Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ NĂM 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.46 KB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

TIỂU LUẬN:

KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
NHỮNG BÀI HỌC TỪ QUÁ KHỨ
GVHD: TRƯƠNG TRUNG TÀI

HỌ VÀ TÊN: TRỊNH NGỌC THANH THẢO
LỚP: NGÂN HÀNG K2012 TP1
SỐ ĐT: 0928.26.72.26
EMAIL:

TP.HCM, NGÀY 17 THÁNG 12 NĂM 2014


LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 xảy ra vừa qua có mức độ ảnh
hưởng nghiêm trọng đối với hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu. Đâu là nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng kinh tế? Hậu quả của cuộc khủng hoảng? Bài học nào rút ra sau
cuộc khủng? Đây là những câu hỏi được quan tâm hàng đầu hiện nay bởi tất cả các giới ở
Việt Nam, từ những nhà nghiên cứu kinh tế, những nguời làm chính sách, cho tới hầu hết
các cá nhân tham gia vào nền kinh tế.
Với đề tài Khủng hoảng của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam nhóm 3 đi vào
tìm hiểu Các cuộc khủng hoảng kinh tế (tài chính) của các quốc gia trên thế giới đặc biệt
là cuộc Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 nhằm tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến
cuộc khủng hoảng. Từ đó, cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu nhằm tận
dụng được các cơ hội phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế. Vì tính phức tạp của đề tài, bài
viết chỉ mong đóng góp thêm phần nào vào nhận thức chung về các vấn đề liên quan.


1.1 Tổng quát:
- Khủng hoảng (Crises, depression, crash): Sự sụp đổ nặng nề của nền kinh tế. Người ta
dùng từ Đại khủng hoảng (Great Crash) để chỉ sự sụp đổ nền kinh tế toàn cầu năm 1929.
Hiện nay, một số người lại dùng từ Great Crash để chỉ cuộc khủng hoảng hiện nay. Nhiều
người cho rằng cuộc suy thoái hiện nay bắt đầu từ khu vực tài chính (ngân hàng, bảo
hiểm) cho nên gọi là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhưng nếu tình trạng suy
thoái xảy ra trong các lĩnh vực sản xuất khác, làm cho thất nghiệp tăng cao, sản lượng
công nghiệp, nông nghiệp giảm sút thì cuộc khủng hoảng sẽ được gọi là khủng hoảng
kinh tế.
- Về khái niệm khủng hoảng tài chính: có thể hiểu theo các cách khác nhau như sau:
+ Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong
việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình.
+ Là cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn,
và giá cả của những tài sản khác.


+ Hay khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh khoản của
các tập đoàn tài chính dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính.
Một số dấu hiệu của khủng hoảng tài chính là:
- Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
- Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả
đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
1.2 Các hình thức của khủng hoảng tài chính:
* Khủng hoảng ngân hàng:
Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá
sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ khi họ
được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng
hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng, nhưng
lãi suất tín dụng được tăng lên do lo ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính

các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng tài chính.
* Khủng hoảng trên thị trường tài chính:
Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do các
chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại của các “bong bóng” đầu cơ. Yếu tố đầu tiên
phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà nước. Khi nhà nước phát hành tiền
nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá
cố định. Người dân sẽ mất lòng tin vào bản tệ và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại
tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố
định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những “bong bóng”
đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô
đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu),
nhưng không nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với hi vọng sẽ bán ra với giá cao
hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị
thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài
chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng chung trên
thị trường: họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị
trường và bán ra khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá.


* Khủng hoảng tiền tệ:
Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình, gây khủng
hoảng tiền tệ.
* Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế:
Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế
hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh
toán được các khoản vay đầu tư và phá sản; và do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng
hoảng chung, các doanh nghiệp không thể vay vốn đầu tư, hoặc các dự án đầu tư không
thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng.
* Mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân hàng, tiền tệ và hậu quả của các cuộc khủng hoảng:
Vào những năm 90, các cuộc khủng hoảng tài chính ở những nước đang phát triển được

mô tả với nét tiêu biểu là sự sụp đổ của các cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và các trung
gian tài chính như các ngân hàng. Có lập luận cho rằng các cuộc khủng hoảng này thực
chất là khủng hoảng tiền tệ. Lập luận khác lại cho rằng đây là khủng hoảng ngân hàng vì
cơ chế tỷ giá cố định không có vai trò nguyên nhân chính. Nhưng suy cho cùng thì khủng
hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ có mối quan hệ rất chặt chẽ vì cả 2 liên quan đến
việc giữ ổn định giá tài sản và cùng xuất hiện khi cam kết hỗ trợ ổn định giá trị đồng tiền,
lạm phát trong nước không còn đáng tin cậy. Một khi sự hỗ trợ của chính phủ mất đi hoặc
tạm ngừng thì kế hoạch ổn định tỷ giá sụp đổ, các ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán.
Tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ thì những nghiên cứu đầu tiên chỉ ra rằng
chính sự mâu thuẫn trong chính sách của Chính phủ đã từng bước tấn công vào tỷ giá cố
định bởi Chính phủ phát hành tiền để trang trải cho thâm hụt ngân sách. Người dân không
tin vào bản tệ nên đã chuyển sang tích trữ tài sản ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối của Chính
phủ cạn dần. Chính phủ buộc phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Các nhà
đầu cơ sẽ tranh nhau mua lượng dự trữ cuối cùng của Chính phủ. Cuộc chuyển giao
khổng lồ này được xem là hình phạt cho những chính sách mâu thuẫn, trái ngược của
Chính phủ. Cho dù nguyên nhân trên đúng với nhiều cuộc khủng hoảng trong quá khứ
nhưng không đúng với cuộc khủng hoảng gần đây ở Châu Á. Chính phủ các nước này đã
giữ được cân bằng chi tiêu ngân sách và không theo đuổi quá mức tăng trưởng tín dụng.
Thực ra, một vài mô hình khủng hoảng ở thế hệ thứ ba tập trung vào vai trò đảm bảo của
Chính phủ trong việc tăng cường đầu tư chỉ đơn thuần đưa thông điệp của mô hình ở thế


hệ thứ nhất vào một trong những bộ mâu thuẫn chính sách. Thế hệ thứ hai của mô hình
khủng hoảng tiền tệ đã nhận được sự quan tâm đáng kể sau cuộc tấn công vào đồng tiền
chung châu Âu và đồng Peso của Mexico ở đầu thập kỷ 1990. Mô hình này xuất phát từ
cơ sở không có sự mâu thuẫn cơ bản nào về chính sách trước các cuộc khủng hoảng. Cơ
sở của mô hình là sự tương tác giữa hành vi của Chính phủ và hành vi của khu vực tư
nhân dẫn đến một vài kết quả có thể xảy ra. Về nguyên tắc, nền kinh tế có thể chuyển từ
trạng thái cân bằng không chịu sự công kích sang trạng thái chịu sự công kích khi có sự
chuyển dịch bất ngờ về kỳ vọng của thị trường. Thường thì nguồn gốc vấn đề là mâu

thuẫn cơ bản giữa nhiều mục tiêu của Chính phủ. Ví dụ, Chính phủ muốn giữ ổn định giá
cả hoặc ra hiệu cho thị trường về dự định theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt trong
tương lai. Chính phủ có thể đạt các mục tiêu này với mức giá cố định. Mặt khác, nó cũng
có thể hạn chế các nghĩa vụ trả nợ, giảm tỷ lệ thất nghiệp hay bơm vốn cho hệ thống ngân
hàng nếu nó từ bỏ tỷ giá cố định để theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng.
Nguyên nhân của khủng hoảng ngân hàng là gì? Gần 20 năm trước, Flôd và Garber đã
điều chỉnh mô hình dự báo trước được cuộc tấn công vào tỷ giá hối đoái với trường hợp
phá sản ngân hàng ở các nước có nền kinh tế đóng. Hai nhà khoa học đã mô tả tình trạng
các ngân hàng chuyển đổi các tài sản nợ danh nghĩa cố định. Các ngân hàng nhất trí trả
lãi không kỳ hạn đối với một đơn vị tiền dự trữ tương ứng với một đơn vị đồng bản tệ gửi
tại NHTW. Khi không có bảo hiểm tiền gửi, các ngân hàng có thể duy trì kế hoạch ổn
định lãi suất chừng nào tài sản của họ đủ trang trải các khoản tiền gửi. Flood và Garber
cũng chỉ ra rằng phá sản ngân hàng cũng có thể là kết quả nhìn thấy trước của các chính
sách không nhất quán. Chính sách theo đuổi giảm phát của NHTW sẽ phá huỷ các cam
kết hoàn trả các khoản tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương
mại phải mua tài sản mới để bù đắp cho những tổn thất gây ra chi phí nắm giữ các tài sản
hiện tại vượt quá thu nhập mà nó đem lại. Như vậy, giảm phát làm giảm thu nhập và cuối
cùng các NHTM không thể có lãi từ việc duy trì tài sản đảm bảo đầy đủ khả năng thanh
khoản thì khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Khi khủng hoảng ngân hàng xảy ra ở những
nước có nền kinh tế đóng mà không có sự hỗ trợ của NHTW thì khủng hoảng sẽ không
làm giảm tài sản quốc tế và trong nước của NHTW mà chỉ tạo ra sự chuyển đổi nguồn
lực từ các ngân hàng sang các thành phần tu nhân.
Như vậy, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ giống nhau ở khía cạnh sau


cùng cả hai đều làm giảm giá trị đồng tiền và xuất phát từ những chính sách không nhất
quán. Tuy nhiên, khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ chính sách của NHTW còn khủng
hoảng tiền tệ bắt nguồn từ yếu tố chi tiêu Chính phủ.
1.3 Một số trường phái kinh tế về khủng hoảng tài chính:
Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nú

không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất: (1) Ổn định giá trị đồng tiền hoặc
các tài sản tài chính như một phương tiện giao dịch , cất trữ tài sản, và (2) là trung gian
chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền kinh tế bị
đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc
làm, đi kèm với giảm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.
Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính: Nhóm thứ nhất là
những người theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View), dẫn đầu là Friedman và
Schwartz (1963). Họ cho rằng, khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống
ngân hàng (banking panics), gây nên sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong
tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Họ bỏ qua những nguyên nhân thực như sự sụt giảm hiệu
quả của nền kinh tế, sự suy sụp của nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, theo họ, sự can thiệp của
chính phủ là không cần thiết, và thậm chí có hại, vì những doanh nghiệp đáng ra phải để
cho bị phá sản, lại có thể được cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và
gây nên lạm phát. Đối lập với nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View, dẫn đầu
là Kindleberger (1978) và Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài
chính và tiền tệ, mà nó bao gồm sự sụt giảm của hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của
nhiều công ty tài chính và phi tài chính, nạn giảm phát, đi kèm với sự rối loạn của thị
trường ngoại hối. Những yếu tố này gây sự sụt giảm mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu
dùng, nên cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Điều đáng nói là họ không đưa ra một
đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm tiền đề cho một chính sách kích
thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của chính phủ rất dễ dẫn đến lạm phát và trì trệ,
như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý. Điều đáng nói là họ không đưa ra một
đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm tiền đề cho một chính sách kích
thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của chính phủ rất dễ dẫn đến lạm phát và trì trệ,
như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý. Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất
rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn đầu là Stiglitz và Weiss (1981). Theo họ, hoạt động


của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân hàng đầu tư hay tổ
chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức độ rủi ro của

dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay;tức là những người chủ dự án. Sự khác biệt
này về thông tin (asymmetry of information), hay sự thiếu minh bạch về thông tin các dự
án, khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì rằng: Ngân hàng có thể muốn ép
lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi ro mất vốn có thể xẩy
ra. Nhưng điều này lại khiến cho chỉ có những dự án có độ rủi ro cao nhất mới hy vọng
có đủ khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ, nếu may mắn thành công. Ngược lại, nếu đó là
dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (nhưng cũng chính vì vậy mà
mức sinh lãi thấp hơn), thì sẽ khó có thể đi vay được vốn. Vì vậy, khi lãi suất cho vay
tăng lên thì:
- Sẽ có một tỷ lệ lớn hơn những chủ của các dự án với độ rủi ro cao hơn (như đầu cơ vào
bất động sản, chứng khoán thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong khi đó, những
doanh nhiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ bị loại ra khỏi
vào bất động sản, chứng khoán thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong khi đó,
những doanh nhiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ bị loại ra khỏi
danh sách các ứng viên. Người ta gọi đây là sự chọn lầm phải điều nguy hại (adverse
selection), theo Akerlof (1974).
- Với những chủ dự án lớn đã vay được vốn, thì họ có xu hướng làm thay đổi bản chất
dự án hay mục đích sử dụng vốn vay, khiến cho dự án mang tính đầu cơ cao hơn (hoặc có
vẻ “quan trọng” hơn, để nhà nước không thể để cho bị thất bại). Do vậy, họ
dự án hay mục đích sử dụng vốn vay, khiến cho dự án mang tính đầu cơ cao hơn
(hoặc có vẻ “quan trọng” hơn, để nhà nước không thể để cho bị thất bại). Do vậy, họ
có thể giàu lên nhanh chóng, nếu việc đầu cơ thành công; và để mặc cho ngân hàng chịu
tích tụ những khoản nợ xấu; hay xã hội phải gánh vác tổn thất qua gánh nặng cứu trợ
ngân sách; nếu dự án bị thất bại. Người ta gọi đây là hiểm họa do sự vô trách nhiệm
(moral hazard). Chính vì những lý do trên đây, những người theo trường phái kinh tế học
thể chế (institutional economics) cho rằng, hoạt động của ngân hàng nói riêng, và hệ
thống tài chính nói chung, phải được giám sát hết sức cẩn trọng, nhằm hướng các giao
dịch tới sự an toàn (Aoki, 1991; Mc Kinnon, 1991). Ví dụ, với những dự án có độ rủi ro
rất cao (nhưng cũng có thể là những cơ hội đầu tư có tiềm năng nhất về hiệu quả, chứ



không phải đầu cơ), thì cần phải có những quỹ đầu tư đặc biệt nhằm thẩm định, giám sát,
rót vốn ban đầu, và lập cơ chế chia sẻ rủi ro. Chẳng hạn như các quỹ đầu tư mạo hiểm
(vetunture capital funds). Theo Stiglitz-Weiss, do rủi ro chọn lầm và hiểm họa của sự vô
trách nhiệm (adverse selection and moral hazard), hệ thống các ngân hàng kinh doanh
bằng cho vay lấy lãi, phải bị hạn chế, không được phép tham gia vào các lĩnh vực đầu tư
có độ rủi ro quá cao này. Ngoài sự phân loại chức năng các ngân hàng thương mại, ngân
hàng đầu tư, và các quỹ đầu tư theo mức độ rủi ro của từng lĩnh vực đầu tư, thì còn cần
phải có nhiều tổ chức trung gian khác, làm chức năng giám sát và cảnh báo rủi ro.
1.4. Sơ lược một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu trong quá khứ:
Đại khủng hoảng năm 1929 – 1933:
Sau chiến tranh thế giới lần 1, Mỹ là nước thu đựoc nhiều lợi nhất.
Vào những năm 1920, Mỹ trở thành nhà băng của thế giới, thành nhà sản xuất lương
thực, sản xuất đồ dùng cho toàn thế giới nhưng sẽ mua ít nhất có thể những gì mà phần
còn lại của thế giới sản xuất ra. Tất nhiên điều này tạo nên trạng thái cán cân thương mại
rất có lợi cho Mỹ, những nú không thể tồn tại lâu. Mỹ thiết lập nhiều rào cản thương mại
để bảo vệ hoạt động kinh doanh của những doanh nghiệp Mỹ, nhưng vấn đề ở chỗ nếu
Mỹ không muốn mua hàng từ đối tác Châu Âu thì những đối tác đó lấy đâu ra tiền để
mua hàng từ các đối tác Mỹ. Cho đến khi mà những đối tác Châu Âu không còn đáp ứng
được lãi suất cho những khoản vay từ nước Mỹ
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị
ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản
lý trong khu vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới
phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế.
- Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô:
Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt
và cơ chế ổn định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới
chế độ mục tiêu lạm phát. Đồng thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà
nước của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng
đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD.

- Cải cách khu vực tài chính:


Các nước Đông Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài
chính: (1) Xúa và giảm nợ xấu, tái vốn húa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể
chế tài chính đổ vỡ, (3) Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán
mới đối với các tổ chức tín dụng và tài chính khác; (4) Đẩy mạnh chuyên môn húa các
thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với
nâng cao kỷ luật thị trường. Yellen (2007) cho thấy các ngân hàng của Hàn Quốc đã áp
dụng phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm được tỷ lệ sở hữu gia
đình tại các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho họ quyền
chọn mua cổ phiếu, v.v... Còn các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán cho vay của
mình. Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn.
- Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp:
Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực
tái cơ cấu nợ, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và
trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo thông lệ
quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động
mua lại và sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước
ngoài. của các xí nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về
- Cải cách các thị trường:
Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của
mình. Đồng thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa
thải lao động dễ dàng hơn, giúp xí nghiệp của các nước Đông Á trở nên linh hoạt hơn.
2.1. Bức tranh cuộc khủng hoảng tài chính sau hơn 1 năm nhìn lại:
Nhìn lại sau hơn một năm theo ước tính của IMF, thiệt hại của cuộc khủng hoảng vừa qua
đã lên đến 1000 tỷ USD. Từ lĩnh vực tài chính cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan
sang các lĩnh vực kinh tế.
*Ngược dòng thời gian ta điểm qua diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính như sau:
- Cuộc khủng hoảng có khởi nguồn từ năm 2007:

- Cuộc khủng hoảng ở khu vực địa ốc đã kéo theo sự khủng hoảng của hệ thống tài
chính Mỹ, khiến cho hệ thống tài chính Mỹ trở nên thiếu tính thanh khoản, bảng cân đối
thiếu lành mạnh.


- Bảng cân đối thiếu tính lành mạnh ở chỗ: đến thời điểm tháng 6/ 2008 hệ thống
ngân hàng Mỹ nắm khoảng 700 tỉ USD các khoản nợ dưới chuẩn trong tổng tài sản 11.
000 tỉ usd, phần còn lại là các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí… Nếu như
các khoản cho vay dưới chuẩn này mất hết thì vốn tự có của các ngân hàng cũng sẽ gần
bằng không. Khó khăn trong việc thu hồi các khoản nợ sẽ khiến cho các ngân hàng lâm
vào tình trạng thiếu thanh khoản và kéo cả nền kinh tế vào tình trạng này.
- Hệ thống ngân hàng, tài chính, TTCK sụp đổ: Ngay sau khi ngân hàng Lehman
Brothers chính thức tuyên bố phá sản, tập đoàn bảo hiểm số 1 AIG đối mặt với nguy cơ
khánh kiệt khiến chính quyền Greorge Bush phải can thiệp; rồi một trụ cột khác của nền
tài chính Mỹ là Merrill Lynch chỉ sống sót sau khi được ngân hàng Bank of America mua
lại một phần vốn; chỉ số chứng khoán tuột dốc mạnh.
- Đồng USD bị mất vị thế trên thị trường quốc tế, không còn chiếm giữ vị trí độc
tôn:
- Nợ quốc gia và tư nhân gia tăng, lạm phát phi mã; kinh tế suy thoái, nhu cầu tiêu
dùng giảm. Đến 30/ 9/ 2009 thâm hụt Ngân sách Mỹ là 1086 nghìn tỷ USD
- Thất nghiệp tăng: theo báo cáo của Bộ lao động đến tháng 3/ 2009 tỉ lệ thất nghiệp
Mỹ cao nhất trong vòng 25 năm qua, tăng từ 0.4% lên 8. 5 %; tính từ khi có cuộc suy
thoái đến nay thị trường Mỹ mất khoảng 5 triệu 100 ngàn việc làm.
2. 2 Đối với thế giới: Xem xét theo từng lĩnh vực tương ứng với những hậu quả nước
Mỹ gánh chịu thì thế giới cũng chịu những hậu quả lan truyền tương tự.
2. 3 Đối với hệ thống ngân hàng, tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán:
Một hậu quả rõ nét nhất đó là sự sụp đổ dây chuyền của hệ thống ngân hàng, thị trường
chứng khoán với hậu quả gần như tức thời là toàn bộ các thị trường tài chính thế giới, từ
Wall Street đếntokyo, thượng hải, các chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh. Tại châu
Âu: Paris, Luân đôn, Frankfurt, Amsterdam cũng cùng chung số phận. Thị trường

Matxcơva cũng lâm vào trình trạng hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để “ chờ cơn
bão đi qua”. Cũng trong tuần lễ đó NewYork, trung tâm tài chính số 1 của quốc tế như
ngồi trên lửa với những tin đồn ngân hàng Morgan stanley điêu đứng, đang cố tìm lấy
một chiếc phao để qua cơn hoạn nạn.
2. 4 Về kinh tế, chính trị và xã hội;


Sự đổ vỡ của hệ thống tín dụng đã đẩy nền kinh tế thế giới vào cuộc suy thoái sâu rộng
nhất trong hơn 70 năm qua. Cuộc suy thoái này bắt đầu khi bong bóng nhà đất của Mỹ
lan nhanh, các ngân hàng đổ vỡ, ngừng cho vay và người tiêu dùng cũng như là các
doanh nghiệp thắt chặt chi tiêu.
=> Một hệ quả là khi nhu cầu của Mỹ và châu Âu giảm thì các thị trường đang nổi một
thời thịnh vượng đã mất đi những khách hàng và đối tác đầu tư lớn nhất. Đầu tư nước
ngoài giảm sút, kiều hối do người lao động nước ngoài gửi về giảm, thu nhập từ xuất
khẩu nguyên liệu rơi tự do, dòng vốn nước ngoài tháo lui, căng thẳng vấn đề tỉ giá và lãi
suất tín dụng, do thiếu kho bảo quản nên các nước nghèo cũng rất dễ bị tác động từ việc
giá lương thực leo thang.
=> Gây ra nhiều nguy cơ mới: dịch bệnh, tị nạn.
=> Cuộc khủng hoảng TC giúp ta nhận thấy: không phải là mua sắm nhiều hơn, tiêu dùng
nhiều hơn mà chính là gia đình, bạn bè, cuộc sống tiết kiệm là những việc có ý nghĩa
thiờt thực góp phần chống đói nghèo.
Bất ổn chính trị, xã hội: Những nguy cơ chính trị xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài
chính đang ngày càng trở lên khốc liệt. Giám đốc cơ quan tình báo quốc gia Mỹ ( CIA)
đã cho rằng: sự rối loạn chính trị do suy thoái toàn cầu đã thay thế chủ nghĩa khủng bố
trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với anh ninh quốc gia Mỹ. Tại Đông âu, cuộc khủng
hoảng không những làm lung lay các nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến những quan
niệm về tư tưởng liên quan đến việc khôi phục chủ nghĩa tư bản ở nước này.
2. 5 Nguyên nhân cuộc khủng hoảng
Khủng hoảng tài chính toàn cầu có xuất phát điểm từ khủng hoảng tài chính Mỹ 2007. Do
vậy để tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tài chính ta bắt đầu từ việc đi tìm nguyên

nhân của khủng hoảng tài chính ở Mỹ.
Nguyên nhân gián tiếp từ giai đoạn cận khủng hoảng:
Giai đoạn 1: Dưới thời của cựu tổng thống Bill Clinton (1992 – 2000). Đây được coi là
thời kỳ hoàng kim của Mỹ, với tiến bộ công nghệ và hiệu quả kinh tế cao, thặng dư ngân
sách, và tỷ lệ nợ nước ngoài thấp. Nhưng ngay vào cuối thời kỳ này đã xuất hiện hai sự
kiện đáng chú ý:


- Vỡ bong bóng chứng khoán (dotcom bubble). Điều này làm ảnh hưởng đến sự giàu có
của tầng lớp trung lưu của Mỹ, tức là làm giảm khả năng thế chấp cho các khoản vay để
đầu tư của họ vào nhà cửa, bất động sản, và các hoạt động kinh doanh khác.
- Tự do hoá tài chính (unregulated finance). Cụ thể là dưới áp lực của các nhóm đặc
quyền tài chính, vào năm 1999, Bill Clinton đã ký đạo luật mới (Gramm-leach-Bliey),
khai tử đạo luật Glass - Steagal (1933). Điều này cho phép các ngân hàng thương mại
tham gia vào các hoạt động đầu tư rất rủi ro (chủ yếu là trong lĩnh vực bất động sản), làm
khởi đầu bong bóng nhà đất ngay từ năm 2000.
Giai đoạn 2: Thời kỳ của cựu tổng thống George Bush, với điểm nổi bật là mất cân đối vĩ
mô ngày càng trầm trọng:
(i) Mỹ chịu gánh nặng của hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afganistan, sau sự kiện 11
tháng 9. Điều này trực tiếp làm tăng thâm hụt ngân sách.
(ii) Thâm hụt cán cân thương mại và nợ nước ngoài của Mỹ (nhất là với Trung Quốc) đã
tăng trong suốt 3 thập kỷ, nhưng nhanh nhất vào những năm 2000 trở đi.
Nguyên nhân trực tiếp:
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vỡ việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng
phức tạp cho nên nú diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ.
Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ
biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các
công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn
trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay. Với ba lý do trên, thị trường
bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín

dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường phải
trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời
gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng
ba năm sau lãi suất mới sẽ được ấn định theo thời điểm đó). Tóm lại, nhóm người này
thuộc vào thành phần được cho vay với loại lãi suất dưới chuẩn (subprime rate). Bất kể
khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này
đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nú tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào
năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại


các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty
khác, chẳng hạn như Lehman Brothers.
- Tình hình nhập khẩu: Tổng kim ngạch nhập khẩu 11 tháng ước đạt 61, 72 tỷ USD giảm
17,8% so với tháng 11/2008. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là xăng dầu các loại, sắt
thép, ô tô nguyên chiếc,....
- Sau 11 tháng, mức nhập siêu đã lên đến gần 10, 42 tỷ USD, bằng 20,3% tổng kim ngạch
xuất khẩu (cùng kỳ năm trước nhập siêu 28,8%).. Tuy giảm so với cùng kỳ năm trước,
nhưng nhập siêu đã vượt dự kiến từ đầu năm. Với mức nhập siêu như trên và có thể còn
cao hơn trong tháng 12 tới thì cả năm có thể vượt qua mức 12 tỷ USD. Với mức nhập
siêu trên thì vẫn tiếp tục tác động tiêu cực đến cán cân thanh toán.
3.1 Ảnh hưởng tới vốn đầu tư của nước ngoài kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp
Vốn đầu tư vào Việt Nam là một yếu tố góp phần quan trọng vào những thành tựu phát
triển chung của cả nước, những năm gần đây tổng đầu tư nước ngoài đóng góp 25-30%
tổng đầu tư toàn xã hội. Với tình hình khủng hoảng tài chính xảy ra, thì nguồn vốn đầu tư
này đổ vào Việt Nam hiện nay đã có bước sụt giảm, ảnh hưởng trực tiếp tới tăng trưởng
kinh tế.
- Đầu tư trực tiếp: Năm 2008, cả nước thu hút được 64 tỷ USD với 1171 dự án đăng ký
mới (60, 3 tỷ USD) và 311 dự án bổ sung vốn (3, 7 tỷ USD), tăng gấp 3 lần so với năm
2007. Sang đến năm 2009, có 839 dự án đăng ký mới với tổng vốn đăng ký 16, 34 tỷ

USD, cộng với 215 dự án đăng ký tăng vốn với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5, 13 tỷ
USD đưa tổng số FDI đăng ký vào Việt Nam là 21, 48 tỷ USD, chỉ bằng 30% so với năm
2008. Trong đó Dịch vụ lưu trú và ăn uống vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất
của các nhà đầu tư nước ngoài với 8, 8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm, tiếp theo là
kinh doang bất động sản với 7, 6 tỷ USD. Qua xem xét luồng vốn, có 43 quốc gia vùng
lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó Mỹ vẫn là nhà đầu tư lớn nhất với tổng
vốn đăng ký là 9, 8 tỷ USD chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, tiếp theo là
Cayman Islands đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2, 02 tỷ USD chiếm 9,4%. Đứng thứ 3
là Samoa với tổng vốn đăng ký 1, 7 tỷ USD chiếm 7,9%. Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1, 66
tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 7,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Bà Rịa - Vũng Tàu là địa
phương thu hút nhiều vốn FDI nhất trong năm 2009 với 6, 73 tỷ USD vốn đăng ký mới


và tăng thêm. Tiếp theo là Quảng Nam, Bình Dương, Đồng Nai và Phú Yên với quy mô
vốn đăng ký lần lượt là 4, 1 tỷ USD; 2, 5 tỷ USD; 2, 36 tỷ USD và 1, 7 tỷ USD.
- Đầu tư gián tiếp (FII): thông qua các hoạt động mua tài sản tài chính như cổ phiếu, trái
phiếu, tiền gửi ngân hàng, tiền tệ và các giấy tờ có giá khác. Ba tháng đầu năm, khi mà
nền kinh tế toàn cầu chao đảo, thị trường chứng khoán tụt dốc không phanh, cũng là lúc
các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đẩy mạnh việc thoái vốn khỏi thị trường Việt Nam.
Trên tổng quy mô vốn 8 tỷ USD, số vốn FII chảy ra khỏi thị trường vào khoảng 700 triệu
USD, chủ yếu là từ hoạt động đầu tư trái phiếu. Tuy nhiên, 3 tháng trở lại đây, đã có thêm
120 triệu USD được chuyển ngược vào Việt Nam, 120 triệu USD chuyển vào nền kinh tế
Việt Nam trong vòng 3 tháng trở lại đây, xét trên tương quan với lượng vốn đã rút ra khỏi
thị trường và lượng vốn FII đang hiện hữu thì không phải là một con số lớn. Bên cạnh đó,
theo Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, khối ngoại từ chỗ bán ròng trên thị trường, đã
chuyển qua mua ròng với số tiền ước tính lên tới 75 triệu USD. Tuy nhiên, điều đáng nói
là hầu như không có tiền mới đổ vào thị trường, mà chủ yếu là các nhà những người điều
hành. Trong khi đó, Việt . Tuy nhiên, dù chưa rõ là có phải vì các tập đoàn Nhà nước đã
đáp ứng lời kêu gọi của chính phủ và giảm các chi tiêu không cần thiết, hay là vì giá
lương thực và giá dầu thế giới đã giảm đi, hoặc đơn giản là lãi suất cao đã khiến tín dụng

hiếm đi, nhưng lạm phát bắt đầu giảm. Trong tháng 9, tỷ lệ lạm phát hàng tháng chỉ còn
là 0,2%. Qua tháng 10 và 11, giá cả thực sự đã Namđã giảm được lạm phát trong vòng 3
tháng đồng thời bảo vệ được tiền đồng không suy sụp và vẫn giữ được mức giá của tháng
5. Nỗ lực của Việt Nam trong việc chống lạm phát và đồng thời duy trì chính sách tiền tệ
của mình giống như một tiền lệ đối với sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, một
hành động đã từng xảy ra trên thế giới. Thay vì đứng ngoài việc điều hành lĩnh vực tài
chính, Chính phủ Việt Nam lại can thiệp mạnh tay. Và trong khi giới phân tích còn tranh
cãi về hiệu quả của biện pháp này thì phương thức Việt Nam áp dụng đã tỏ ra đủ hiệu
nghiệm để tránh được một cuộc khủng hoảng tài chính trong nước. Khó khăn của
Việt Nam khởi sự ngay từ đầu năm 2008. Trước đó, Việt Nam vẫn là con cưng của các
nhà đầu tư thế giới, nhận được hơn 20 tỷ USD tiền cam kết đầu tư trực tiếp trong năm
2007, với hơn 6 tỷ USD đã được giải ngân. Trong một nền kinh tế trị giá 80 tỷ USD,
khoản tiền như thế rất lớn. Nhưng ngoại tệ đổ vào Việt Nam khiến đồng bạc tăng giá, đe
dọa sức cạnh tranh của xuất khẩu ViệtNam. Ngân hàng nhà nước kiềm chế tỷ giá hối đoái


bằng cách tung tiền đồng mua USD. Điều này khiến các ngân hàng thương mại tràn ngập
tiền đồng, tạo sức ép lên nền kinh tế, dẫn đến lạm phát. Vào tháng 2, lạm phát tăng lên
15%, qua tháng 5, giá cả tăng 3,9% trong vòng 1 tháng. Giá cả tăng còn do giá dầu và
lương thực thế giới tăng lên. Chính phủ Việt Nam đã tìm cách làm giảm giá, khống chế
giá cả các mặt hàng cơ bản như xăng dầu và thép; nâng mức dự trữ bắt buộc đối với các
ngân hàng để thu hồi lượng tiền dư; đồng thời nâng lãi suất, bước đầu lên 12% vào tháng
5, sau đó lên 14% vào tháng 6. Lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại lên đến
21%. Chính phủ Việt Nam ra lệnh cho ngân hàng ngưng cho vay quá nhiều, đồng thời
yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước ngưng đầu tư vào các dự án không liên quan
đến lĩnh vực kinh doanh chính của họ - một viờc mà nhiều Chính phủ các nước phương
Tây cho là kỳ quoặc. Các nhà phân tích kinh tế đã chỉ trích cách làm của Chính phủ Việt
Nam đã tìm cách làm giảm giá, khống chế giá cả các mặt hàng cơ bản như xăng dầu và
thép; nâng mức dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng để thu hồi lượng tiền dư; đồng thời
nâng lãi suất, bước đầu lên 12% vào tháng 5, sau đó lên 14% vào tháng 6. Lãi suất cho

vay của các ngân hàng thương mại lên đến 21%. Chính phủ Việt Nam ra lệnh cho ngân
hàng ngưng cho vay quá nhiều, đồng thời yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
ngưng đầu tư vào các dự án không liên quan đến lĩnh vực kinh doanh chính của họ - một
viêc mà nhiều Chính phủ các nước phương Tây cho là kỳ quoặc.
3.2 Ảnh hưởng tới hoạt động của thị trường chứng khoán (TTCK):
- Chỉ trong vòng chưa đầy 18 tháng, hình ảnh thị trường chứng khoán Việt Nam trong
giai đoạn đầu phát triển với đà tăng trưởng mạnh mẽ nhất của năm 2006 đã hoàn toàn đảo
ngược. Mức giảm 66% của chỉ số VN - Index trong năm 2008 khiến Việt Nam trở thành
thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh nhất trong khu vực.
- Khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến các quốc gia vốn là
thị trường xuất khẩu hàng húa của nhiều doanh nghiệp niêm yết như Mỹ, Liên minh Châu
Âu, Nhật Bản,.. Khủng hoảng tài chính làm sức mua trên các thị trường giảm sút nghiêm
trọng, làm ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp
niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này vốn đang sụt giảm lại khó có khả
năng phục hồi.
- Khủng hoảng tài chính ngày càng ảnh hưởng rộng trên thị trường tài chính thế giới, theo
đó các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động


vốn, dẫn đến các nhà đầu tư có thể bán ròng cổ phiếu, trái phiếu hoặc họ sẽ có xu hướng
thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi các thị trường lớn của họ đang gặp khó khăn
và việc họ cơ cấu lại chứng khoán Việt Nam là điều có thể xảy ra. Điều này tác động đến
dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư nước ngoài bán ra
nhiều hơn mua vào sẽ làm giảm giá chứng khoán của Việt Nam. Tính từ đầu tháng 8/
2008 đến đầu tháng 10/ 2008 các nhà đầu tư nước ngoài đã liên tục bán ròng cổ phiếu với
tổng giá trị lên tới 1. 278 đến đầu tháng 10/2008.
3.3 Đánh giá hiệu quả của gói giải pháp trên:
Về cơ chế hỗ trợ lãi suất 4%: tuy thực hiện trong ngắn hạn, nhưng diện vay rộng, đối
tượng được hỗ trợ lãi suất có sự trùng lặp giữa Quyết định số 497/ QĐ-TTg với quyết
định số 131/ QĐ-TTg và Quyết định số 443/QĐ-TTg, điều kiện, thủ tục cho vay chặt chẽ

hơn so với cho vay theo cơ chế thông thường. Do đó, khó kiểm soát việc sử dụng và
chuyển dịch vốn vay. Việc triển khai đồng thời nhiều cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với việc
thực thi chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng làm tổng phương tiện
thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao gây sức ép tăng lãi suất thị trường và là nguy cơ
tái lạm phát. Nợ xấu ngân hàng có thể tăng. Thêm vào đó, do lãi suất cho vay VND sau
khi hỗ trợ khá thấp, tương đương lãi suất cho vay bằng USD nhưng do lo ngại rủi ro tỷ
giá, các doanh nghiệp nhập khẩu chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, gây sức ép tăng
tỷ giá và căng thẳng thanh khoản trên thị trường ngoại hối, doanh nghiệp có vốn tự có gửi
vào NHTM để hưởng lãi suất cao (7- 10%) nhưng vẫn vay vốn VND chuyển sang tiền
gửi để hưởng chênh lệch lãi suất. Mặt khác, doanh nghiệp lập phương án sản xuất kinh
doanh dự án đầu tư với thời hạn trả nợ kéo dài hơn so với chu kỳ sản xuất, kinh doanh,
thời hạn hoàn vốn để hưởng nhiều hỗ trợ lãi suất... Một điểm nữa trong mặt trái của cho
vay hỗ trợ lãi suất là sẽ phát sinh tình trạng không công bằng giữa các doanh nghiệp được
vay và doanh nghiệp không được vay; triệt tiêu động lực cạnh tranh trong kinh tế thị
trường. Mặt khác, với mức vốn hỗ trợ lãi suất tiền vay 4%/ năm (những dự án đã được
vay vốn từ Ngân hàng Phát triển đang vay với lãi suất ưu đãi 6,9%, được hỗ trợ thêm 4%,
chỉ còn chịu chi phí lãi có 2%) là khá lớn, đối tượng được thụ hưởng thuộc nhiều lĩnh
vực, ngành kinh tế, nếu kéo dài sẽ phát sinh tâm lý ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước,
giảm năng lực và cố gắng của các doanh nghiệp. Đối với Quyết định số 443/ QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức cá nhân vay vốn trung và


dài hạn ngân hàng, mức hỗ trợ lãi suất 4%, thời hạn vay tối đa 24 tháng, việc hỗ trợ lãi
suất thực hiện từ tháng 4/ 09 đến ngày 31/12/2011, Quyết định này sẽ kéo dài đến hết
năm 2010 tuy nhiên lãi suất hỗ trợ giảm xuống còn 2%, thu hẹp đối tượng chỉ phục vụ
mục đích mua sắm máy móc và đầu tư dự án. Đồng tình với quan điểm trên, chuyên gia
kinh tế Phạm Chi Lan nhận xét: Các báo cáo về gói kích thích kinh tế hầu hết là của Bộ
KH&ĐT, NHNNVN, còn chung chung, thiếu những thông tin cụ thể chuyên sâu, nên khó
đánh giá được đúng, đủ về gói kích cầu. Chẳng hạn, các báo cáo chỉ dừng lại ở việc thông
tin về số vốn giải ngân, và số lượng mà từng tổ chức tín dụng giải ngân..., chưa nói được

gì nhiều. Con số cần là các thông tin đến người vay, như số lượng người vay và số vốn
vay theo thành phần kinh tế và phân theo vùng kinh tế, phân theo mục đích sử dụng... "
Đánh giá này rất quan trọng, không chỉ để nâng cao hiệu quả gói kích cầu thứ nhất, mà cả
bài học kinh nghiệm cho gói kích cầu thứ hai lớn hơn và dài hạn hơn"- Bà Lan nói. Bởi
theo bà Lan, nếu với số liệu đơn giản như hiện nay thì Chính phủ khó đánh giá được đầy
đủ, xã hội thì càng mù mờ và Quốc hội cũng khó giám sát được. TS. Trịnh Tiến DũngChương trình Phát triển LHQ tại Việt Nam- cũng cho rằng: Cần cú đánh giá cẩn trọng về
gói kích cầu thứ nhất. Theo đó, nên cú đánh giá độc lập với các cơ quan hành chính nhà
nước. Đánh giá đó có thể dựa trên một hệ số tiêu chí và chứng cứ qua tiếp cận với các đối
tượng thụ hưởng có tính đại diện. Và một điều nữa là nên cú đánh giá về việc các ngân
hàng lãi lớn có phải do được lợi lớn từ kích cầu? Nếu có thì đợt kích cầu này cần có sự
thay đổi và hướng đến dài hạn.
3. 4 Một số ý kiến đề xuất:
Trước những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ngay từ quý I năm 2008
Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt biện pháp để ngăn chặn, phòng ngừa những hậu quả
khôn lường của "Cơn bão tài chính". Các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô đã phát huy tác
dụng, lạm phát giảm, thu hẹp cán cân thương mại, tăng cường ngân sách nhà nước, thắt
chặt chi tiêu công. Tuy nhiên tiềm ẩn nguy cơ của khủng hoảng tài chính là rất lớn, cơn
bão tài chính toàn cầu chưa đến hồi kết, vì vậy việc tiếp tục thực hiện các biện pháp để ổn
định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và đẩy manh xuất khẩu, ...cần được
quan tâm chỉ đạo. Cụ thể:
- Tiếp tục thực hiện 08 nhóm giải pháp của Chính phủ để kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.


- Cần ưu tiên cho việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và tiết kiệm chi ngân sách, thắt
lưng buộc bụng, từ đó có thể giảm bớt sự thắt chặt chính sách tiền tệ. Cần công khai minh
bạch các chi tiêu công đối với các tập đoàn nhà nước.
- Không nên quá tập trung tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, tăng trưởng bền vững, đi
đôi với ổn định môi trường, giải quyết an sinh xã hội, phát triển giáo dục, sức khỏe, hạn
chế tiêu cực xã hội, ..là ưu tiên hàng đầu.

- Khi có dấu hiệu lạm phát giảm mạnh, thì cần cải tổ chính sách tiền lương CBCC nhà
nước, hành chính sự nghiệp…
- Cần áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát, kích thích đầu tư, đề góp phần
tháo gỡ khó khăn hiện nay cho doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các
ngân hàng có thể hỗ trợ doanh nghiệp như khoanh nợ, giãn nợ, giảm lãi suất cho vay.
Cùng với đó, chính sách tài khóa cũng được xem xét miễn giảm thuế cho doanh nghiệp
sản xuất và xuất khẩu.
- Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, không để nhập siêu quá lớn, tăng thuế các mặt hàng xa
xỉ..
- Thường xuyên rà soát đánh giá lại các khoản vay nợ ngắn hạn nước ngoài của Chính
Phủ, ngân hàng, doanh nghiệp và danh mục đầu tư gián tiếp nước ngoài.
- Chính phủ cần nghiên cứu xem xét về cấp hạn ngạch cho việc mua trái phiếu của nhà
đầu nước ngoài để đảm bảo tỷ lệ kiểm soát, phòng khi nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn
bằng bán trái phiếu.
- Chính phủ và các cơ quan chức năng cần tăng cường giám sát diễn biến của thị trường
tài chính, đặc biệt là hoạt động cho vay BĐS, chứng khoán của các ngân hàng thương
mại.
- Tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động ngân hàng, bao gồm Luật
Ngân hàng Nhà nước năm 1997 (sửa đổi và bổ sung năm 2003) và Luật các tổ chức tín
dụng năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) và các văn bản dưới luật về ngân hàng.
- Tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, trong đó NHNN cần đẩy mạnh
công tác kiểm tra, giám sát thanh tra việc thực hiện các quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng và TCTD theo quy định. Cần đẩy mạnh các
giải pháp nâng cao tính thanh khoản của hệ thống Ngân hàng.


- Cần quản lý và kiểm soát nguồn vốn nhà nước trong các công ty tài chính nhà nước,
ngăn chặn tình trạng lạm dụng đầu tư tài chính bằng nguồn Nhà nước của các tổ chức, tổ
chức này như một biện pháp loại trừ nguyên nhân lạm phát và góp phần lành mạnh thị
trường tiền tệ.

- Thường xuyên kiểm tra và giám sát các hoạt động kinh doanh của các công ty chứng
khoán.
- Tiếp tục thực thi chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đã được chính phủ phê duyệt,
trong đó việc liên thông, kết nối với thị trường các nước là cần thiết, tuy nhiên phải được
tiến hành cẩn trọng, có lộ trình để hạn chế đến mức thấp nhất các tác động xấu có thể xảy
ra như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Đồng thời tăng cường các hoạt
động kiểm tra, thanh tra và xử phạt đủ mạnh nhằm tạo ra môi trường kinh doanh chứng
khoán minh bạch, công bằng và đúng pháp luật.
- Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu tư
chứng khoán Việt Nam, TTCK bị tác động xấu vì những lo ngại của các nhà đầu tư trong
nước. Yếu tố tâm lý là khá quan trọng, vì vậy cần phải có những biện pháp, đặc biệt là
thông tin, tuyền truyền đầy đủ để củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư, hạn chế những lo
ngại thái quá làm ảnh hưởng xấu đến TTCK.
- Cần đa dạng hoá hơn nữa thị trường xuất khẩu ra nước ngoài, hướng mục tiêu xuất khẩu
sang các thị trường lớn trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc,..
- Cần theo dõi sát sao tình hình diễn biến thế giới cũng như trong nước để có những giải
pháp linh hoạt, hiệu quả và thích hợp cho mọi tình huống nhằm đối phó tốt nhất với
những tình huống tương tự nhằm củng cố niềm tin của người dân và giới đầu tư, tránh
các cuộc tháo chạy của họ khỏi thị trường.

KẾT LUẬN:
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra vào cuối năm 2008 thực sự là một may mắn cho nền
kinh tế Việt Nam. Tuy khủng hoảng có làm cho xuất khẩu của Việt Nam bị suy giảm
nhưng nó giúp cho Việt Nam tiếp cận được với nguồn nguyên liệu đầu vào cũng như máy
móc thiết bị rẻ hơn rất nhiều so với trước đây. Điều này đã giúp cho nền kinh tế tạm thời
giải tỏa được các áp lực về lạm phát, mất cân đối cán cân thanh toán, và sự mất giá của
VND trong điều kiện chính sách tài khóa và tiền tệ vẫn tiếp tục được nới lỏng. Nếu giả sử
nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục phục hồi, tăng trưởng, Việt Nam sẽ phải tiếp tục chính



sách thắt chặt tiền tệ và hạn chế nhập siêu, khi đó mức độ suy giảm tăng trưởng của các
doanh nghiệp trong nước sẽ còn lớn hơn nhiều so với những gì đang diễn ra hiện nay. Vì
thế, ta cần phải nhìn nhận rằng đây là một thời điểm thuận lợi cho Việt Nam tiến hành
các cải cách kinh tế nhằm ngăn chặn suy thoái và khủng hoảng quay trở lại, đồng thời tạo
ra một cấu trúc kinh tế mới, giúp cho Việt Nam phát triển nhanh hơn và bền vững hơn
các quốc gia khác khi kinh tế thế giới hồi phục. Nhưng cơ hội cũng đang mở ra. Vấn
đề là chúng ta có nắm bắt được cơ hội hay không mà thôi.Cần nhận định rõ rằng, Trung
quốc là một siêu cường đang nổi lên, một “nhà máy sản xuất ”của thế giới, một thị trường
đang tăng trưởng nhanh (vừa vượt cả Mỹ để trở thành thị trường tiêu thụ ô tô lớn nhất thế
giới); và là một quốc gia có dự trữ vốn cũng vào loại gần như lớn nhất thế giới. Một
chính sách nhằm làm co hẹp dần khoảng cách về năng suất của nền kinh tế Việt nam
sovới Trung quốc sẽ biến Việt nam thành nơi “hút” đầu tư nước ngoài cực mạnh, ngay
khi nền kinh tế thế giới phục hồi trở lại. Đó là cơ hội phát triển cho Việt nam, dựa ngay
trên sức mạnh đang lên của Trung quốc. Điều này đòi hỏi phải có một sự thay đổi về thể
chế quản lý một cách có trật tự và vững chắc. Một thể chế quản lý nhấn mạnh tới trách
nhiệm, hiệu quả của từng tế bào của bộ máy quản lý nhà nước, từng tổ chức tài chính và
công nghiệp, đối với lợi ích toàn xã hội và với yêu cầu phát triển bền vững. Điều đó lại
đòi hỏi một sự minh bạch về thông tin quản lý, về hiệu quả kinh tế - xã hội của từng đơn
vị hay tổ chức trong từng địa phương và trong toàn nền kinh tế. Đây cũng chính là bài
học quý báu nhất về tiến trình chuyển đổi tổ chức và quản lý tại Trung quốc trong cải
cách cũng như Singapore, Hàn quốc, Đài loan, hay Trung quốc, Ấn độ trước đây, sự
thách thức và cơ hội đang đặt ra với Việt nam hôm nay. Họ cũng đã bắt đầu từ một xã hội
như chính chúng ta. Và chúng ta cũng hoàn toàn có thể vươn lên như họ, hoà nhập vào
một Châu Á năng động và một Thế giới phát triển bền vững hơn.


Tài liệu tham khảo
Bagus, P. and M. Schiml (2009), “The Insolvency of the FED” Mises Daily.
Bakker, P., (2007). “The Irresistible Rise of Porn: The Untold Story of a GlobalIndustry”
Observatorio (OBS*), vol 1(1).

Bonn, J., (2008), “Deflation: Nothing to Fear, ” Mises Daily.
Comella, L., (2008), “It' s Sexy. It' s Big Business. And It' s Not Just for Men, ”
Contexts,vol. 7(3): 61–63
Garrison, R., (2001), “Time and Money: The Macroeconomics of Capital
Structure”,Routledge,London.
Garrison, R., (2005), “The AustrianSchool”, in Snowdon, B. and H. Vane (eds.),
“Modern Macroeconomics: Its Origins, Development and CurrrentState”, Cheltenham:
Edward Elgar.
Hayek, F., (1931), “Prices and Production”, New York: Augustus M. Kelley.
Báo cáo của Tổng Cục Thống Kê
World Bank (2008). “Báo cáo phát triển Việt Nam 2009: Huy động và sử dụng vốn”. Hội
nghị Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ, Hà nội, 4-5/12/2008.
Một số website khác.



×