đổ vỡ khủng
hoảng cho vay cầm đồ dưới tiêu chuẩn. Đây là các biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của các
ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính, cụ thể là, quốc hữu hóa ngân hàng, khuyến khích sát nhập ngân
hàng, mua lại các khoản nợ của các ngân hàng đang có vấn đề hoặc đang có chiều hướng phá sản.
Cuối cùng, cần đưa ra biện pháp khắc phục vấn đề an sinh xã hội. Tác động của cuộc khủng hoảng

kinh tế đã làm cho nhiều nhân công thất nghiệp, thu nhập ngày càng giảm và đầu tư hạn chế, vì vậy Chính
phủ cần đưa ra các biện pháp giải quyết, cụ thể như sau:
- Tăng chi phí cho bảo hiểm xã hội, hỗ trợ những người bị thất nghiệp.
- Hỗ trợ thanh khoản cho các khoản nợ dưới tiêu chuẩn, bên cạnh việc tăng tính thanh khoản và tăng năng
lực tài chính cho ngân hàng, còn có thể giãn nợ cho người dân đang nợ tiền ngân hàng nhưng không trả
được, góp phần hạn chế sự tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính lên nhóm đối tượng đang gặp khó
khăn này.
- Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, thất nghiệp gia tăng này, nên tăng cường dạy nghề cho những người
bị thất nghiệp nhằm giúp họ chuyển hướng nghề nghiệp mới, góp phần vào việc tăng trình độ của lực
lượng sản xuất.

III.

Tình hình Việt Nam
Như chúng ta đã biết, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã làm sụp đổ toàn bộ hệ thống
tiền tệ của các ngân hàng hàng đầu thế giới và dẫn đến sự phá sản của hàng loạt tập đoàn kinh tế. Tình trạng
đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều quốc gia trên thế giới, có
nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ.
Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng
hoảng ở quốc gia này vào năm 2007 và bùng phát mạnh ở năm 2008. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan
rộng ra nhiều quốc gia khác, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế ở nhiều quốc gia trên thế giới. Dĩ nhiên, Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ đó. Chương này sẽ giúp
chúng ta tìm hiểu những ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
cũng như những bài học chúng ta rút ra được từ cuộc khủng hoảng này.

1. Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam
Mở cửa kinh tế và hội nhập đã mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam nhưng đồng thời cũng khiến Việt
Nam phải đối mặt với nhiều nguy cơ hơn khi xảy ra biến động. Một đặc điểm không thể thay đổi của khủng
hoảng kinh tế là xu hướng mở rộng toàn cầu hóa. Do vậy, khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng không thể
không chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009. Tuy không trực tiếp, nhưng cuộc

khủng hoảng kinh tế đã có những tác động tiêu cực nhất định đến nền kinh tế Việt Nam.
Sự ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính, nợ công toàn cầu đã góp phần làm ảnh hưởng đến
này kinh tế Việt Nam như làm cho lạm phát và mặt bằng lãi suất ở mức cao, ảnh hưởng đến sản xuất kinh
doanh, thu hút đầu tư giảm, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản giảm sút, đồng tiền Việt
Nam giảm giá.
Tất nhiên những vấn đề nêu trên không phải tất cả do khủng hoảng kinh tế, tài chính, nợ công gây nên
mà còn do nhiều nguyên nhân khác từ bản thân nền kinh tế với những khoản nợ xấu trong các doanh nghiệp
Nhà nước.
Cụ thể là trong những vấn đề sau:
 Tác động đến sự tăng trưởng của nền kinh tế:
- Cuộc khủng hoảng toàn cầu giai đoạn 2008-2009 đã tác động đến kinh tế Việt Nam trên nhiều khía
cạnh: hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, sản xuất công nghiệp nông nghiệp, thị


trường tài chính tiền tệ, thương mại, du lịch, an ninh xã hội. Nhưng chịu ảnh hưởng nhiều nhất vẫn là
tốc độ tăng trưởng GDP.

-

-

-

-

Năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam nằm ở mức cao nhất từ trước đến nay là 8,48%.
Nhưng đến năm 2008, kinh tế Việt Nam bắt đầu khủng hoảng, con số này chỉ đạt ở mức 6,23%, là mức
thấp nhất trong 9 năm trước đó. Tốc độ này đồng thời thấp hơn cả tốc độ dự kiến lúc đầu là 6,7%, và
thấp hơn chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua là 7%. Năm 2009, con số này tiếp tục giảm mạnh còn
5,3%.

Cũng như nền kinh tế của các quốc gia khác, khủng hoảng cũng tác động đến mọi tầng lớp của dân cư
Việt Nam, trong đó tầng lớp công nhân phải chịu ảnh hưởng trực tiếp do sản xuất bị thu hẹp, số người
thất nghiệp gia tăng, thu nhập bị giảm mạnh.
 Tác động đến xuất khẩu của Việt Nam:
Hoạt động xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng nặng nề vì đây là hoạt động đóng góp khoảng 60% vào tăng
trưởng GDP Việt Nam. Bên cạnh đó, do Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nên khi nền
kinh tế Mỹ suy thoái đã tác động không ít đến hoạt động này.
Khi nền kinh tế Mỹ suy thoái, tăng trưởng kinh tế chậm lại, tỷ lệ thất nghiệp tăng, thu nhập giảm khiến
sức mua hàng hóa của người dân giảm, đồng thời Chính phủ thực hiện chính sách đồng Đô la yếu nhằm
giảm thâm hụt cán cân thương mại, những điều này đã khiến cho xuất khẩu của nhiều nước vào Mỹ
giảm mạnh, trong đó có Việt Nam.


-

-

-

-

-

-

-

Trong năm 2007, tốc độ kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ là 26,7%. Nhưng trong 9 tháng đầu năm 2008,
con số này chỉ đạt mức 16,7%. Bên cạnh đó, Mỹ cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc,
khi tiêu dùng tại Mỹ giảm, khiến hàng Trung Quốc rẻ hơn và cạnh tranh với hàng Việt Nam tại thị

trường Mỹ, gây áp lực lớn cho nền kinh tế Việt Nam.
Đồng thời, cuộc khủng hoảng này gây tác động trực tiếp đến xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản và châu Âu. Tương tự như Mỹ chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tiêu dùng của
các nước này giảm mạnh, kéo theo giảm xu hướng nhập khẩu từ Việt Nam. Tỷ trọng của thị trường EU
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm, chỉ còn 16,5% trong khi năm 2007 là 18%.
Trong nửa năm đầu 2008, giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới leo thang, làm tăng chi phí nhập khẩu
và đẩy nhập siêu lên cao. Từ cuối tháng 7 năm 2008, toàn bộ giá cả tuột dốc mạnh, gây ra những biến
động chưa từng có, kéo theo đó xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng nặng nề, ảnh hưởng đến việc kinh doanh
của nhiều doanh nghiệp. Các dự báo cũng như tính toán của doanh nghiệp trượt khỏi đường ray, đánh đổ
tất cả hoạch định, dự kiến của nhà điều hành chính sách. Điều này càng gây thêm khó khăn cho xuất
khẩu Việt Nam.
Kết quả, xuất khẩu của Việt Nam chỉ nằm ở mức khoảng 64 tỉ USD. Xuất khẩu đã giảm không chỉ về số
lượng các đơn hàng, mà cả về giá cả hàng bán của hàng hóa xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp trong nước,
nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hóa giảm và thiếu vốn đầu
tư.
 Tác động đến FDI:
Tài chính bị khủng hoảng, các nhà đầu tư đứng trước mối lo ngại khi quyết định đầu tư. Tuy nhiên, ở
khía cạnh tích cực mà nói, do Việt Nam chịu ảnh hưởng của khủng hoảng nhẹ hơn so với các nước khác
trong khu vực nên có thể tăng khả năng thu hút vốn đầu tư.
Hoạt động kinh doanh trong nước không còn hăng hái như trước, toàn bộ rơi vào tình trạng bị động. Vốn
và tiền gửi tiết kiệm được chuyển hóa thành các ngoại tệ khác, đe dọa đến việc phá sản của Việt Nam
đồng. Đầu tư sản xuất bị thu hẹp, thất nghiệp lại tiếp tục gia tăng, thu nhập của người dân giảm mạnh.
Khi nghiên cứu tình hình FDI vào Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng,về ngắn hạn, khủng hoảng ở Mỹ
chưa có tác động lớn đến Việt Nam, do dòng vốn đầu tư vào đây đa số đều bắt nguồn từ các nước và
vùng lãnh thổ trong khu vực. Các nướcchâu Á chiếm tới 80% dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Mỹ chỉ
đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419
dự án còn hiệu lực, tổng số vốn đăng ký 4,1 tỉ USD. Mặt khác,dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào Việt Nam thường mang tính dài hạn nên sẽ không bị ảnh hưởng nhiều lắm. Mặc dù vậy, về



-

-

dài hạn, khủng hoảng tài chính thế giới có thể khiến dòng đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào
Việt Nam suy giảm vì những lo ngại về bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến to ra lo ngại hơn về nguồn vốn FDI vàoViệt Nam. Thứ nhất, do nguồn tín
dụng của thế giới đang dần trở nên cạn kiệt, nên các hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp sẽ suy giảm
trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Hơn nữa, do nhu cầu tiêu thụ giảm sút, nên việc
giải ngân FDI sẽ chậm lại đáng kể.Theo ý kiến một số chuyên gia, trong hai năm 2006 và 2007 nguồn
FDI vào Việt Nam đã tăng bất thường, không có cơ sở chắc chắn: Việt Nam không thể tiêu thụ quá 5 tỷ
đôla/năm với hạ tầng, môi trường kinh doanh như hiện nay. Bởi vậy trong tương lai,chính Việt Nam sẽ
không thể tiếp nhận nhiều vốn FDI hơn những gì đã diễn ra.

Trái với tất cả nhiều dự đoán ban đầu, nếu nhìn trên các con số, tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam năm 2008 đã tăng cao kỷ lục trong hơn 20 năm kể từ khi Việt Nam bắt đầu nỗ
lực thu hút FDI. Kết thúc năm 2008, tổng số vốn FDI đăng ký tại Việt Nam tính đến ngày 19/12/2008
đạt hơn 64 tỷ USD, tăng 199,9% so với năm 2007. Vốn giải ngân trong năm 2008 của các doanh nghiệp
FDI tại Việt Nam lên con số11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007.

2. Những bài học từ quá khứ
Với Việt Nam, một nước đi theo con đường kinh tế thị trường chưa lâu, cuộc khủng hoảng này có thể
làm xói mòn niềm tin vào thị trường, nhất là khi vai trò của nhà nước đã được nhấn mạnh trở lại ngay cả ở
Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm lớn nếu Việt Nam không tiếp tục hoặc chệch
hướng khỏi con đường cải cách đang đi. Việt Nam nên coi cuộc khủng hoảng này là một cơ hội tái cơ cấu
lại nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Cùng với các trào lưu biến đổi của thế giới đang
diễn ra, Việt Nam cần lựa chọn cho mình một chiến lược phát triển khôn ngoan và bền vững.
Chiến lược này cần tiếp tục phát triển các mối quan hệ kinh tế đa phương và song phương, đồng thời
đẩy mạnh đầu tư vào các nguồn lực trong nước như cơ sở hạ tầng, nguồn vốn con người, vốn xã hội. Vai trò
của nhà nước sẽ phải đẩy mạnh ở hai mặt: chủ động hơn trong các hoạt động phối hợp quốc tế và nâng cao

năng lực quản lý và giám sát hệ thống tài chính ngân hàng. Các nỗ lực xoá đói giảm nghèo của Việt Nam
cần được tiếp tục đẩy mạnh, song song với việc gia tăng các khoản trợ cấp và bảo hiểm xã hội. Điều này có
thể sẽ làm tăng kích cỡ và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế.


Trải qua cuộc khủng hoảng 2008-2009, Việt Nam đã có các giải pháp ứng phó như sau:
Giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu.
Giải pháp đẩy mạnh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng.
Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt.
Thực hiện sâu rộng chính sách an sinh và xã hội.
Phối hợp tốt trong tổ chức chỉ đạo, điều hành.
Đó là trong quá khứ, hiện nay, có rất nhiều phương thức thường áp dụng để vượt qua khủng hoảng
kinh tế. Tùy từng đợt khủng hoảng khác nhau, các nhà hoạch định chính sách lại bổ sung thêm phương thức
chống khủng hoảng đặc trị phù hợp với hoàn cảnh. Ta cũng có thể thực hiện các phương thức sau để có thể
giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính:

-

-

Thắt chặt chế độ tiền tệ: Đây là biện pháp được dùng đầu tiên và chính yếu trong tình trạng nền kinh tế
đang phát triển quá nóng, lạm phát gia tăng. Các ngân hàng cho vay quá nhiều dẫn đến tình trạng thiếu
lượng vốn cần thiết để duy trì hoạt động hay nói cách khác là thiếu tính thanh khoản trong hệ thống ngân
hàng. Ngân hàng thể hiện sức khỏe của nền kinh tế, khi nó ốm yếu có nghĩa là nền kinh tế đang lâm
nguy.

-

Tiết kiệm chi tiêu: Trong lúc khó khăn, tiết tiệm được coi là quốc sách. Tại sao mỗi khi khó khăn con
người mới nghĩ đến tiết kiệm như một giải pháp chứ không phải là một thói quen? Nếu mọi người đừng

tiêu xài hoang phí và sử dụng tiền không phải của mình đầu tư nhằm sinh lời ảo thì có lẽ đã không xảy ra
khủng hoảng kinh tế. Khi khủng hoảng, con người mới nhận thấy rõ nhất giá trị thực của nền kinh tế, giá
trị thực tài sản của mình và bắt đầu biết quý trọng, tiết kiệm những đồng tiền mồ hôi nước mắt khi chi
tiêu.

-

Cơ cấu lại danh mục đầu tư: Trong thời kỳ khủng hoảng, nền kinh tế suy thoái, các nhà đầu tư và tổ
chức càng cần phải xem xét lại danh mục đầu tư, duy trì những khoản đầu tư mang lại hiệu quả cao, và
cắt giảm một số khoản không cần thiết. Điều quan trọng là nhà đầu tư cần phải biết đâu là danh mục cần
loại bỏ và đâu là danh mục nên giữ lại, để đầu tư sao cho hiệu quả và hợp lý, tránh ít nhất những thiệt hại
có thể xảy ra. Thông thường, các nhà đầu tư sẽ chuyển đổi từ những danh mục đầu tư đã phát triển nóng
như bất động sản, chứng khoán sang những khoản mục an toàn hơn là vàng, đôla, trái phiếu Chính phủ
và tiết kiệm.
Công bố các gói kích thích kinh tế phát triển: Đây là một phương thức không thể thiếu trong việc chống
lại suy thoái kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ và những hệ lụy do khủng
hoảng hệ thống tài chính gây ra, đã ảnh hưởng trực tiếp tới mọi doanh nghiệp, người dân và đặc biệt là
những người nghèo. Các phương thức tiếp cận nguồn vốn để duy trì hoạt động kinh doanh, sinh hoạt
thường nhật của người dân với những mặt hàng thiết yếu ngày càng trở nên khó khăn hơn. Chính phủ
cùng quỹ tiền tệ quốc tế ngân hàng thế giới nên hỗ trợ cho vay một lượng tiền lớn để phát triển đầu tư
công, nâng cao đời sống an sinh xã hội của người dân đặc biệt là những người nghèo hoặc thất nghiệp,
tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp trước đây làm ăn hiệu quả, có thang điểm tín dụng an toàn và những
doanh nghiệp có ảnh hướng lớn đến nền kinh tế - xã hội được vay vốn để vượt qua khó khăn. Điều khác
biệt của việc bơm tiền sau khủng hoảng nhằm ngăn chặn đà suy thoái đó là tập trung tiền để kích thích
xã hội làm ra của cải thực sự nhằm nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của toàn dân thay vì
bơm tiền để đầu cơ vào những giá trị ảo như đất đai, chứng khoán như trước đây.

-

-


Cùng đoàn kết hợp tác chống khủng hoảng kinh tế: Hơn lúc nào hết, các quốc gia và tổ chức cần phải
cùng phải chung tay để vượt qua khủng hoảng và suy thoái. Các tổ chức như G20, ASeam... đã họp bàn
với nhau để cùng tìm ra phương hướng, dự báo và cách thức hỗ trợ lẫn nhau. Lý do chính khiến các


nước phải cùng nhau thảo luận là vì quan hệ chính trị và ảnh hưởng qua lại ràng buộc giữa các nền kinh
tế. Trong thời đại toàn cầu hóa, hệ thống tài chính, đầu tư, chứng khoán... của các nước liên kết với nhau
khá chặt chẽ và sâu rộng. Một tập đoàn đa quốc gia bị sụp đổ tại một chi nhánh thì lập tức toàn bộ tập
đoàn bị ảnh hưởng. Suy thoái kinh tế xảy ra tại một đất nước lớn mạnh như Mỹ khiến cho nhiều công ty
mẹ ở đó bị sụp đổ, các công ty con ở những quốc gia khác cũng bị ảnh hưởng nghiệm trọng do vốn bị rút
về nước. Toàn cầu hóa chính là lý do cấp thiết để các quốc gia cùng nhau hợp tác chống khủng hoảng.
Thực tế cho thấy, Việt Nam chúng ta đang từng bước đi đúng hướng, nâng cao dần bản lĩnh, nhận thức
và kinh nghiệm, cũng như chắc chắn sẽ vượt lên mọi thử thách. Điều này thể hiện khá đậm nét ở các văn
kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ở Cương lĩnh phát triển đất nước giai đoạn 2011-2020 và được
tiếp tục cụ thể hóa một phần ở Nghị quyết 02/NQ-CP tháng 1/2011, cũng như Nghị quyết 11/NQ-CP của
Chính phủ ngày 24/12/2011.
Mỗi khi có cuộc khủng hoảng hoặc thách thức liên quan đến an nguy quốc gia, Việt Nam lại bộc lộ
được trí tuệ và bản lĩnh, tinh thần đại đoàn kết và sự đồng thuận trong cộng đồng. Những chủ trương và
chính sách lớn được đề ra vào các thời điểm này thường minh mẫn, đúng đắn, đồng bộ, linh hoạt, thiết thực
và có ý nghĩa lâu dài hơn. Sự chỉ đạo về mặt Nhà nước được tăng cường, trở nên tập trung, nhất quán hơn
và có sự phối hợp chặt chẽ hơn, tạo nên sức mạnh tổng hợp giúp Việt Nam đứng vững và tiếp tục phát triển.
Trong chuyến công tác Việt Nam trung tuần tháng 9/2008, Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB)
James Adam đã nhận định: “Việt Nam đã có những bài học về điều hành kinh tế vĩ mô để kiềm chế, giảm
lạm phát, qua đó duy trì tăng trưởng, mọi khó khăn đang được khắc phục dần dần. Chính phủ đã hành động
quyết liệt kiềm chế lạm phát và đã đạt được nhiều kết quả. Chính phủ Việt Nam đã có những quyết định
thích hợp. Đến giờ vẫn chưa có dấu hiệu rủi ro nào trong các quyết sách. Việt Nam có thể sẽ trở thành quốc
gia có thu nhập trung bình, thoát khỏi danh sách các nước nghèo của WB trong vòng 3 năm tới”.
Việt Nam được các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá là địa điểm sản xuất tốt nhất ở châu Á trong vòng 510 năm tới. Nhiều doanh nhân, nhà đầu tư nước ngoài khác cũng đã đánh giá Việt Nam như một con rồng
kinh tế mới, đang chuyển mình nhanh chóng và sẽ trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất và

hứa hẹn nhất khu vực.
Kết luận
Khủng hoảng kinh tế không còn là điều lạ lẩm đối với các nhà kinh tế. Tuy nhiên, dự báo
được mức độ nghiêm trọng lẫn quy mô ảnh hưởng của nó lên hệ thống tài chính và kinh tế toàn
cầu luôn là một dấu hỏi lớn.
Nhiều quốc gia vẫn đang gánh chịu những tổn thất nặng nề do cuộc khủng hoảng kinh tế gây
ra: đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế,lạm phát, thất nghiệp.
Tuy nhiên, cùng với những nổ lực đối phó mang tính toàn cầu của các nước, vào cuối năm 2009
đầu năm 2010, kinh tế thế giới đã bước đầu có những dấu hiệu phục hồi. Cùng với sự phát triển
năng động của các nước Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, cũng như sự tái phát triển dần lên của
thị trường chứng khoán, dầu mỏ toàn cầu, các chuyên gia dự đoán kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phục
hồi nhanh trong những năm tới.


Khủng hoảng kinh tế nói chung và khủng hoảng kinh tế chu kỳ nói riêng là điều không thể
thiếu được trong điều kiện kinh tế hiện nay. Việt Nam tuy chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
không thật trầm trọng như các nước khác song còng là một mắt xích trong hệ thống kinh tế của
khu vực và thế giới. Nếu không kịp thời có những đối sách cần thiết để phòng tránh hạn chế, khắc
phục những tác hại của nó thì cũng sẽ gây ra những hậu quả lan truyền hết sức nghiêm trọng.
Chính vì vậy mà việc nghiên cứu và rút ra những bài học kinh nghiệm, đưa ra những giải
pháp hạn chế và khắc phục tác động tiêu cực của khủng hoảng đối với nền kinh tế Việt Nam là
điều hết sức cần thiết để đưa nền kinh tế nước ta vượt qua những thử thách và tăng trưởng kinh tế
bền vững, lâu dài.
Mục tiêu của bài luận là nêu lên được hệ thống lý thuyết của khủng hoảng kinh tế cũng như
ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trong bài viết trên, em đã đưa ra
một số giải pháp cũng như phương thức nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế. Tuy
nhiên, do hạn chế về kiến thức và thời gian, những trình bày trên chỉ mang tính gợi mở và có
nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy để bài viết có thể hoàn thiện
hơn.



Tài liệu tham khảo
[1] Tài chính quốc tế - Trường Đại học Kinh tế TP. HCM.
[2] Nguyên nhân và bản chất của khủng hoảng kinh tế tài chính hiện nay, những giải pháp nhằm khắc phục
những khó khăn – NGND, PGS.TS Ngô Hướng.
[3] Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính đến Việt Nam, được và mất – Thời báo kinh tế Việt Nam.
[4] Các nguồn tham khảo khác:
/> /> /> /> /> />


×