Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ NĂM 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.5 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG


Bài tiểu luận: Môn TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Đề tài:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO
VẤN ĐỀ NỢ CÔNG

Giảng viên hướng dẫn: TRƯƠNG TRUNG TÀI
Sinh viên thực hiện: LÂM NGỌC LAN
Lớp: Ngân Hàng – Khóa K2012TP1
SĐT: 0908.415.101
Email:

NIÊN KHÓA 2012 - 2016


MỤC LỤC
GIỚI THIỆU
CHƯƠNG I : NỢ CÔNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1 Tổng quan chung
1.1.1 Khái niệm
1.1.2 Đặc điểm của nợ công
1.1.3 Phân loại nợ công
1.1.4 Các hình thức vay nợ của chính phủ
1.1.5 Các vấn đề gặp phải khi tính toán nợ công
1.1.6 Tác động của nợ công
1.2. Tình hình nợ công trên thế giới


1.2.1 Toàn cảnh nợ công thế giới
1.2.2 Nợ công ở các nước châu Âu
1.2.3 Nợ công các nước Châu Á và khu vực

CHƯƠNG II : TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng nợ công & quản lý nợ công ở Việt Nam
2.1.1 Thực trạng nợ công giai đoạn 2006-2012
2.1.2 Thực trạng về quản lý nợ công giai đoạn 2006-2012
2.2 Đánh giá về quản lý nợ công ở Việt Nam từ 2006 đến 2012
2.2.1 Những t hành công trong công tác quản lý nợ công
2.2.2 Một số vấn đề tồn tại trong công tác quản lý nợ công ở Việt Nam
2.3 Khuyến nghị về quản lý nợ công của tổ chức IMF

CHƯƠNG III : CÁC GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ NỢ CÔNG
3.1 Giải pháp ứng phó của các nước phát triển và bài học cho Việt Nam
3.2 Giải pháp cho nợ công của Việt Nam

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ và có nhiều chuyển biến khó lường,
điển hình là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ cuối năm 2008, đầu năm 2009, khủng
hoảng nợ công ở Hy Lạp đang lan sang một số nước Châu Âu thì nợ công và quản lý nợ công
trở thành vấn đề nóng được các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm.
Chính vì lẽ đó việc nghiên cứu vấn đề Nợ công trên thế giới và bài học kinh nghiệm quản lý
ở Việt Nam trở nên hết sức quan trọng và có một vai trò vô cùng to lớn.
Vì những lẽ đó, em xin được lựa chọn đề tài Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nợ công
để nghiên cứu. Đề tài được bố cục thành ba phần :

- Chương I: Nợ công và những vấn đề liên quan
- Chương II: Tình hình quản lý nợ công ở Việt Nam
- Chương III: Các giải pháp ứng phó nợ công
Trong phạm vi hẹp của một đề tài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót về nội dung, rất
mong nhận được sự quan tâm góp ý của Thầy.
Xin trân trọng cảm ơn!


CHƯƠNG I : NỢ CÔNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1 Tổng quan chung
1.1.1 Khái niệm
Khái niệm nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp
cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu
trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Tuy nhiên, nợ công hoàn toàn khác với nợ quốc
gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ
của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là
một bộ phận của nợ quốc gia. Một cách khái quát nhất, có thể hiểu nợ chính phủ, nợ công
hoặc nợ quốc gia là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến
địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách. Việc đi vay này là nhằm
tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt
ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ,
người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP).
1.1.2 Đặc điểm của nợ công
a) Đặc trưng của nợ công
Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công có
những đặc trưng sau đây:
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước khác với các khoản nợ
thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước

được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp.
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích:
một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán
cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; hai là, để đạt được những mục tiêu của
quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa
quan trọng về mặt chính trị và xã hội.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế - xã
hội vì lợi ích chung. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi
ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản
chất của Nhà nước là t hiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do
dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của
nhân dân, mà cụ thể là để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện
quan trọng nhất.
b) Bản chất kinh tế của nợ công
Xét về bản chất kinh tế, khi Nhà nư ớc mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu vượt quá khả
năng thu của mình (khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải vay vốn và điều đó


làm phát sinh nợ công. Như vậy, nợ công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và
Nhà nước phải có trách nhiệm hoàn trả. Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan
trọng của ngân sách nhà nước được các nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay
vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở hầu hết các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng
bằng.
Học thuyết của Keynes (cùng với sự chỉnh sửa nhất định từ những đóng góp cũng như phản
đối của một số nhà kinh tế học sau này là Milton Friedman và Paul Samuelson) được hầu hết
các Chính phủ áp dụng để vượt qua khủng hoảng và tình trạng trì trệ của nền kinh tế. Hiện
nay trên thế giới, mặc dù tài chính công vẫn dựa trên nguyên tắc ngân sách thăng bằng,
nhưng khái niệm thăng bằng không còn được hiểu một cách cứng nhắc như quan niệm của
các nhà kinh tế học cổ điển, mà đã có sự uyển chuyển hơn.

1.1.3 Phân loại nợ công:
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc
quản lý và sử dụng nợ công.
- Theo tính chất nợ, Luật Quản lý Nợ công số 29/2009/QH12, Nợ công được quy định trong
Luật này bao gồm N ợ chính phủ, Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ chính quyền địa
phương. Trong đó:
+ Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết,
phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài
chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật.
+ Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay
trong nước,nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
+ Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền
phát hành.
- Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay, nợ công gồm có hai loại: nợ trong nước và nợ
nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam. Nợ
nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài
chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ. Việc
phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán
quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ
của Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển
đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
- Theo thời hạn nợ: Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10
năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).
- Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực tiếp
và nợ công từ công cụ nợ.
+ Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực
tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay
+ Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền

phát hành các công cụ nợ để vay vốn.


- Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công có ba loại là nợ
công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường.
- Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và nợ
công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có
nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho
người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
- Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ công
của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do
Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quy ền địa phương
là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước
năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân
sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm
bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.
1.1.4 Các hình thức vay nợ của chính phủ
Phát hành trái phiếu công Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ
chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín
dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo
hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn)
có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ
ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái. Vay trực tiếp Chính phủ
cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế t ài chính quốc tế, các
thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế)…
1.1.5 Các vấn đề gặp phải khi tính toán nợ công
Chỉ tiêu thâm hụt ngân sách khi tính toán thường không điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát
vì trong tính toán chi tiêu của Chính phủ, người ta tính toán các khoản trả lãi vay theo lãi suất
danh nghĩa trong khi đáng lẽ chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế.
Các khoản nợ tiềm tàng: Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính toán nợ chính phủ đã bỏ qua

các khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ
phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo
đảm cho các khoản vay của người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ không có khả năng
thanh toán…
1.1.6 Tác động của nợ công
Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát triển
cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt Nam đang trong giai đoạn
tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cơ sở hạ
tầng là yếu tố có tính chất quyết định.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài trợ
quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao quan trọng của các nước phát triển
muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương.


1.2. Tình hình nợ công trên thế giới
1.2.1 Toàn cảnh nợ công thế giới
Theo số liệu do “The Economist” cập nhật tính đến đầu tháng 3/2013, tổng nợ công toàn cầu
hiện đã lên tới hơn 50.731 tỷ USD, tăng khoảng 5,6% so với năm 2012. Nợ công tập trung
chủ yếu ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Bắc M ỹ, Brazil, Australia và khu vực đồng euro.
Trong đó, Nhật Bản là nước có số nợ công khổng lồ nhất, lên tới hơn 12,5 nghìn tỷ USD
(tương đương 226,1% GDP), tiếp theo là Mỹ nợ hơn 11,8 nghìn tỷ USD (tương đương 75,2%
GDP). Trung Quốc cũng đang là nước có mức nợ công cao trên thế giới. Tổng mức nợ công
của Trung Quốc tính tới cuối năm 2010 là gần 1,03 tỷ nghìn tỷ USD, nhưng nợ công cũng chỉ
chiếm có 17% GDP của Trung Quốc.
Châu Phi có số quốc gia mắc nợ ít nhất thế giới. Nước nợ nhiều nhất ở đây là Ai Cập với 224
tỷ USD. Việt Nam hiện nằm trong nhóm nước có mức nợ công trung bình của thế giới. Tổng
mức nợ công của Việt Nam hiện vào khoảng 71,6 tỷ USD, tương đương 49,4% GDP, tăng
12,7% so với năm trước. Mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam đang là 798,92

USD.
1.2.2 Nợ công các nước Châu Á và khu vực
Theo The Economist, Nhật Bản vẫn là nước nặng nợ nhất thế giới với hơn 12.513 tỷ USD, dù
đã giảm nhẹ so với năm ngoái. Nợ công trên GDP của quốc gia này cũng dẫn đầu với 229%
và nợ bình quân trên 99.000 U SD. Dù vậy, đây không phải vấn đề quá lo ngại tại nước này
khi 95% do nhà đầu tư nội địa nắm giữ. Tại Châu Á, Trung Quốc là quốc gia có tổng nợ lớn
thứ hai với trên 1.415 tỷ USD, theo sau là Ấn Độ với khoảng 1.076 tỷ USD. Theo báo cáo từ
chính phủ Trung Quốc, tính đến cuối năm 2012, nợ chính phủ do chính quyền trung ương
phát hành hiện ở mức 8.400 tỷ nhân dân tệ (tương đương 1.400 tỷ USD), bằng 16% GDP. So
với các tiêu chuẩn phương Tây, đây thực sự là một con số đáng mơ ước. Tuy nhiên, vấn
đề nằm ở các chính quyền địa phương và các bộ ngành. Do đó, tính toán con số nợ
công chính xác là một nhiệm vụ rất phức tạp và khó khăn.
Việt Nam cũng xếp vào nhóm những nước có nợ công ở mức trung bình, khá thấp so với các
nước khu vực Đông Nam Á như Indonesia (231 tỷ USD), Thái Lan (185 tỷ USD), hay
Malaysia (175 tỷ USD). Tuy nhiên, nợ công Việt Nam lại chiếm tới 49,4% GDP, xếp hàng
cao nhất trong châu Á. Đứng đầu khu vực là Singapore với khối nợ trên 278 tỷ USD, theo sau
là Indonesia với hơn 237 tỷ USD. Singapore cũng là nước có nợ trên GDP lớn nhất (95,9%).
Thấp nhất lại là Indonesia với chỉ 25%
CHƯƠNG II : TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng nợ công & quản lý nợ công ở Việt Nam
2.1.1 Thực trạng nợ công giai đoạn 2006-2012
Giai đoạn từ 2006 - 2012, xu hướng vốn vay nợ công tăng: năm 2006 là 91.757 tỷ đồng
(22,7%) đến năm 2012 là 989.300 tỷ đồng (41,1%); riêng năm 2008, do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế nên nợ công xuống thấp (23,7%). Đa phần vốn vay nợ công chiếm một
tỷ lệ rất quan trọng trong vốn vay đầu tư phát triển. Về phân bổ, sử dụng vốn vay: thứ nhất,
chúng ta vay để bù đắp bội chi ngân sách. Tỷ lệ bình quân bội chi ngân sách tính cả giai đoạn
2006 - 2012 là 5%. Thứ hai, vay để đầu tư từ TPCP cho y tế, giáo dục, giao thông, thủy lợi


Thứ ba, vay để cho vay lại, chủ yếu đối với các công trình trọng điểm quốc gia đang cần huy

động vốn; trong đó nguồn vay này chủ yếu từ nguồn vốn ODA. Về thực hiện nghĩa vụ trả nợ
công giai đoạn 2006 - 2012: Con số trả nợ cho Chính phủ là rất cao (từ 42.440 tỷ đồng/2006 108.186 tỷ đồng/2012). Tỷ lệ bình quân trả nợ Chính phủ, thu NSNN chiếm khoảng 15%.
Về thực trạng nợ công giai đoạn 2006 - 2012: nếu tính chỉ số nợ công/ GDP thì giai đoạn
2006 — 2012 nợ công đã tăng đáng kề, từ 41,5% (404.556 tỷ đồng) năm 2006 lên 55,6%
(1.641.296 tỷ đồng) năm 2012. Cơ cấu dư nợ công tính đến 31/12/2012 thì nợ Chính phủ
chiếm 77,6%, nợ Chính phủ bảo lãnh chiếm 20,9% và nợ chính quyền địa phương chiếm
1,5%.
Nợ chính phủ 77.60%Nợ Chính phủ bảo lãnh 20.90%
Vay Nhật Bản 17%
Vay World Bank 13%
Vay NH phát triển Châu Á 8%
Đầu tư trái phiếu 28%
Bảo hiểm xã hội 5%
Vay tạm ứng tồn ngân kho bạc 9%
Vay khác 20% (Nguồn: Cục quản lý nợ công & tài chính – Bộ tài chính )
2.1.2 Thực trạng về quản lý nợ công giai đoạn 2006-2012
a. Thực trạng về hệ thống các văn bản quản lý nợ công ở Việt Nam
Đối với vay nợ nước ngoài, văn bản pháp lý cao nhất hiện nay là Nghị định134/2005/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 1/11/2005 ban hành về quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài, và
nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 9/11/2006 của Chính phủ ban hành quy chế quản lý và sử
dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, căn cứ vào các nghị định này, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành các quy chế hướng dẫn cụ thể về quy trình, thủ tục đối với từng nghiệp vụ quản
lý nợ nước ngoài như cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ, cho vay lại từ nguồn vay, viện trợ
nước ngoài của Chính phủ, xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng và báo
cáo thông tin nợ. Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật điểu chỉnh hoạt động vay nợ
nước ngoài là tương đối đầy đủ và đồng bộ, đã thể hiện những quan điểm đổi mới trong quản
lý nợ của Chính phủ, phù hợp luật Ngân sách nhà nước năm 2002, đồng thời cập nhật những
khái niệm, phương pháp luận quản lý nợ hiện đại. Khuôn khổ pháp luật và thể chế cho quản
lý nợ công ở nước ta đã có bước cải thiện đáng kể từ khi Luật Quản lý nợ công và Nghị định
79/2012/NĐ-CP hướng dẫn nghiệp vụ quản lý nợ công ban hành và có hiệu lực vào 1/1/2010.

b. Thực trạng về tuyên truyền và phổ biến pháp luật liên quan đến quản lý nợ công
Về công khai thông tin về tài chính, đây là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ biến trên
thế giới trong quản trị công nói chung, quản trị tài khoá và đặc biệt là trong quản trị nợ công.
Thứ nhất, xác định rõ vai trò và trách nhiệm tài khoá của các cơ quan chính phủ vẫn còn
nhiều tiêu chí chưa rõ ràng. Thứ hai, khu vực chính phủ chưa được tách bạch rõ ràng ra khỏi
phần còn lại của khu vực công và phần còn lại của nền kinh tế; chính sách và vai trò quản lý
của khu vực công chư rõ ràng và công bố công khai. Thứ ba, về quản lý nợ, pháp luật quản lý
nợ chưa giao trách nhiệm rõ ràng cho một cá nhân đứng đầu: lựa chọn các công cụ cần thiết
cho việc vay nợ; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xác định giới hạn nợ luật không quy định
rõ ràng. Về cải cách thủ tục hành chính, việc cải cách hành chính nhà nước chưa được thực


hiện trên tất cả các nội dung: Thể chế; tổ chức bộ máy; xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức…
2.2 Đánh giá về quản lý nợ công ở Việt Nam từ 2006 đến 2012
2.2.1 Những thành công trong công tác quản lý nợ công
- Thứ nhất, đáp ứng được nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và cân đối NSNN. Nợ
công giai đoạn 2006 - 2012 là 23%, bù đắp bội chi NSNN khoảng 5% GDP.
- Thứ hai, các chỉ số nợ công hiện nay nếu theo chiến lược dài hạn và chương trình nợ công
trung hạn thì đang trong giới hạn an toàn.
- Thứ ba, các khoản vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và ưu đãi.
- Thứ tư, cơ cấu đồng tiền vay đa dạng; đặc biệt những năm gần đây tỷ giá đồng Việt Nam và
đồng đô la tương đối ổn định.
- Thứ năm, xu hướng giảm tỷ trọng nước ngoài trong cơ cấu Chính phủ với tiêu chí: tỷ trọng
hàng năm là nợ trong nước tăng lên và nợ nước ngoài giảm đi.
- Thứ sáu, hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng, linh hoạt: không chỉ vay từ các tổ
chức tài chính mà hiện nay vay rất nhiều từ các dịch vụ phái sinh và các văn phòng tài chính
khác.
- Thứ bảy, thể chế chính sách dần được hoàn thiện, công tác quản lý nợ ngày càng tốt hơn và
tiếp cận được thông lệ quốc tế.

2.2.2 Một số vấn đề tồn tại trong công tác quản lý nợ công ở Việt Nam
- Thứ nhất, nhu cầu vốn của Việt Nam rất lớn nhưng khả năng ngân sách không đủ do đoa bắt
buộc chúng ta phải đi vay nên đã tạo sức ép rất lớn, thúc đẩy tăng nợ công.
- Thứ hai, thị trường trái phiếu trong nước cũng chưa phát triển, huy động vốn trong nước
còn hạn chế, tính thanh khoản thấp.
- Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn ODA và các chính sách sử dụng vốn ODA chưa được cao và
chưa gắn với chính sách huy động vốn đối ứng.
- Thứ tư, các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm soát nhưng một số rủi ro thị trường chưa được tính
toán kỹ càng; rủi ro tín dụng chưa được phản ánh trong phí cho vay lại và phí bảo lãnh của
Chính phủ.
- Thứ năm, cơ chế cảnh báo sớm còn hạn chế, chẳng hạn như trường hợp của Vinashin,
Vinaline là một bài học lớn cho chúng ta.
- Thứ sáu, quyền hạn của các cơ quan còn chồng chéo, phân tán.
2.3 Kiến nghị về quản lý nợ công của tổ chức IMF
- Thứ nhất, tỷ lệ đầu tư công và nợ có bảo lãnh chính phủ/GDP đã giảm từ năm 2011 nhưng
vẫn còn những nguy cơ đối với triển vọng nợ.
- Thứ hai, tiến độ thực hiện giải pháp đối với khu vực tài chính bởi NHNN còn chậm, khu
vực tài chính vẫn còn dễ đổ vỡ và còn nhiều rủi ro xuất phát từ các khoản cho vay DNNN. Có
thể nói, Đoàn đánh giá rất e ngại về nợ xấu trong NHNN.Những biện pháp của NHNN hiện
nay chưa đủ mạnh, những rủi ro, phát sinh từ nợ xấu của NHNN còn tiềm ẩn.


CHƯƠNG III : CÁC GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ NỢ CÔNG
3.1 Giải pháp ứng phó của các nước phát triển và bài học cho Việt Nam
- Thứ nhất, xây dựng chiến lược quản lý nợ công. Tại Hội nghị Thượng đỉnh châu Âu
(26/10/2011), các nước thành viên khu vực đồng euro đã đạt được đồng thuận về kế hoạch
chống khủng hoảng để đảm bảo cho sự tồn tại của khu vực. Kế hoạch bao gồm 4 điểm chính:
1) xóa 50% nợ công của Hy Lạp; 2) tăng vốn cho các ngân hàng châu Âu; 3) nâng khả năng
can thiệp của Quỹ bình ổn tài chính châu Âu (EFSF) lên thành 1000 tỷ euro thay vì 440 tỷ
như hiện nay; 4) gia tăng các biện pháp giới hạn bội chi ngân sách của các thành viên trong

khối sử dụng đồng tiền chung châu Âu.
- Thứ hai, thành lập Quỹ bình ổn tài chính châu Âu (EFSF) (hay còn gọi là Quỹ cứu trợ khẩn
cấp tạm thời) và thành lập Quỹ hỗ trợ thường trực. Quỹ bình ổn tài chính châu Âu và Quỹ hỗ
trợ thường trực sẽ do Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) quản lý. Các Quỹ này được xây
dựng nhằm giúp đỡ các thành viên gặp khó khăn. Việc giải ngân sẽ được thông qua với 85%
phiếu thuận. Cuộc họp thượng định (21/7/2011) quyết định trang bị cho cơ chế này quyền
được mua các trái phiếu trên thị trường thứ yếu, quyền can thiệp nếu cần thiết để giúp đỡ các
nước đang gặp khó khăn.
- Thứ ba, ban hành chính sách tiết kiệm, tăng nguồn thu và cắt giảm các khoản chi tiêu thông
qua kế hoạch “thắt lưng buộc bụng”. Để tránh bị rơi sâu vào khủng hoảng nợ và cứu vãn nền
kinh tế khỏi sụp độ.
- Thứ tư, củng cố và cải tổ hệ thống tài chính – ngân hàng. Thực tế, các ngân hàng châu Âu
đã bị khủng hoảng từ trước đó. Năm 2009, Ngân hàng Trung ương châu Âu cho các ngân
hàng vay 450 tỷ euro (hơn 540 tỷ USD) để vượt qua khủng hoảng.
- Thứ năm, tái cấu trúc nền kinh tế. Tính cấp thiết của tái cấu trúc nền kinh tế được thể hiện
thông qua các nhân tố sau: 1) Cuộc khủng hoảng nợ công cho thấy chiến lược hướng ra thị
trường quá mức có thể đưa tới những khó khăn nghiêm trọng khi thị trường nước ngoài chao
đảo; 2) Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với nội dung chủ yếu là cách
mạng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, có đặc
trưng nổi bật là sự thâm nhập nhanh của tri thức và công nghệ cao vào tất cả các ngành, các
lĩnh vực kinh tế, và quyết định xu hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới đang tác động rất
mạnh mẽ đến các nền kinh tế trên thế giới; 3) Cơ sở cho tái cấu trúc nền kinh tế; 4) Xu hướng
toàn cầu hóa ngày càng gia tăng. Kinh tế toàn cầu sẽ được cơ cấu lại, trong đó các ngành, các
sản phẩm tiết kiệm năng lượng thân thiện với môi trường sẽ được quan tâm hơn… Đặc điểm
nổi bật của toàn cầu hóa kinh tế là tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia
tăng.
Thành công của các nền kinh tế đang cất cánh của châu Á cho thấy rõ một điều là châu Âu sẽ
cần phải trải qua một thời kỳ khắc khổ để phục hồi kinh tế. Châu Âu đã đưa ra chiến lược
kinh tế 10 năm (2010 – 2020) thay cho chiến lược Lisbon (2000 – 2010) với mục tiêu thúc
đẩy phát triển kinh tế châu Âu dựa vào tri thức và đổi mới, ngăn chặn nguy cơ tái xuất hiện

khủng hoảng nợ công, tạo việc làm và duy trì đà tăng trưởng kinh tế. Việc tái cơ cấu lại các
khoản tín dụng là cần thiết bởi vì bất kỳ tiền lệ không trả được khoản nợ công ở khu vực
đồng euro đều sẽ kéo theo những hậu quả nặng nề. Việc thành lập Quỹ tiền tệ của riêng EU
(với số vốn ban đầu là 750 triệu euro) được coi là bước đầu tiên của tiến trình cải cách. Quỹ
tiền tệ EU sẽ là một t ổ chức đủ mạnh với nguồn lực có thể can thiệp nhanh vào những thành
viên gặp khó khăn. Bên cạnh đó, cơ chế “học kỳ châu Âu” (European Semester) được thiết


lập nhằm phối hợp liên kết chặt chẽ giữa các thành viên châu Âu về kinh tế để tránh tái diễn
khủng hoảng nợ tương tự. Mục tiêu của cơ chế này là giám sát mạnh mẽ để kiểm soát kinh tế
vĩ mô, kiểm soát chi tiêu ngân sách, thâm hụt tài chính Tiếp theo đưa Quỹ khủng hoảng
tạm thời của châu Âu trở thành Quỹ thường xuyên (do các thành viên EU và IMF góp vốn).
3.2 Giải pháp cho nợ công của Việt Nam
Chính phủ cần kiểm soát chặt chẽ hơn tốc độ tăng và hiệu quả sử dụng nợ công, trên cơ sở
kiểm soát thâm hụt ngân sách hợp lý và có chiến lược cụ thể về huy động và sử dụng hiệu
quả nợ công trong trung hạn vì mặc dù tỷ lệ nợ công và nợ nước ngoài trên GDP của VN
chưa quá cao (thấp hơn 50%) nhưng trong điều kiện mức tín nhiệm tín dụng quốc tế thấp, chỉ
cần một cú sốc tài chính nhỏ, các nhà đầu tư rút vốn, có thể biến các khoản nợ dài hạn ngay
lập tức thành nợ ngắn hạn như khuyến cáo trước đó.
- Một là, hoàn thiện thể chế chính sách và các công cụ quản lý nợ công.
- Hai là, nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay: đặc biệt trong sử dụng vốn ODA,
chúng ta phải khắc phục bất hợp lý và phải gắn kết từ khâu huy động đến khâu trả nợ.
- Ba là, tăng cường công tác giám sát và quản lý rủi ro về nợ công: trước hết là nghiên cứu,
xây dựng và triển khai phương án xử lý rủi ro.
- Bốn là, kiểm soát chặt chẽ việc cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ. Có nhiều dự án, chẳng
hạn trước đây như Vinashin do Chính phủ bảo lãnh, hiện nay một số dự án về điện, xi măng,
cơ sở hạ tầng, giao thông, giấy còn khó khăn trong lĩnh vực trả nợ.
- Năm là, tăng cường phát triển thị trường trái phiếu trong nước: Phát triển thị trường trái
phiếu sơ cấp là ưu tiên hàng đầu; Phát triển thị trường thứ cấp nhằm tăng cường tính thanh
khoản và minh bạch của thị trường trái phiếu; Xây dựng đường cong lãi suất trái phiếu Chính

phủ.
- Sáu là, chú trọng công tác quản lý nợ chính quyền địa phương. Hiện nay, nợ chính quyền
địa phương theo hai khuôn khổ: nợ công và phát hành trái phiếu chính quyền địa phương,
ngoài ra còn theo luật ngân sách.
- Bảy là, xây dựng, hoàn thiện mô hình cơ quan quản lý nợ công theo hướng hiện đại hóa và
từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Tám là, tiếp tục từng bước tăng cường cập nhật và công khai minh bạch hoá thông tin về nợ
công thông qua việc xây dựng hệ thống thông tin theo dõi, giám sát và đánh giá bền vững nợ
công.
- Chín là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả cơ quan
quản lý nợ.
- Mười là, đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và nghiên cứu để từng bước cải thiện hệ số tín
nhiệm quốc gia.


KẾT LUẬN
Trong giai đoạn 2006 – 2012, công tác quản lý nợ công ở Việt Nam đã thu được những thành
công nhất định. Cụ thể như: quy định cụ thể từ đầu trong khâu hoạch định quản lý nợ, phát
hành trái phiếu chính phủ và xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt hiệu quả, từng bước
hình thành thị trường trái phiếu chính phủ và phát triển thị trường vốn nói chung, thực hiện
trả nợ chính phủ trong và ngoài nước đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
công đã đạt được thì vần còn tồn tại một số hạn chế như khung thể chế luật pháp còn rườm
rà, chồng chéo; khâu đánh giá nợ còn có độ trễ nhất định so với thực tế và việc quản lý sử
dụng nợ công chưa hợp lý.
Để tăng cường hiệu quả trong công tác quản lý nợ công trong những năm tới, Chính phủ cần
phải thực hiện một số giải pháp hoàn thiện thể chế pháp luật và hệ thống quản lý công nợ,
hoàn thiện khâu đánh giá nợ công và hoàn thiện quản lý sử dụng nợ công. Cụ thể như sau:
- Nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng vốn vay cần lưu ý việc hoàn thiện công
tác phát hành trái phiếu chính phủ, quản lý ODA hợp lý, đảm bảo luôn linh hoạt, minh
bạch và trách nhiệm giải trình cao.

- Nâng cao khả năng kiểm soát và đánh giá việc sử dụng các khoản nợ nhằm đảm bảo một
chính sách công nợ có hiệu quả cao nhất.
- Tăng cường tuyên truyền và phổ biến pháp luật về quản lý nợ công: công khai minh bạch
tài chính, cải cách hành chính, nâng cao hoạt động kiểm soát, tăng cường thanh tra, kiểm
tra, xử lý việc thực hiện quản lý nợ công.
- Gia tăng dự trữ ngoại hối.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

-

Luận bàn về vấn đề nợ công ở Việt Nam, 2011.
Website :
www.vov.vn
www.mof.gov.vn
www.tapchitaichinh.vn
www.ecna.gov.vn



×