Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ NĂM 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.03 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

Tiểu luận

KHỦNG KHOẢNG KINH TẾ VÀ
BÀI HỌC TỪ QUÁ KHỨ

GV hướng dẫn: Trương Trung Tài
Họ và tên: Nguyễn Minh Kim Ngân
Lớp: Ngân Hàng K2012 TP1
Điện thoại: 0939 425 495
Email:

TÓM TẮT


Khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế năm 2008 trên phạm vi toàn cầu là đợt suy thoái kéo dài và
nghiêm trọng nhất từ sau năm 1930. Phát pháo đầu tiên là sự sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers
ngày 15/9, khủng hoảng tài chính ở Mỹ là điều khá bất ngờ trên cái nhìn về quy mô và sức ảnh hưởng
nghiêm trọng của nó đến hệ thống tài chính thế giới. Vấn đề khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu ảnh
hưởng đến hầu hết các nền kinh tế, Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Bài viết nêu lên tác động của
khủng hoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam, bài học rút ra từ khủng hoảng và đánh giá khách quan cách
khắc phục ảnh hưởng của khủng hoảng đến Việt Nam thông qua các chính sách của Nhà nước.
I.

Giới thiệu
Khủng hoảng kinh tế theo Mác – Lenin là khoản thời gian biến chuyển rất nhanh sang giai đoạn
suy thoái kinh tế. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình sản xuất đang tạm thời bị suy sụp. Thời gian
khủng hoảng làm cho xung đột giữa các giai cấp trong xã hội căng thẳng, đồng thời tái khởi động quá


trình tích tụ tư bản mới.
Khủng hoảng tài chính là một biến cố mà khi đó các khu vực tài chính và các tổ chức kinh tế có
sự vỡ nợ với số lượng lớn, các tập đoàn và định chế tài chính phải đối mặt với rất nhiều khó khăn với
những hợp đồng đến hạn thanh toán. Do đó, những khoảng nợ mất khả năng thanh toán tăng vọt và tất cả
hầu hết nguồn vốn của ngân hàng bị rút cạn. Tình huống này có thể xuất hiện cùng với sự sụt giảm giá tài
sản, sự tăng nhanh của lãi suất thực và sự chậm lại hoặc đảo chiều của dòng vốn đầu tư. Trong một vài
trường hợp, cuộc khủng hoảng bắt đầu bởi những người gửi tiền vào ngân hàng, tuy nhiên trong hầu hết
các trường hợp khác, đó là do họ nhận thấy các định chế tài chính quan trọng rơi vào khó khăn có tính hệ
thống dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt. Khủng hoảng là một trong hai loại biến cố:
(i)
Việc rút tiền hàng loạt dẫn tới việc chính phủ phải đóng cửa, sáp nhập hoặc thâu
tóm một hoặc nhiều định chế tài chính
(ii)
Nếu không có sự rút tiền, đóng cửa, sáp nhập, thâu tóm hay sự giúp đỡ quy mô
lớn của chính phủ đối với một định chế tài chính quan trọng (hoặc một nhóm các
định chế) thì sẽ đánh dấu sự bắt đầu tình trạng căng như dây đàn đối với các định
chế tài chính khác.
Bài viết chủ yếu nghiên cứu về ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu
tác động đến nền kinh tế Việt Nam. Những biện pháp, chính sách khôi phục của Chính phủ trong thời
gian qua và những bài học kinh nghiệm ta rút ra được sau cuộc khủng hoảng này.

II.

Hệ thống lý thuyết


Lý luận về khủng hoảng kinh tế của Sismondi: Ông là người đầu tiên đề cập đến khủng hoảng trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ông cho rằng, khủng hoảng kinh tế không phải là hiện tượng ngẫu nhiên,
cục bộ. Ông đã dùng lý luận “Tiêu dùng không đủ” để giải thích cho khủng hoảng kinh tế. Ông dồn tất cả
mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản thành một mâu thuẫn: Khi sản xuất tăng lên, tiêu dùng lại không theo kịp

với sản xuất và ông kết luận rằng tiêu dùng giữ một vai trò quyết định trong việc sản xuất. Bên cạnh đó,
ông đưa ra nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế là trong lĩnh vực phân phối: khi chủ nghĩa tư bản càng
phát triển thì kéo theo sản xuất càng mở rộng nhưng tiêu dùng lại càng giảm bớt.
Thomas Malthus và Jean Charles Léonard Simonde đã khẳng định khủng hoảng kinh tế là khủng
hoảng thừa hàng hóa so với sức mua eo hẹp của thị trường.
Các-mác cũng thống nhất rằng khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng thừa hàng hóa so với sức mua eo
hẹp của thị trường và cũng khẳng định thêm rằng khủng hoảng kinh tế là người bạn đồng hành của chủ
nghĩa tư bản. Ông cũng phát hiện ra tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế: khủng hoảng, tiêu điều, phục
hồi và hưng thịnh.
Robert Mundell - người đoạt giải Nobel năm 1999 đã đưa ra ý kiến: cung hàng hóa sẽ làm tăng cầu
hàng hóa. Do đó muốn chống lại suy thoái kinh tế phải tăng năng suất lao động, kích thích đầu tư và tiết
kiệm.
John Maynard Keynes đã đưa ra lý thuyết về khủng hoảng kinh tế và biện pháp khắc phục nó. Khi
việc làm gia tăng sẽ làm tăng thêm thu nhập, người ta chia thu nhập thành 2 phần: phần tiêu dùng và phần
tiết kiệm. Xu hướng trong thời gian dài là tỷ lệ tiết kiệm sẽ ngày càng lớn hơn tỷ lệ tiêu dùng. Vì thế tiêu
dùng ngày càng chậm hơn, cầu tiêu dùng giảm tương đối. Khi cầu tiêu dùng giảm, giá cả giảm và lợi
nhuận giảm, nhà kinh doanh sẽ không muốn đầu tư phát triển sản xuất, khủng hoảng kinh tế sẽ xuất hiện
từ đây.
Giáo sư James Riedel đã trình bày nghiên cứu của ông về khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những tác
động dài hạn lên nền kinh tế Việt Nam tại Viện nghiên cứu phát triển. Ông cho rằng khủng hoảng lần này
bắt nguồn từ sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng và các ngân hàng bóng (shadow banking)
David Mayer và Foulkes (2009) cho rằng “cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có nguồn
gốc từ quá trình tăng trưởng kinh tế dưới tác động của toàn cầu hóa”. Bằng cách áp dụng các thuyết kinh
tế học, hai ông đã xây dựng một mô hình tăng trưởng kinh tế gồm các biến: tích lũy tư bản, thay đổi công
nghệ, thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài (những thành phần chính của quá trình tăng trưởng toàn
cầu trong dài hạn) nhằm chứng minh nguyên nhân của cuộc khủng hoảng hiện nay.
Cristina và Narayana (2009) trong nghiên cứu gần đây đưa ra lời giải thích hoàn toàn mới về nguyên
nhân khủng hoảng nợ ở các nền kinh tế mới nổi. Đó là tài sản của các công ty phá sản không được thanh
lý cho các chủ nợ một cách thỏa đáng do cơ chế phá sản yếu kém và tài sản thiếu tính thanh khoản, điều
đó gây ra một sự phá sản dây chuyền và có khả năng kích hoạt một cuộc khủng hoảng nợ.

III.
Tình hình Việt Nam
1. Khái quát về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
Để duy trì, phát triển kinh tế, Mỹ đưa ra biện pháp là khuyến khích tiêu dùng nội địa. Trong cơ
cấu GDP của Mỹ thì tiêu dùng trong nước chiếm đến 70% GDP. Đây đã được xem là một chiến lược hợp
lý đưa nền kinh tế tăng trưởng lên mức cao, nhưng đó lại chính là một sai lầm khi càng ngày chính sách
này lại càng khiến cho nền kinh tế mất cân bằng. Các tổ chức tín dụng cho vay, cầm cố bất động sản một
cách dễ dàng, không quan tâm tới khả năng chi trả của khách, người dân Mỹ tiêu dùng dần lên đến quá
mức, họ nghĩ rằng họ giàu hơn thực tế, tạo nên khoảng thâm hụt thương mại lớn, nền kinh tế rối loạn bởi
mối quan hệ nợ chồng chéo.
Đến khoảng tháng 8/2008 thì cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra và lan rộng nhanh chóng. Bong
bóng bất động sản Mỹ vỡ với nguyên nhân đã được đề cập ở trên, theo ước tính thì hơn một nữa giá trị thị
trường bất động sản Mỹ là tiền đi vay và một phần ba các khoản này thuộc diện nợ khó đòi, cuộc khủng
hoảng không chỉ lan khắp đất Mỹ mà còn khiến nền tài chính và kinh tế toàn cầu bị kéo theo. Đỉnh điểm
của cuộc khủng hoảng là khi Fannie Mae và Freddie Mac bị quốc hữu hóa, Lehman Brothers, Washington


Mutual tuyên bố phá sản, Bank of American mua lại Merill Lynch, AIG phải nhận hàng chục tỷ đôla từ
chính phủ (chính phủ sở hữu đến 80% cổ phần). Nguyên nhân khiến AIG cùng hàng loạt ngân hàng, công
ty tài chính rơi vào tình thế trên bởi việc mua các hợp đồng thế chấp, hoán chuyển thành tài sản đảm bảo
để phát hành trái phiếu ra thị trường, AIG còn bán bảo hiểm cho cho những hợp đồng được các tổ chức
định giá tín dụng đánh giá cao này, hậu quả là nó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và rủi ro lại bị đẩy
lên cao hơn.
Phía Châu Âu, một trong những nước có thu nhập đầu người thuộc hàng cao trên thế giới là
Iceland đã suýt phá sản với hậu quả của cho vay bất động sản dưới chuẩn, chính phủ nước này đã phải
quốc hữu hóa một số ngân hàng, đóng cửa thị trường chứng khoán, đồng krona cũng mất giá trầm trọng.
Cuối cùng IMF đã phải ra tay cứu giúp Iceland bằng cách bơm tiền vào nước này. Ở Anh, ngân hàng
Northern Rock bị sự cố rút tiền hàng loạt và phải chịu cảnh quốc hữu hóa, và ảnh hưởng đến các ngân
hàng khác của nước này. Tại Bỉ, Fortis bị bán dần chỉ còn bộ phận kinh doanh bảo hiểm, Dexia lỗ 3,3 tỷ
euro và phải vay của Chính phủ Bỉ để củng cố hoạt động. Ngân hàng BayernLB (Đức) chịu lỗ những

khoản khổng lồ do đã tham gia vào cuộc chơi thị trường tín dụng nhà thứ cấp ở Mỹ, sau đó để có thể củng
cố và duy trì hoạt động, ngân hàng này đã cầu cứu lên Chính phủ Đức.
Quay sang Châu Á, quốc gia rất gần và có quan hệ hợp tác rất tốt với Việt Nam thời gian qua –
Hàn Quốc, nước này cũng rơi vào trạng thái đáng lo ngại khi đồng won mất giá hơn 40%, có lúc tới mức
1.500 won/đôla và chính phủ Hàn Quốc cũng phải bơm tiền và cắt giảm lãi suất nhằm cải thiện tình hình.
Nhật Bản vốn có hệ thống tài chính vững chắc cũng không tránh khỏi tác động từ cuộc khủng hoảng tài
chính của Mỹ, thị trường chứng khoán Nhật cũng gặp rắc rối khi chỉ số Nikkei giảm mức kỉ lục.
Chính vì mức độ ngày càng nghiêm trọng, EU, Nhật, Nga và cả Mỹ đều thừa nhận đang rơi vào
giai đoạn suy thoái. Tình hình tài chính không mấy lạc quan dẫn đến chi tiêu của người dân và hoạt động
của doanh nghiệp đều không tăng lên mà còn giảm sút. Doanh nghiệp vì thế mà phá sản, kéo theo tình
trạng thất nghiệp tăng cao. Ở Mỹ, khi 30.000 doanh nghiệp phá sản đã đẩy tỷ lệ thất nghiệp của nước này
lên tới 6,7% cao nhất trong vòng 15 năm gần đây. Ngành công nghiệp nổi tiếng của nước Mỹ là xe hơi
cũng không “sống sót” trong cơn khủng hoảng tài chính mà trái lại còn bập bùng trong vũng lầy không
ngoi lên nổi, ít nhất họ phải đối mặt với khả năng cạn kiệt tiền mặt. Mỹ phải dùng mọi biện pháp giúp đỡ
ngành xe hơi, tiêu biểu là “ông lớn” Ford, General Motors bởi nếu ngành này phá sản sẽ có hơn 2,5 triệu
lao động thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp đến lúc này sẽ còn đáng sợ hơn. Vấn đề này có thể sẽ còn nguy
hại đến thể chế chính trị khi mà đời sống của người dân không được đảm bảo. Trong lúc đang rối như tơ
vò lại phải gặp thêm một rắc rối khác, vụ lừa đảo Bernard Madoff bị phanh phui với số tiền lên đến 50 tỷ
đôla đẩy nước Mỹ rơi vào cơn khốn đốn.
Tình hình tài chính ngày càng tệ hại và lao dốc khiến nền sản xuất bị ảnh hưởng nghiêm trọng,
khủng hoảng tài chính đã đẩy nền kinh tế nhiều nước rơi vào suy thoái.
Tình trạng tài chính đóng bằng khiến Ngân hàng trung ương Mỹ, Anh, EU, Nhật và hàng loạt các
quốc gia phải giảm lãi suất để tăng dòng vốn, tính riêng Mỹ đã cắt giảm từ 5% xuống còn 0,25%. Các
Ngân hàng Trung ương tích cực bơm tiền nhằm giúp đỡ cho các công ty tài chính duy trì khả năng thanh
khoản, kích thích cho vay và kích cầu tiêu dùng. Tiêu biểu là FED (Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ) dùng
700 tỷ đôla để mua lại nợ xấu của các ngân hàng. Châu Âu cũng không thua kém khi hỗ trợ kinh tế với
gói giải pháp lên đến 2.300 tỷ đôla
Khủng hoảng tài chính vẽ ra một bức tranh thế giới với nhiều màu sắc khác nhau. Nước Mỹ, đất
nước người ta vẫn hay gọi vui “nói là làm” thử thách với những canh bạc tài chính đầy rủi ro, Châu Âu
vất vả với những quả bom nợ công khổng lồ sẽ có thể phát nổ mà không hẹn giờ. Nhật Bản vốn đã khó

khăn để thoát ra khỏi khủng hoảng, nỗ lực giảm nợ công lại kém may mắn khi liên tiếp gánh chịu hậu quả
từ thiên tai gây thiệt hại hàng trăm tỷ đôla. Nợ công của Nhật lên đến mức cao nhất thế giới 231% GDP,
cuối năm 2012 khi Thủ tướng Shinzo Abe lên nắm quyền, ông đưa ra chính sách kinh tế để giải quyết tình
hình hiện tại của Nhật Bản (Abenomics), đồng yên liên tục rớt giá, các hãng xuất khẩu bắt đầu có lãi


nhiều hơn, kinh tế tăng trưởng trở lại và Nhật bắt đầu có lạm phát, đây chính là tác dụng từ chính sách
kích thích kinh tế của thủ tướng Abe.
Đã gần 6 năm kể từ khi cuộc khủng hoảng nổ ra, nước Mỹ vẫn chưa thể khôi phục lại thời kỳ
hoàng kim. Nợ công của Mỹ tính đến 2010 là 90% GDP, Mỹ phải bị xếp hạng tín nhiệm, cơ quan xếp
hạng S&P đã hạ mức tín nhiệm AAA của Mỹ xuống AA+, lý do được cho là lo ngại về trần nợ và thâm
hụt ngân sách của Mỹ. Thế nhưng Mỹ vẫn còn may mắn hơn châu Âu rất nhiều khi châu Âu vừa phải bơi
trong cơn khủng hoảng vừa vẫy vùng trong vũng bùn nợ công, mục đích của châu Âu là để kích thích lại
nền kinh tế nhằm vượt qua khủng hoảng bằng các chính sách tài khóa, cuối cùng đưa châu Âu rơi vào tình
trạng thâm hụt ngân sách với mức nợ công tăng dần qua từng năm. Đến cuối 2009 thì Hy Lạp chính thức
rơi vào cơn khủng hoảng mới mang tên “nợ công”, tiếp theo đó toàn bộ EU đều bị ảnh hưởng, để tránh vỡ
nợ thì thậm chí Hy Lạp phải nhờ đến sự cứu trợ từ quốc tế. Thủ tướng Đức Angela Market cho rằng
“ngăn Hy Lạp vỡ nợ quan trọng hơn cả thúc đẩy Châu Âu tăng trưởng”. Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và
Brazil cũng cam kết giúp đỡ châu Âu nhưng sự giúp đỡ này cũng không được nhiều vì những nước này
chỉ có thể mua trái phiếu chứ không thể mua nợ của Châu Âu.
Một cuộc nghiên cứu dự trên phân tích dữ liệu của 24 quốc gia Âu Mỹ và Canada của Đại học
Oxford và Trường y học Nhiệt đới London đã cho biết có khoảng 10.000 tự tử từ cuộc khủng hoảng kinh
tế Châu Âu và Bắc Mỹ. Những người nghiên cứu nhận ra rằng việc mất hết nhà cửa, nợ nần và thất
nghiệp chính là nguyên nhân khiến nhiều người quyết định tự tử. Đây là một hậu quả xã hội của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới.
Tự do hóa tài chính dẫn đến bong bóng, bất ổn vĩ mô gây ra rủi ro hệ thống. Khi hai yếu tố này
cộng hưởng, nguy cơ sẽ lên đến mức cao nhất, khi con người chỉ còn nhìn thấy lợi ích mà không còn thiết
tha đến trách nhiệm, lòng tham làm mờ mắt bất cứ ai. Sự tham lam không kiểm soát được đã đẩy nền kinh
tế Mỹ đi đến khủng hoảng. Đó cũng là bài học cho Việt Nam trước cánh cửa nâng tầm nền kinh tế đang
mở toang trước mắt chúng ta.

Sựu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, nợ công, suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm ảnh hưởng
ít nhiều đến nền kinh tế Việt Nam là cho đầu tư từ nước ngoài vào nước ta giảm, chứng khoán và bất
động sản giảm sút, lãi suất lạm phát ở mức cao, đồng tiền Việt Nam đồng giảm giá… những yếu tố này
tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến Việt Nam
Từ cuối năm 2008, nước ta đã xuất hiện dấu hiệu suy thoái kinh tế, sự giảm sút kim ngạch xuất nhập
khẩu, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm, hoạt đồng đầu tư trực tiếp và gián tiếp giảm, chứng khoán lao dốc,
cán cân thanh toán quốc tế gặp khó khăn… Nguyên nhân của suy thoái là do ảnh hưởng của khủng hoảng
tài chính toàn cầu trong khi Việt Nam đang mở cửa để hội nhập sâu rộng vào quốc tế, vì thế dù Việt Nam
may mắn không bị khủng hoảng nhưng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến Việt Nam là không nhỏ.
a. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tháng 10/2008, tỷ lệ tăng trưởng GDP đạt 6,52%, thấp hơn nhiều so với dự kiến của Quốc hội là 8,5 –
9% mặc dù đã được điều chỉnh giảm xuống còn 7% nhưng vẫn không đạt tới. Đến năm 2009, tốc độ tăng
trưởng đạt 5,3% trước khi hồi phục trở lại mức 6,5% năm 2010.
Doanh nghiệp Việt Nam có 20% doanh nghiệp phá sản, 60% gặp khó khăn dẫn đến việc làm giảm, thất
nghiệp tăng mạnh. Nguy cơ bất bình đẳng, đói nghèo và xã hội mất ổn định.
b. Hệ thống tài chính – ngân hàng
Việt Nam không chịu nhiều ảnh hưởng bởi hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam vẫn chưa hội nhập
hoàn toàn với thế giới, tuy không bị ảnh hưởng nhiều nhưng chúng ta vẫn gặp phải một số khó khăn:
- Do tác động của khủng hoảng tài chính, mức độ liên kết giữa các ngân hàng Việt Nam với ngân
hàng nước ngoài sẽ gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận của các ngân hàng trong nước sẽ giảm, nợ xấu
tăng.
- Khả năng thanh toán quốc tế, giao dịch tài chính quốc tế, giao dịch ngân hàng giảm sẽ làm ảnh
hưởng tới các khoản vay của Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp nước ngoài.


c. Hoạt động xuất khẩu
Trước khi khủng hoảng xảy ra thì Việt Nam nằm trong top 50 nước có kim ngạch xuất nhập khẩu
hàng đầu thế giới, trong đó xuất khẩu đứng thứ 50 thế giới, chiếm 0,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, tổng
kim ngạch nhập khẩu đứng thứ 41 và chiếm 0,4% kim ngạnh nhập khẩu toàn cầu. Kim ngạch xuất khẩu

của Việt Nam đi các nước châu Âu, Nhật, Mỹ khoảng 52%, chỉ tính riêng nước Mỹ đã lên đến 20,8%.
Khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới bắt đầu từ Mỹ sau đó mới lan rộng sang Nhật và châu Âu, vì
thế nhu cầu tiêu dùng ở Mỹ giảm mạnh ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam,
việc mở rộng ký kết hợp đồng mới gặp khó khăn trong khi những hợp đồng đang có phải bị hoãn hoặc lùi
đến sang năm. EU và Nhật cũng là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, vì khủng hoảng nên
người dân tại các nước này thắt chặt chi tiêu, xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục có khả năng giảm và giảm
mạnh
Phần lớn Việt Nam sử dụng nguyên liệu nhập khẩu để làm ra các sản phẩm xuất khẩu. Xuất khẩu
giảm dĩ nhiên nhập khẩu giảm. Chính phủ đã khắc phục bằng gói kích thích kinh tế vào tháng 2/2009, tuy
nhiên tác động của nó lại khiến cán cân thương mại thâm hụt ở mức cao hơn do vấn đề nhập khẩu tăng
quá nhanh vào lúc khủng hoảng tài chính và kinh tế suy thoái. Mức thâm hụt thương mại năm 2007 của
Việt Nam khoảng 17 tỷ USD chiếm 20%GDP so với người đồng chế độ là Trung Quốc có “thặng dư
thương mại” 11% GDP. Nếu cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt, ngân sách không đảm bảo bù đắp, thì
bước tiếp theo sẽ phải đi vay nợ để bù đắp và nợ công sẽ tăng lên, dự trữ ngoại tệ cũng giảm, Việt Nam
có lượng dự trữ ngoại hối tính bình quân đầu người chỉ khoảng 250 USD và con số này là khá thấp. Bên
cạnh đó tỷ giá VND/USD chưa thật sự linh hoạt và hợp lý, VND được định giá quá cao so với USD và
đồng tiền của các đối tác khác, dẫn đến nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm.

Thâm hụt thương mại hàng hóa Việt Nam từ năm 2000 (theo số liệu ước tính của Tổng cục thống
kê năm 2008 theo Viện Quản lý kinh tế trung ương)
Chính từ điểm này có thể nhìn thấy dấu hiệu cho sự suy giảm kinh tế, khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế sẽ làm các mặt hàng của Việt Nam giảm giá và tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất
nhập khẩu.
d. Dòng vốn đầu tư nước ngoài


Thị trường xuất khẩu bị thu hẹp trong tình thế nền kinh tế đang khủng hoảng dẫn đến dòng vốn
ngày càng giảm sút. FDI giảm do khủng hoảng kinh tế nên các doanh nghiệp nước ngoài không tiêu thụ
được các sản phẩm sản xuất ở Việt Nam nên giảm bớt đầu tư, FDI từ các nước EU và Mỹ chỉ chiếm một
tỷ lệ nhỏ 5% trong tổng số đăng ký là 60 tỷ đôla (Các nước châu Á khác chiếm 67%, Nhật chiếm 13%).

Thị trường tài chính thế giới đang mất ổn định, các nhà đầu tư nước ngoài cũng vì thế mà thận trọng hơn
khi chính họ cũng đang khó khăn trong vấn đề huy động vốn và chu chuyển vốn, việc họ điều tiết đầu tư
tại Việt Nam là hoàn toàn có khả năng.
Kiều hối là nguồn thu quan trọng của Việt Nam thông qua 2 kênh chính: chuyển tiền của người
lao động đi xuất khẩu, du học sinh ở nước ngoài và chuyển tiền của người thân người Việt ở nước ngoài.
Với mức tính trung bình tăng 10% mỗi năm, lượng kiều hối vượt cả vốn đầu tư trực tiếp lẫn vốn hỗ trợ
chính thức. Trong giai đoạn khủng hoảng, lượng kiều hối sẽ giảm do người Việt ở nước ngoài đang có
khả năng bị mất việc làm hoặc thu nhập giảm vì khủng hoảng tài chính, bên cạnh đó thị trường xuất khẩu
lao động chắc chắn sẽ gặp khó khăn khi chính người dân trong nước họ còn không có việc làm
e. Thị trường chứng khoán
Khi các nền kinh tế lớn gặp khủng hoảng, các nhà đầu tư nước ngoài lớn có khả năng rút vốn khỏi
Việt Nam để giúp cải thiện tình hình tài chính và thanh khoản cho hội sở chính tại nước ngoài, nhưng khả
năng xảy ra điều này không cao do vốn tại Việt Nam cũng không nhiều và có rút cũng chẳng giúp ít được
gì, hơn nữa với các chính sách của Việt Nam thì nước ta vẫn là nước có cơ cấu nợ công an toàn và là địa
điểm đầu tư đáng tin cậy.
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn có biến động bởi các doanh nghiệp chắc hẳn sẽ gặp khó
khăn do tác động của khủng hoảng tài chính, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, giá
cổ phiếu có thể giảm. Các nhà đầu tư trong nước có tâm lý lo ngại trước tình hình khủng hoảng tài chính
thế giới sẽ tác động xấu đến thị trường chứng khoán.
f. Thị trường bất động sản
Bất động sản những năm qua là cơn ác mộng đối với các công ty kinh doanh thị trường này. Do đầu cơ
vào những năm 2007 đã bơm giá bất động sản lên quá cao so với giá trị thực của nó, tạo nên một thị
trường ảo với nhu cầu ảo. Các công ty kinh doanh Bất động sản ở Việt Nam có nguồn tài chính chủ yếu
dựa vào vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng nên trong tình trạng khủng hoảng tài chính như hiện
nay, thị trường bất động sản đã khó sẽ càng khó hơn. Suy thoái kinh tế, buộc người dân giảm chi tiêu, đẩy
bất động sản vào trạng thái đóng băng, các công ty kinh doanh bất động sản đã không bán được nhà lại
phải gồng mình trả lãi ngân hàng trong lúc ngân hàng càng lúc càng có lãi suất cao do chính sách thắt
chặc tiền tệ. Do bán không được nhà, giá bất động sản giảm, vô tình làm tài sản ngân hàng giảm, thêm
nữa là có một số ngân hàng đầu tư bất động sản như ACB, Sacombank… nợ xấu tăng cao làm cơ cấu vốn
ngân hàng gặp khó khăn.

“Bong bóng nhà đất” ở Mỹ tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam nhưng nó sẽ gián tiếp tác động
đến thị trường chứng khoán, tiền tệ và cả tâm lý của người dân. Cho đến thời điểm hiện nay, thị trường
bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi dù có gói cứu trợ 30000 tỷ từ Chính phủ.
3. Giải pháp của Chính phủ Việt Nam
Xét đến tình hình hiện tại, các giải pháp chống suy giảm kinh tế của Việt Nam sẽ phải chú ý đến
ngân sách, dự trữ ngoại tệ và thâm hụt thương mại. Bởi vì nếu không xem xét kỹ mà bơm tiền vào nền
kinh tế để kích cầu thì lạm phát sẽ tăng, nền kinh tế tiếp tục đi vào cái vòng lẫn quẩn với mức độ ngày
càng nguy hơn.
Trước tình hình khủng hoảng, Chính phủ Việt Nam đã sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
- Chính sách tiền tệ: Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ, hướng
dẫn các Ngân hàng thương mại cho vay theo lãi suất mới. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành chỉ
thị 06/2008/CT-NHNN về 7 biện pháp nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh
tế: Tiếp tục theo dõi diễn biến và dự báo về ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế thế giới đối với nền kinh tế, thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong nước để chủ


động thực hiện các biện pháp ngăn ngừa rủi ro; Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động vốn,
điều chỉnh cơ cấu và kỳ hạn nguồn vốn huy động phù hợp với cơ cấu và kỳ hạn tín dụng, đảm bảo
an toàn hoạt động kinh doanh, đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi trả tiền gửi; Mở rộng tín dụng có
hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật, áp dụng lãi suất cho vay hợp lý; Ngân hàng Chính
sách Xã họi chủ động xây dựng phương án huy động vốn theo cơ chế hiện hành và trình cơ quan
có thẩm quyền bổ sung các nguồn vốn khác; Tăng cường công tác kiểm tra và kiểm toán nội bộ,
quản lý vốn khả dụng, chấp hành đúng qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Đẩy nhanh
việc thực hiện các dự án hiện đại hóa công nghệ ngân hàng; Thực hiện đúng thời hạn và đảm bảo
tính chính xác của các thông tin, báo cáo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Thông tư số 01/2009/TT-NHNN ngày 23/01/2009 và hướng dẫn tại văn bản số 1288/NHNNCSTT ngày 27/02/2009 của NHNN Việt Nam về thực hiện lãi suất thỏa thuận.
- Chính sách tài khóa: do nhận thức được tác động của khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam nên
Chính phủ đã hoạch định chính sách nhằm giảm bớt tác động, chỉ riêng gói kích cầu thôi đã tác
động mạnh mẽ đến tổng cầu. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP với những
nội dung cơ bản như: dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan để tăng xuất khẩu, mở rộng thị

trường xuất khẩu sang các khu vực ít bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế,
tận dụng lợi thế từ FTA (Hiệp định khu vực mậu dịch tự do) để đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập
siêu…
Việc triển khai thực hiện giải pháp chống suy giảm kinh tế mang lại cho kinh tế Việt Nam những
hiệu quả tích cực như tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn tăng dù không nhiều nhưng vẫn tăng trong bối cảnh
nhiều nền kinh tế phải đối diện với tình hình tăng trưởng âm. Ngân hàng Thế giới đã nhận định khả năng
rơi vào khủng hoảng của Việt Nam là khá thấp. Tuy vậy, thông qua cuộc khủng hoảng này ta cũng nhìn
thấy những vấn đề còn tồn tại chưa giải quyết được, nhìn rộng ra thế giới trước những vấn đề đã và đang
phải đối mặt là những bài học kinh nghiệm quý giá cho Việt Nam trong tương lai để phát triển kinh tế
trong ổn định.
4. Bài học rút ra từ khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 cho thấy tầm quan trọng của
việc ổn định chính sách kinh tế vĩ mô. Tăng trưởng kinh tế là sự nghiệp cần phấn đấu nhưng cần thiết
phải tăng trưởng trong ổn định vĩ mô. Không thể bất chấp tất cả để tăng trưởng mà mất ổn định và tiềm ẩn
nguy cơ trong dài hạn.
Khủng hoảng tuy là thách thức nhưng cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam luyện tập
khả năng “sống chung với bão” và nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp cần đề ra chiến lược ổn
định, đầu tư vào công nghệ, đào tạo lao động, quản trị tốt rủi ro để hoạt động có hiệu quả.
Cơ bản từ cuộc khủng hoảng này có 2 vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam: thứ nhất nguồn cung
vốn FDI và đầu tư gián tiếp giảm => cầu đầu tư giảm; thứ hai khủng hoảng làm tiêu dùng nước ngoài
giảm, cầu xuất khẩu giảm dẫn đến hàng loạt doanh nghiệp xuất khẩu, gia công cho nước ngoài phải giảm
nhân công, làm tăng số lượng người thất nghiệp và kéo theo tiêu dùng nội địa giảm.
Chính phủ đã thực hiện kích cầu thông qua giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ lãi suất cho
vay nhằm tạo việc làm, thu nhập và kích thích tiêu dùng của người dân. Gói kích cầu khá lớn so với %
GDP và bài học từ khủng hoảng kinh tế Mỹ cho thấy, tự kích cầu không phải là giải pháp ổn định và giúp
nền kinh tế vượt ra khỏi khủng hoảng mà ngược lại nó là mối nguy hại tạo nên lạm phát và suy thoái.
Dòng vốn kích cầu có thể bị lệch ra khỏi mục tiêu ban đầu và bị rơi vào đầu cơ chứng khoán hoặc bất
động sản, vì bản chất của nó là nới lỏng tiền tệ dựa trên hạ thấp lãi suất, tương tự như điều mà Mỹ đã làm.
Thách thức lớn nhưng cơ hội cũng rộng mở, vấn đề là chúng ta nắm bắt nó như thế nào
Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính Mỹ xuất phát từ “cho vay dưới chuẩn”. Để tránh rơi vào

tình trạng này, cần qui định chặt chẽ hoạt động cho vay cầm cố để tránh lặp lại cơn khủng hoảng nợ dưới
chuẩn.


Khi thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, chính thị trường trong nước đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
Xuất khẩu tăng trưởng âm với mức -14,7%, nhưng GDP vẫn tăng 5,32%, đó chính là sự nổi lên của thị
trường trong nước khi mà khủng hoảng vẫn đang diễn ra trên thế giới. Tổng bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
năm 2009 đạt 1,197,5 tỷ đồng, tăng 18,6%, sức mua của thị trường trong nước rõ ràng rất hấp dẫn. Các
doanh nghiệp vẫn luôn coi thị trường nước ngoài là miếng mồi ngon mà lãng quên thị trường trong nước,
nhưng chính trong lúc khốn đốn nhất thì chính thị trường trong nước đã đưa tay cứu các doanh nghiệp
khỏi chết đuối trong thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, có lẽ các doanh nghiệp nên thay đổi nhận thức của
mình để quan tâm đến thị trường trong nước nhiều hơn. Một vấn đề quan trọng nữa để tăng xuất khẩu,
hạn chế nhập khẩu là từng bước hạ giá đồng VND so với USD, chấp nhận lạm phát trong ngắn hạn ở một
mức nào đó.
Khủng hoảng là căn bệnh không thể ngăn ngừa, chỉ có thể tính đến dùng phương án nào để đối
phó với khủng hoảng. Cần nhất quán trong chính sách kích cầu để chính sách này có tác dụng, không thể
khi Nhà nước giảm lãi suất để cho doanh nghiệp vay vốn mà Chính phủ lại tăng giá điện. Khi kích cầu,
cần lựa chọn phương thức hợp lý để mang đến cơ hội tiếp cận nguồn vốn bình đẳng nhất và mang lại hiệu
quả cao nhất. Bên cạnh đó cần đặt cho Ngân hàng Nhà nước vai trò chủ đạo trong ổn định tiền tệ và nền
tài chính ngay trong thời kỳ kinh tế đang phát triển bình thường và đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng để
khi cần thiết có thể can thiệp tốt hơn. Việt Nam cần linh hoạt hơn trong chính sách điều hành tỷ giá để mở
rộng hiệu quả của chính sách tiền tệ đối phó với khủng hoảng tài chính.
Việt Nam đi theo con đường kinh tế thị trường chưa lâu như các cường quốc Mỹ, Nhật, Nga…
khủng hoảng lần này có thể làm niềm tin vào nền kinh tế thị trường bị lung lay, nhưng nếu không tiếp tục
đi con đường này hoặc đi sai hướng thì sai lầm sẽ càng nghiêm trọng hơn. Nên nhìn nhận cuộc khủng
hoảng này như một cơ hội để cơ cấu lại nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị
trường quốc tế cũng như hoạch định cho mình một chiến lược bền vững và hiệu quả. Cuộc khủng hoảng
đã cho thấy tư tưởng laissez-faire (thả nổi hoàn toàn cho thị trường tự do hoạt động) và giảm bớt quản lý
nhà nước trong các hoạt động kinh tế sẽ đi vào dĩ vãng, Nhà nước vẫn đóng một vai trò quan trọng và cần
thiết cho nền kinh tế. Vì thế, Việt Nam nâng cao vai trò của Nhà nước trên 2 phương diện: thứ nhất là hợp

tác quốc tế và quản lý, giám sát hoạt động của hệ thống tài chính – ngân hàng, thứ hai là việc thúc đẩy
công bằng xã hội, đảm bảo phúc lợi, trợ cấp, xóa đói giảm nghèo… nhằm mục đích tăng cường vị thế của
Nhà nước trong nền kinh tế.
Sự kiện khủng hoảng này cũng bộc lộ một mặt yếu kém của việc quan sát thị trường thế giới, dự
báo về khả năng xảy ra khủng hoảng đối với Việt Nam, để ta kịp thời tìm ra giải pháp đối phó tốt nhất,
tránh tổn thương cho nền kinh tế vốn mới vừa chập chững hội nhập.

KẾT LUẬN


Khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế của
các nước đặc biệt là nền kinh tế dẫn đầu thế giới - Mỹ. Chỉ bắt đầu từ nước Mỹ thôi mà sau đó hậu quả
của cuộc khủng hoảng tài chính đã lan ra gần như toàn cầu, gây suy thoái kinh tế và tốc độ tăng trưởng
kinh tế cũng theo đó mà tuột dốc. Thế giới một lần nữa chứng kiến tác động khủng khiếp của cuộc khủng
hoảng kinh tế mà chỉ biết có đối phó chứ không thể phòng ngừa được, chính vì vậy việc nhanh chóng tìm
ra nguyên nhân để có thể đưa ra giải pháp khắc phục nhằm ổn định nền kinh tế là vô cùng quan trọng cho
cả thế giới và Việt Nam.
Dù không trực tiếp rơi vào khủng hoảng nhưng Việt Nam cũng không tránh khỏi những ảnh
hưởng do cuộc khủng hoảng này mang lại, vì những đối tác lớn của Việt Nam là Mỹ, Nhật, Nga, EU…
đều là tâm bão của cuộc khủng hoảng. Để từng bước khôi phục, ổn định lại nền kinh tế, Chính phủ đã ban
hành và thực thi hàng loạt các giải pháp nhằm chống lạm phát tăng nhanh, ổn định cơ cấu kinh tế vĩ mô,
nhờ can thiệp kịp thời nên cơ bản ta không rơi vào khủng hoảng. Những giải pháp mà Chính phủ đã thực
hiện dù kéo Việt Nam ra khỏi nguy cơ khủng hoảng những nó cũng chưa thật sự hoàn hảo khi để lại một
số hậu quả cho nền kinh tế, nhưng xét chung nó vẫn đúng đắn và kịp thời.
Kinh tế Việt Nam đã chao đảo khi bị ảnh hưởng của khủng hoảng, nhưng nó cũng là cơ hội và
thách thức cho công cuộc khôi phục và tăng trưởng kinh tế của nước ta. Cho nên chúng ta cần phân tích
sâu hơn những tác động của cuộc khủng hoảng, nghiên cứu diễn biến khủng hoảng và cách khắc phục
khủng hoảng của các nước trên thế giới để làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam sau này trên con
đường hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử Chính phủ: />

2. Trần Ngọc Thơ - Nguyễn Ngọc Định, Giáo trình Tài chính quốc tế, NXB Kinh tế TPHCM 2012
3. Lê Hồng Nhật, Khủng hoảng kinh tế thế giới và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN – Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009) 207-216
4. Những bài học từ Khủng hoảng tài chính toàn cầu, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
5. Thùy Linh - Nhật Minh, 5 năm khủng hoảng kinh tế thế giới: Nỗi đau chưa dừng
/>6. Trần Đình Thiên, Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tác động đến Việt Nam và giải pháp ứng phó,
Hội thảo khoa học “Tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới - chính sách
ứng phó của Việt Nam”, Viện Kinh tế Việt Nam 2009
7. PGS.TS Trần Chí Thiện, Ngăn Chặn Suy Giảm Kinh Tế: Từ Lý Thuyết Đến Thực Tiễn Việt Nam,
Tạp chí Tài chính số 5 – 2014



×