Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ NĂM 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.55 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
----

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:

KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
- BÀI HỌC TỪ QUÁ KHỨ

Giáo viên hướng dẫn: Trương Trung Tài
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thu Sương
Lớp : Ngân Hàng 2012 TP1
Email:

Số ĐT : 0908554566

TP.HCM Ngày 15 Tháng 12 Năm 2014

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................................2
I.GIỚI THIỆU:...........................................................................................................................3
1.Lý do chọn đề tài:...................................................................................................................3
2.Mục tiêu nghiên cứu:.............................................................................................................3
II.HỆ THỐNG LÝ THUYẾT......................................................................................................3
III.BÀI HỌC TỪ KHỦNG HOẢNG CHO VIỆT NAM ............................................................6
1.Những tác động từ cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam ...................................6
2.Bài học kinh nghiệm và cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam ............................................9
a.Bài học kinh nghiệm .......................................................................................................9


b.Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam ..........................................................................15
KẾT LUẬN...............................................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................18

2


I.

GIỚI THIỆU:
1. Lý do chọn đề tài:
Các cuộc khủng hoảng tuy đã đi qua nhưng hậu quả mà chúng để lại cho nền

kinh tế các nước thì không thể xem thường. Nhiều nước đã và đang thực hiện nhiều
giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề khó khăn do khủng hoảng gây nên. Tuy
nhiên, mỗi cuộc khủng hoảng đi qua cũng đồng thời để lại cho chúng ta những bài học
đắt giá để phòng ngừa, hoặc giảm thiểu tác động từ các cuộc khủng hoảng sắp tới. Vậy
Việt Nam đã rút ra được những bài học gì từ cuộc khủng hoảng kinh tế. Bài viết sẽ
giới thiệu một số bài học quý báu mà Việt Nam nhận thức từ khủng hoảng.

2. Mục tiêu nghiên cứu:
• Hệ thống lý thuyết
• Bài học từ khủng hoảng cho Việt Nam

II.

HỆ THỐNG LÝ THUYẾT
16/6, Viện Kinh tế quốc tế Peterson đã giới thiệu báo cáo nghiên cứu của nhà kinh

tế Edwin Truman với tựa đề "Khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Bài học và thách thức đối

với các nước đang phát triển". Sơ nét về nội dung chính của bài báo cáo, tác giả đã
phân tích nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay và các bài học cần
rút ra.
Nguyên nhân gây khủng hoảng
Gần hai năm nay, hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng nặng nề.
Ðến nay, người ta vẫn chưa thể tính toán đầy đủ quy mô và hậu quả của khủng hoảng,
nhưng những gì đã diễn ra có thể giúp khẳng định chắc chắn rằng đây là cuộc khủng
hoảng nặng nề nhất, xét cả về mức độ ảnh hưởng và tính khốc liệt của nó đối với kinh
tế toàn cầu, kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Cũng vì khủng hoảng chưa kết thúc,
nên chưa thể rút ra những bài học đầy đủ từ cuộc khủng hoảng này.
3


Các chuyên gia kinh tế và các nhà hoạch định chính sách không thống nhất đánh giá
về nguyên nhân gây khủng hoảng, thậm chí còn bất đồng về nguồn gốc của khủng
hoảng. Nhà kinh tế Edwin Truman nhận định nguyên nhân của khủng hoảng có thể
gồm một vài hoặc cả bốn yếu tố: chính sách kinh tế vĩ mô; điều tiết và giám sát lĩnh
vực tài chính; kỹ thuật tài chính; các thiết chế tài chính tư nhân lớn. Trong đó, hai
nguyên nhân lớn nhất là sự thất bại của chính sách kinh tế vĩ mô và trong điều tiết,
giám sát tài chính. Cơ chế liên kết tài chính và toàn cầu hóa tuy không phải là nguyên
nhân trực tiếp, cũng góp phần làm khủng hoảng trầm trọng hơn. Chính sách kinh tế vĩ
mô của Mỹ và các nước phát triển đóng góp vào việc châm ngòi khủng hoảng. Tại Mỹ,
chính sách tài chính đã làm giảm tỷ lệ tiết kiệm và cho phép duy trì trong một thời gian
dài các chính sách tiền tệ lỏng lẻo. Hậu quả là bùng nổ về nhà ở, kéo theo bùng nổ tín
dụng toàn cầu, làm tăng giá cổ phiếu tài chính. Sự lỏng lẻo trong quản lý và điều tiết
đối với lĩnh vực tài chính, cùng với môi trường kinh tế, tài chính thiếu lành mạnh góp
phần làm khủng hoảng trầm trọng hơn...
Nhưng dù nguyên nhân được xác định là gì, thì cũng có thể thấy cuộc khủng hoảng
kinh tế - tài chính đang diễn ra khác với các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra trong
lịch sử ở ba điểm chính. Thứ nhất, chính Mỹ đã châm ngòi cho khủng hoảng, chứ

không phải quốc gia nào khác như những lần khủng hoảng trước. Thứ hai, các nhà
hoạch định chính sách và chuyên gia kinh tế chưa hề được chuẩn bị trước việc Mỹ rơi
vào khủng hoảng, nên chậm đưa ra giải pháp cứu nền kinh tế đầu tàu này của thế giới.
Thực tế, toàn cầu hóa đã kết nối toàn bộ hệ thống tài chính và các nền kinh tế toàn cầu,
tuy nhiên, mức độ liên kết này cũng không được hiểu thấu đáo trước thời điểm xảy ra
khủng hoảng. Vì vậy, các giải pháp toàn diện mang tính toàn cầu đã chậm được đưa
ra. Thứ ba, các cuộc khủng hoảng trước thường bắt nguồn từ khu vực tài chính, lan
sang lĩnh vực kinh tế, sau đó quay lại làm suy yếu khu vực tài chính, tiếp tục làm suy
yếu lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, với cuộc khủng hoảng đang diễn ra, người ta không
phân biệt được gốc rễ bắt nguồn từ khu vực tài chính, do sụp đổ tín dụng; hay từ lĩnh
vực kinh tế, do thị trường nhà ở sụp đổ. Các nhà hoạch định chính sách phải mất khá
lâu mới nhận ra thực tế họ phải đối mặt khủng hoảng kép: khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế. Trong một cuộc thảo luận về khủng hoảng kinh tế Nhật Bản cuối
những năm 90 của thế kỷ trước, người ta không đạt đồng thuận khi tìm câu trả lời cho
4


câu hỏi "chọn gà hay trứng" - phục hồi kinh tế, hay phục hồi khu vực tài chính trước.
Câu trả lời "chọn đồng thời cả hai giải pháp" lúc đó không được ủng hộ rộng rãi; và
đến cuộc khủng hoảng hiện nay cũng vẫn không được nhất trí...
Bài học từ khủng hoảng
Do thiếu nhất trí về nguyên nhân gây khủng hoảng, cho nên có thể hàng chục năm nữa
các học giả và các nhà làm chính sách sẽ vẫn còn tiếp tục tranh cãi về các bài học đúc
kết từ cuộc khủng hoảng hiện nay. Tuy nhiên, theo Edwin Truman, có 11 bài học được
xếp theo năm nhóm như sau:
Nhận định quá tốt đẹp có thể sai lầm: Kinh tế thế giới tăng trưởng mức bình quân
4,7% giai đoạn 2003 - 2007. Tháng 4-2007, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự đoán tăng
trưởng kinh tế toàn cầu tiếp tục tăng mức 4,9% trong các năm 2007 và 2008. Tháng 42008, tiếp tục dự báo mức tương tự năm 2008 và 3,8% năm 2009. Ðến tháng 4-2009,
IMF dự báo, kinh tế toàn cầu tăng trưởng âm 1,3% năm 2009 và phục hồi nhẹ năm
2010. Trên thực tế, các con số trên đều sai lệch. Dự báo của IMF cùng chung nhận

định với các thể chế kinh tế, tài chính và tổ chức dự báo quốc tế khác. Ðiều này cho
thấy, hầu hết các nhà kinh tế không dự đoán được sự đảo chiều của chu kỳ kinh tế. Bài
học rút ra: Khi kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh và liên tục trong nhiều năm, thì sự
đảo chiều là tất yếu và gây ra hậu quả nặng nề. Toàn cầu hóa thương mại và tài chính
đã liên kết các quốc gia ở mức độ cao hơn nhiều so với mười năm trước. Mọi cuộc
khủng hoảng tác động đến một nước, hoặc một nhóm nước này cũng tác động đến một
nước, hoặc một nhóm nước này khác.
Cần chuẩn bị tốt hơn: Xuất phát từ quan điểm mọi quốc gia, mọi nền kinh tế đều "bình
đẳng" trước khủng hoảng, Edwin Truman không nhất trí với đánh giá rằng, các nước
đang phát triển là nạn nhân và chịu hậu quả nặng nề từ cuộc khủng hoảng hiện nay,
xuất phát từ nước giàu, chứ không phải do chính sách kinh tế - tài chính của những
nước này. Tuy nhiên, nếu được chuẩn bị tốt hơn và có khả năng đối phó các cú sốc từ
bên ngoài thông qua việc sử dụng các công cụ chính sách trong nước, thì các nước có
thể vững vàng đối phó khủng hoảng.
Cần xây dựng khuôn khổ chính sách tài chính - tiền tệ lành mạnh: Edwin Truman
không đồng ý với nhận định rằng các quốc gia cần chuẩn bị về mặt tài chính để tự bảo
5


hiểm trước các cuộc khủng hoảng trong tương lai. Việc các chính phủ cất giữ lượng dự
trữ ngoại tệ lớn không có lợi cho sự vận hành của hệ thống tài chính và nền kinh tế
toàn cầu. Việc này chỉ giúp hạn chế, chứ không bảo đảm để một quốc gia có thể đứng
vững trong khủng hoảng, khi thương mại quốc tế suy giảm, giá cả hàng nhập khẩu
tăng mạnh và nguồn vốn đầu tư bị rút về. Thay vào đó, các nước cần tự bảo hiểm đề
phòng khủng hoảng bằng cách xây dựng khuôn khổ chính sách tài chính - kinh tế lành
mạnh.
Vai trò của IMF: Những bài học có thể rút ra từ khủng hoảng đối với vai trò của IMF
có thể bao gồm: IMF vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính cho các
chính phủ thành viên. Nhóm G20 đã thông qua quỹ cho vay 250 tỷ USD để bảo đảm
IMF có đủ nguồn lực hỗ trợ các nước trong trường hợp khẩn cấp; hệ thống tài chính

mang tính toàn cầu, do đó các nước đang phát triển cần phối hợp IMF để điều tiết và
kiểm soát tài chính, giám sát việc các nước áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã được
thông qua, nhằm giữ ổn định hệ thống tài chính quốc gia, cũng như lưu chuyển dòng
tiền tệ quốc tế.
Tương lai toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa là yếu tố tác động không nhỏ đến khủng hoảng
tài chính, kinh tế, tuy nhiên các nước không nên quay lưng với toàn cầu hóa. Việc cần
làm là tìm các biện pháp tăng cường vai trò của các thể chế quốc tế, như IMF hay WB
và các ngân hàng phát triển khu vực; chống sức ép bảo hộ mậu dịch và tài chính. Vì
trên thực tế, tình hình chắc chắn xấu đi, nếu hệ thống thương mại quốc tế và lưu
chuyển tài chính sụp đổ. Và, hậu quả của khủng hoảng đối với kinh tế các quốc gia và
hệ thống tài chính toàn cầu sẽ càng trầm trọng.

III.

BÀI HỌC TỪ KHỦNG HOẢNG CHO VIỆT NAM
1. Những tác động từ cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam

Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã để lại hệ quả cho nhiều quốc gia trên thế giới, đặc
biệt là những nước tăng trưởng chủ yếu dựa vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài có
nền kinh tế mở như Việt Nam. Do đó, nền kinh tế và cả hệ thống tài chính Việt Nam
6


khó có thể tránh khỏi những “chấn động” trong khủng hoảng tài chính và sự suy thoái
kinh tế toàn cầu.
Lạm phát và rủi ro tài chính tăng cao
Từ năm 2008 đến nay, Việt Nam chứng kiến nhiều sự xáo trộn mạnh mẽ về kinh tế vĩ
mô, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái thế giới. Cụ thể, nền
kinh tế Việt Nam không chỉ suy giảm về tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn bộc lộ rõ
những yếu kém và bất ổn. Lạm phát tăng đến mức kỷ lục trong năm 2008, đồng thời

với đó là rủi ro tài chính tăng cao. Mặc dù, chính sách tài chính thắt chặt để đối phó
với lạm phát cao đã được thực hiện ngay trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
diễn ra. Tiếp theo đó là các gói kích thích kinh tế được đưa ra vào đầu năm 2009 nhằm
“giải cứu” doanh nghiệp (DN) khỏi bờ vực phá sản, duy trì sản xuất và giải quyết việc
làm, hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, hệ lụy của các gói kích cầu đã khiến
nền kinh tế rơi vào trạng thái tái lạm phát; thâm hụt ngân sách; thị trường ngoại hối,
thị trường vàng, thị trường bất động sản xáo trộn.
“Cú sốc” mạnh về lãi suất
Lạm phát tăng cao, khiến mặt bằng lãi suất theo đó tăng vọt. Liên tiếp trong tháng 56/2008, lãi suất cơ bản lần lượt được nâng lên ở mức 12%- 14%, biên độ dao động là
150%. Có thời điểm, lãi suất huy động đã vượt trên 20%/năm. Trong khi, các tổ chức
tín dụng (TCTD) và các ngân hàng thương mại (NHTM) lại khước từ yêu cầu tín dụng
của DN… Chính những liệu pháp này đã gây “cú sốc” mạnh mẽ tới nền kinh tế và
cộng đồng DN. Tuy nhiên, “sống chung với bão” DN buộc phải chấp nhận dùng liều
thuốc “lãi suất cao” để tồn tại và thời kỳ phân hóa giữa các DN dựa trên tiêu chí năng
lực cạnh tranh đã bắt đầu diễn ra mạnh mẽ!
Nợ xấu ám ảnh
Cùng với đó, một “mặt bằng mới” - tăng trưởng tín dụng đã được thiết lập. Một mặt,
nó gắn với định hướng điều hành chính sách tiền tệ tập trung kiềm chế lạm phát, mặt
khác phản ánh trở ngại lớn dần từ nợ xấu và là kết quả của cầu tín dụng yếu khi sản
xuất kinh doanh khó khăn, nhiều DN suy yếu qua ảnh hưởng khủng hoảng và hàng tồn
kho tăng cao. Số liệu của Vụ Tín dụng (NHNN) cho thấy, tỷ lệ nợ xấu (cho các DN
7


nhỏ và vừa vay) của hệ thống ngân hàng tính đến 31/7/2008 là 3,64% (khoảng 10.886
tỷ đồng), tăng 1% so với 2007. Nếu đánh giá trên năng lực trả nợ đúng hạn, phần đông
DN hoạt động ở mức trung bình, tỷ lệ gặp khó khăn gần 4%, trong đó khoảng 1,5% có
nguy cơ mất vốn. Giai đoạn từ năm 2007-2012, chứng kiến phần lớn DN hoạt động
dựa vào các khoản nợ. Chỉ số nợ của các DN luôn lớn hơn kỳ vọng chuẩn. Chỉ số nợ
của các DN trong giai đoạn đã tăng từ 1,6 lên 2,3 lần và giảm xuống 2 lần vào cuối

năm 2012. Từ 2012 đến nay, nợ xấu đã trở nên nhức nhối khi vượt xa ngưỡng 3% và
hiện nay vẫn chưa cho thấy một sự dịu bớt rõ ràng và bền vững.
Số lượng doanh nghiệp phá sản và cầm chừng tăng cao
Khủng hoảng kinh tế đã làm cho các DN vừa và nhỏ của Việt Nam gặp rất nhiều khó
khăn, một phần bị từ chối hợp đồng, sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho ngày càng
nhiều. Phần thì chịu ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín
dụng ngân hàng làm lãi suất cho vay cao vượt xa khả năng của DN. Nợ xấu ngân hàng
ngày càng có xu hướng gia tăng. Sự suy yếu của môi trường kinh doanh đi liền với sự
đóng băng tín dụng đã buộc hơn 5 vạn DN rời khỏi thị trường, khiến tỷ lệ thất nghiệp
tăng nhanh. Khảo sát của Tổng cục Thống kê cho thấy, tình trạng thua lỗ của các DN
thực sự tăng vọt từ năm 2011, đặc biệt là ở khối ngoài quốc doanh.

Từ năm 2010 đến nay, số lượng DN thành lập mới lần đầu tiên có xu hướng giảm
xuống kể từ khi Luật DN có hiệu lực. Bên cạnh đó, số DN rời thị trường cũng chiếm tỷ
8


trọng đáng kể. Trong khoảng 600.000 DN đã đăng ký thành lập, đến nay chỉ còn gần
380.000 đơn vị hoạt động, trong số này có tới 70% làm ăn không có lãi. Điều này cho
thấy khó khăn của DN vẫn còn đấy như sự suy giảm của thị trường trong nước, niềm
tin giảm xuống do sức mua của nền kinh tế xuống rất thấp.
Tín hiệu tổn thương từ những nguyên nhân khác
Không chỉ riêng bài toán về nguồn vốn tín dụng, giải quyết hàng tồn kho, còn nhiều
nguyên nhân khác khởi nguồn từ “cơn sóng thần thế kỷ” vẫn tiếp tục đeo bám, ám ảnh
các nhà quản trị kinh doanh và gây đau đầu đối với toàn hệ thống chính trị trên mọi
phương diện mãi cho tới nay. Từ năm 2008 - 2010, nền kinh tế chứng kiến sự suy
giảm của tỷ lệ đầu tư toàn xã hội xuống còn 40-41%. Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP giảm
xuống 34,6% (năm 2011); năm 2012 giảm tiếp xuống còn 33,5% và năm 2013 còn
30,4%. Xu hướng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) giảm sút cũng
là tín hiệu cho thấy khả năng tăng trưởng dễ bị tổn thương và chưa bền vững của nền

kinh tế. Theo tính toán sơ bộ của các cơ quan chức năng thì mức đóng góp của TFP ở
mức dưới 1,8% trong tăng trưởng. Như vậy, tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua
vẫn được thực hiện theo chiều rộng và nghiêng nhiều hơn về yếu tố vốn hơn là yếu tố
lao động. Tình trạng này kéo dài ảnh hưởng đến sự tăng trưởng bền vững của nền kinh
tế Việt Nam.

2. Bài học kinh nghiệm và cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam
a.

Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ “bàn tay hữu hình” của Nhà nước với “bàn tay vô hình”
của thị trường
Thực tế cho thấy, nền kinh tế do Nhà nước tập trung chỉ huy cũng như thị trường tự do
cao độ đều không khắc phục được sự bất bình đẳng trong thu nhập và tài sản giữa các
tầng lớp, giai cấp trong mỗi nước, giữa nước này với nước khác, không giải phóng
triệt để tài năng sáng tạo của cá nhân. Nói cách khác, khi “bàn tay” của Nhà nước hoặc
nắm quá chặt, hoặc bị buông lỏng quá mức, thì cũng đồng nghĩa với việc tạo ra những
nguồn lực và thị trường “ảo”, gây đổ vỡ, tổn thất nặng nề cho đời sống kinh tế - xã hội
và môi trường.
9


Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay chứng tỏ rằng, các
khiếm khuyết của thị trường tự do phải được sửa chữa bằng sự can thiệp chủ động,
tích cực của Nhà nước, để các quy luật kinh tế khách quan vận động có lợi nhất cho xã
hội. Sự kết hợp hài hòa giữa hai “bàn tay” nhà nước và thị trường đòi hỏi sớm khắc
phục một số bất cập trong nhận thức về quyền lực chủ quan của Nhà nước với sức
mạnh thị trường khách quan; tính ôm đồm đa mục tiêu với tính cụ thể và có hạn trong
hoạch định kế hoạch phát triển ngắn, trung hạn vĩ mô và vi mô; kiên quyết cắt giảm

các chi tiêu công không mang tính sản xuất, không phục vụ cho các mục tiêu bảo đảm
xã hội, an ninh, quốc phòng, cũng như ngăn chặn kịp thời “sự liên minh” giữa các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước với các ngân hàng thương mại nhà nước và các quan
chức có liên quan trong việc vay, cho vay vốn, đầu tư chéo, đầu tư đa ngành hàng
nghìn tỷ đồng, mang nặng tính đầu cơ, trục lợi cá nhân hoặc phe nhóm, lũng đoạn thị
trường và lãng phí các nguồn lực quốc gia.
Về dài hạn, cần chuyển nhanh từ mô hình “nhà nước - nhà đầu tư lớn nhất” và phát
triển chủ yếu theo bề rộng hiện nay, sang mô hình “nhà nước - nhà quản lý công” và
phát triển theo bề sâu, đi đôi với việc chuyển nguồn động lực chính trong đầu tư phát
triển kinh tế từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước, phù
hợp tinh thần cốt lõi của công cuộc đổi mới và theo xu hướng chung trên thế giới; sớm
thiết lập cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ và nâng cao năng lực giám sát, kiểm soát
và xử lý sự độc quyền và các vi phạm về giá từ phía các doanh nghiệp và các bên có
liên quan. Các giải pháp và công cụ chính sách cần có trọng tâm, trọng điểm, cụ thể
hóa chủ trương và cơ chế tổ chức thực hiện trong thực tiễn; đồng thời, cần có sự đồng
bộ, nhất quán giữa việc ban hành, triển khai, giám sát, kiểm tra và chế tài hiệu quả các
vi phạm chính sách trên thực tế...
Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo, phản biện và chủ động các
phương án và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng.
Cần coi trọng đúng mức và phân biệt rạch ròi giữa yêu cầu dự báo khách quan với mục
tiêu chính sách và ý chí chủ quan. Dự báo cần bám sát, cập nhật để đưa ra các cảnh
báo cần thiết về các biến động thị trường khách quan trong nước và quốc tế. Đồng
thời, cần coi trọng dự báo tác động 2 mặt của chính sách theo yêu cầu quản lý kinh tế
thị trường. Việc dự báo, đánh giá tác động 2 mặt tích cực và tiêu cực cả về xu hướng
10


định tính, lẫn về định lượng của việc áp dụng các chính sách và định mức cụ thể trong
quá trình điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước là rất quan trọng, nhất là với những
mặt hàng đầu vào nhạy cảm của đời sống kinh tế - xã hội đất nước.

Việc coi nhẹ các phản biện xã hội và các đánh giá tác động chính sách (định kỳ hoặc
đột xuất) trước và sau khi ban hành do các tổ chức chuyên nghiệp, độc lập thực hiện
theo đặt hàng của cấp có thẩm quyền cũng là một bất cập khác trong quy trình lập
pháp nói chung, trong công tác dự báo kinh tế nói riêng ở nước ta.
Ngoài ra, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu và dữ liệu thông tin chuyên
ngành trực tiếp phục vụ công tác dự báo kinh tế; các chỉ tiêu phục vụ dự báo kinh tế
cần được đưa bổ sung vào hệ thống số liệu thống kê quốc gia hằng năm. Trên cơ sở
các kết quả dự báo và phản biện đó cùng các yếu tố cần thiết khác, cần chủ động có
các phương án, đối sách phòng ngừa hiệu quả cho mọi tình huống khủng hoảng với giả
định mức xấu nhất có thể xảy ra. Bởi chưa bao giờ yếu tố thông tin và lòng tin, nhất là
trong khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính, lại có vai trò nhạy cảm và quan
trọng như hiện nay, cả trong phát triển và quản lý khủng hoảng kinh tế.
Thứ ba, coi trọng đào tạo, thu hút sử dụng và tôn vinh nhân tài, các doanh nhân.
Phát triển thị trường nhân lực trình độ cao theo hướng chuyên nghiệp hóa là đòi hỏi
ngày càng bức xúc trong thực tiễn kinh tế đất nước cả hiện tại và tương lai.
Đặc biệt, cần đổi mới thực sự công tác cán bộ: từ tiêu chí và quy trình lựa chọn, bồi
duỡng, đánh giá, thi tuyển và cơ chế phối hợp giữa trách nhiệm - tự chủ - giám sát chế tài để cán bộ làm việc với trách nhiệm và năng lực sáng tạo cao nhất, để những
người xứng đáng cả về tài và đức, được lựa chọn vào những vị trí quan trọng từ đó cải
thiện

năng

lực,

hiệu

quả

bộ


máy

công

quyền.

Trong mọi thời kỳ phát triển của đất nước phải bảo đảm duy trì nguyên tắc mọi lao
động trong xã hội đều sống được bằng lao động chuyên môn của mình. Lợi ích kinh tế
cá nhân phải được tôn trọng cùng với lợi ích cộng đồng và siết chặt kỷ luật lao động.
Không chỉ sử dụng biện pháp giáo dục hành chính, mà còn cần dùng cả biện pháp cạnh
tranh - thất nghiệp để nâng cao hiệu quả và kỷ luật lao động.
11


Thứ tư, nhận diện và khắc phục tư duy nhiệm kỳ và lợi ích nhóm, đấu tranh không
khoan nhượng với tệ nạn tham nhũng.
“Lợi ích nhóm” và “tư duy nhiệm kỳ” có những biểu hiện “muôn hình vạn trạng”, biến
màu linh hoạt và ngày càng phủ rộng, cũng như len sâu khắp các lĩnh vực, địa phương,
quy mô và các cấp độ.
Sự cố kết của các nhóm lợi ích với các nhà hoạch định chính sách theo tư duy nhiệm
kỳ dễ dẫn tới các hành vi tham nhũng hoặc trục lợi, vun vén cá nhân. Đó là những biểu
hiện tha hóa trong sử dụng quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị ở các cấp, lĩnh
vực, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật, ăn bám trong quá trình phát triển và tái cơ
cấu kinh tế, phá vỡ trật tự, kỷ cương, làm băng hoại các giá trị truyền thống trong các
quan hệ cộng đồng và quan hệ trong xã hội công dân, đe dọa cả sự tồn vong chế độ
theo các định hướng và yêu cầu phát triển bền vững.
Dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội phải được tăng cường, đi đôi với xây dựng một
nhà nước pháp quyền mạnh. Pháp luật là tối cao, rõ ràng, đồng bộ và nhất quán, đồng
thời mang tính hiện đại, theo kịp trình độ phát triển luật pháp và thông lệ quốc tế. Các
thủ tục hành chính phải đơn giản hóa, công khai, công bằng, thống nhất, nhanh chóng

và trực tiếp. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong hệ thống cơ quan hành chính
phải gắn liền với tăng cường trách nhiệm. Bảo đảm mọi tài sản xã hội, mọi luật định,
mọi công việc Nhà nước đều có người chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm hình
sự cụ thể, rõ ràng; Quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết của 8 Hội nghị Trung
ương của Đại hội XI, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ trọng tâm và
điều kiện cần thiết để đẩy mạnh chống tham nhũng, nhận diện và giảm thiểu tình
trạng, căn bệnh “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ” trong quá trình phát triển và tái cơ
cấu kinh tế trong thời gian tới, nhằm cũng cố chế độ, giữ vững và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, vì một Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ năm, hoàn thiện cơ sở lý luận, đường lối, pháp luật, nâng cao chất lượng công
tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và đề án xây dựng, phát triển kinh
tế - xã hội theo yêu cầu phát triển bền vững.

12


Thực tiễn khẳng định sự cần thiết và lợi ích to lớn, dài hạn của yêu cầu phát triển kinh
tế theo các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, được xây dựng đồng bộ, khoa học, phù
hợp bối cảnh và xu thế quốc tế, trong nước và từng địa phương, cũng như đáp ứng các
cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra sự đồng thuận xã hội, kích thích các dòng đầu
tư hướng vào các lĩnh vực và địa bàn phù hợp với mục tiêu chiến lược đề ra, có lợi cho
quốc kế dân sinh. Dân chủ hóa xã hội và ổn định chính trị là điều kiện để tăng cường
hoàn thiện các luật định kinh tế, tạo sức hấp dẫn và cải thiện môi trường kinh doanh.
Ngược lại, việc không ngừng hoàn thiện hệ thống luật pháp kinh tế và môi trường đầu
tư, chủ động phân cấp cho địa phương, bảo đảm sự thống nhất và hiệu lực quản lý nhà
nước sẽ có tác động trở lại, củng cố sự dân chủ hóa, tăng cường hợp tác, gắn kết kinh
tế vĩ mô và vi mô, duy trì ổn định chính trị xã hội - điều kiện tiên quyết cho sự ổn
định, phát triển kinh tế.
Thứ sáu, đẩy mạnh tái cấu trúc, đa dạng hóa, bình đẳng hóa và phát triển, quản lý sự

hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế.
Các nhận thức, quy định pháp lý và thái độ, hành vi biểu hiện sự phân biệt đối xử,
cũng như việc thiếu hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế
dù dưới bất kỳ hình thức và mức độ nào, ít nhiều đều tỏ ra bất cập, trực tiếp và gián
tiếp cản trở sự đồng thuận xã hội, nhiệt tình đầu tư và cả hiệu quả đầu tư, cũng như sức
cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp. Hơn nữa, điều đó còn tạo kẽ hở và điều
kiện làm phát sinh tình trạng tham nhũng, tiêu cực. Vì vậy, một mặt, cần bảo đảm sự
bình đẳng và cơ chế thị trường giữa các doanh nghiệp kinh doanh vì lợi nhuận, mặt
khác, cần khuyến khích, hỗ trợ và quản lý hiệu quả sự hợp tác, gắn kết kinh tế sâu,
rộng, toàn diện, lành mạnh dưới nhiều hình thức đa dạng giữa các doanh nghiệp, thành
phần kinh tế.
Nhà nước, thông qua khu vực kinh tế nhà nước, cần tạo điều kiện và có vai trò chủ
động, tích cực hơn để thúc đẩy sự gắn kết, hợp tác, liên doanh liên kết trong hoạt động
sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Cần mạnh dạn lấy một số doanh
nghiệp nhà nước lớn, có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư tư nhân để tiến hành cổ phần
hóa thành công ty, tập đoàn kinh tế có sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế,
hình thành doanh nghiệp đa sở hữu quy mô lớn và một số tập đoàn kinh doanh mạnh
13


các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân trong nước cần được phép đầu tư không
hạn chế quy mô vào các công ty cổ phần nhà nước khác…

Đặc biệt, cần khuyến khích tư nhân trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển các hình thức liên doanh, chi nhánh. Phát triển các dịch vụ công
ích và dịch vụ tài chính khác hỗ trợ lĩnh vực kinh doanh cho mọi doanh nghiệp và
thành phần kinh tế (trước hết là các dịch vụ: kế toán; kiểm toán; thuế; tư vấn pháp lý;
quản trị kinh doanh; đào tạo chuyên nghiệp, kỹ năng thị trường và các dịch vụ đầu tư)
là điều kiện thiết yếu để thúc đẩy và hỗ trợ sự hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh
nghiệp, thành phần kinh tế.

Thứ bảy, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hợp lý và đi trước một bước.
Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hợp lý và đi trước một bước vừa là điều
kiện, vừa là động lực và tạo cơ hội đầu tư phát triển kinh tế. Đặc biệt, cần đa dạng hóa
các phương thức huy động và đầu tư (BOT, BT, PPP). Việc thu hồi, “bóc tách” và
thương mại hóa những tài sản đất đai và bất động sản cùng các tài nguyên công cộng
khác trên địa bàn bị chiếm hữu trái phép, sử dụng sai mục đích, quá tiêu chuẩn hoặc
không hiệu quả… để đưa vào thị trường vốn là việc cần được quan tâm để tạo điều
kiện phát triển các kết cấu hạ tầng đô thị, phát triển thị trường vốn, cải thiện môi
trường đầu tư vĩ mô và vi mô trong hiện tại và tương lai.
Thứ tám, coi trọng các nhân tố chất lượng và yêu cầu phát triển bền vững.
Thực tế cho thấy, phát triển kinh tế luôn được coi là mục đích ưu tiên, đặc biệt trong
thời kỳ đầu khôi phục và tăng tốc phát triển kinh tế. Việc coi nhẹ các yêu cầu bồi
dưỡng tâm hồn, đạo đức, các giá trị xã hội chuẩn mực truyền thống và phổ biến của
nhân loại cho các cán bộ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ dễ dẫn đến sự sùng bái một
chiều, thiếu cân nhắc các giá trị thị trường, đề cao đồng tiền, cái tôi và lối sống buông
thả, thực dụng, lạnh lùng; làm gia tăng tình trạng băng hoại đạo đức, tha hóa, tội phạm
và bất ổn trong xã hội và mỗi gia đình.

14


Thực tế ô nhiễm các sông, hồ, ao, các làng nghề và ô nhiễm không khí trên toàn quốc
đã được nhận thức, song còn cần nhiều hơn các quy định và hoạt động thiết thực, cụ
thể để ngăn chặn, giảm thiểu và khắc phục.
Chất lượng phát triển và yêu cầu phát triển bền vững còn đòi hỏi nâng cao chất lượng
các công trình xây dựng cơ bản đã, đang và sẽ tiếp tục triển khai trên địa bàn, nhằm
bảo đảm an ninh, an toàn cho người sử dụng, giảm thiểu các tổn thất về người và vật
chất cho công tác bảo dưỡng, duy tu, khắc phục sự cố phát sinh trong tương lai, cũng
như để góp phần tạo nguồn thu kinh phí để hoàn vốn đầu tư.
Toàn bộ quá trình tái cơ cấu kinh tế cần hướng đến một cơ cấu kinh tế hiện đại và hiệu

quả, vì con người và phát triển tương lai bền vững.

b.

Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam

• Cơ hội gia tăng thị phần:
Khủng hoảng không dành riêng cho DN nào. Khủng hoảng tác động tiêu cực
đến DN nhưng cũng gây khó cho cả đối thủ cạnh tranh. Đối thủ càng lớn, khó khăn có
thể càng nhiều.Đây là cơ hội để DN yếu thu hẹp khoảng cách và tìm cách vượt lên DN
mạnh. DN khôn ngoan sẽ tranh thủ giai đoạn khó khăn để giành lấy thị phần từ đối
thủ. Trong khủng hoảng, các DN lớn thường cắt giảm ngân sách tiếp thị, đây là cơ hội
“ngàn năm có một” cho DN nhỏ gia tăng thị phần.
• Cơ hội xây dựng thương hiệu:
Khi chưa có khủng hoảng, các thương hiệu lớn, với ngân sách tiếp thị hùng hậu,
thường tung ra các chương trình marketing “bom tấn” để thúc đẩy bán hàng, gia tăng
độ nhận biết thương hiệu. Các chương trình marketing ngoài tác dụng hỗ trợ bán hàng,
quan trọng hơn, thu hút sự chú ý của khách hàng mới và nhắc nhở khách hàng cũ về sự
tồn tại và phát triển không ngừng của thương hiệu. Các thương hiệu nhỏ nên tranh thủ
lúc các “ông lớn” giảm “loa” để lên tiếng “nhẹ nhàng” và gia tăng độ nhận biết, từ đó
gia tăng sức mạnh thương hiệu.
• Cơ hội thu hút người tài:
Khủng hoảng làm gia tăng thất nghiệp. Nhiều công ty lớn, kể cả công ty có vốn
đầu tư nước ngoài bị buộc phải cắt giảm nhân sự. Đây là cơ hội để các công ty Việt
15


Nam “mua” vào, đầu tư cho con người; Tương tự như đầu tư, mua máy móc thiết bị
giảm giá với chất lượng không giảm trong giai đoạn khủng hoảng.
• Cơ hội sàng lọc nhà cung cấp:

Khủng hoảng làm cho các nhà cung cấp bớt “chảnh” và là cơ hội để các DN
nhỏ và vừa đánh giá, lựa chọn nhà cung cấp tốt nhất cho mình. DN còn có thể đàm
phán lại giá cả, chất lượng hàng hóa, điều kiện thanh toán, phương thức giao hàng…
• Cơ hội nâng cao chất lượng sản phẩm:
Khủng hoảng làm giảm sản lượng sản xuất. Đây là cơ hội để DN có điều kiện
chăm sóc cho chất lượng sản phẩm. Đồng thời, tranh thủ xây dựng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 hoặc các tiêu chuẩn khác như ISO 14000,
HACCP, GMP…
• Cơ hội bảo trì, nâng cấp máy móc thiết bị:
Sản xuất giảm cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian cải thiện
và nâng cấp máy móc, thiết bị. Bởi khi DN có quá nhiều đơn hàng phải giải quyết, các
chương trình bảo trì, bảo dưỡng định kỳ thường bị quên lãng. Hậu quả là máy móc
ngày càng kiệt quệ, dẫn đến chất lượng sản phẩm cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.
• Cơ hội chăm sóc sức khỏe doanh nghiệp:
Hệ thống quản lý rời rạc, thiếu tính hệ thống, nguồn nhân lực yếu kém, không
theo kịp với sự phát triển của DN, môi trường làm việc và văn hóa DN có nhiều bất
cập, chiến lược kinh doanh được xây dựng tự phát theo cảm tính… khi gặp sự cố dễ
làm cho DN bị sốc và “ngã quỵ”. Giai đoạn khủng hoảng cũng là cơ hội để DN tư duy
và đánh giá lại chính mình, từ đó có kế hoạch nâng cấp sức khỏe để đối phó với khủng
hoảng trước mắt cũng như tạo nền tảng lâu dài về sau

16


KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã tác động sâu rộng vào mọi mặt của nhiều
nền kinh tế, nhiều quốc gia đã và đang phải gánh chịu những tổn thất nặng nề do cuộc
khủng hoảng gây ra như: đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế vừa mang đến những
thách thức, cũng vừa để lại nhiều bài học quý báu cho đất nước Việt Nam ta. Những bài

học về cách thức quản lý, đào tạo bồi dưỡng nhân tài, phát triển kết cấu hạ tầng, v.v…
nếu được chú trọng sửa chữa và phát triển sẽ giúp đất nước ta tiến tới xây dựng một nền
kinh tế hưng thịnh, đầy đủ hơn. Đồng thời, nếu các doanh nghiệp Việt Nam biết nắm bắt
các cơ hội mà khủng hoảng mang lại, họ sẽ có thể tái cấu trúc, mở rộng quy mô để vượt
qua khủng hoảng một cách nhanh chóng và phát triển hơn về lâu dài.
Thời gian làm tiểu luận không nhiều nên không trách khỏi những thiếu sót, rất
mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của Thầy và các bạn, để bài tiểu luận được giàu
ý tưởng hơn, xin chân thành cảm ơn !

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- />- />- ecna.gov.vn/.../BaiViet/.../Viet%20Nam%20-%20Nhung%20bai%20hoc...
-

/>
cau/20099/22252.vgp
- />
18



×