Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ NĂM 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.54 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Tiểu Luận
Khủng hoảng kinh tế - Bài học từ quá khứ
Tên : Nguyễn Trần Thanh Trúc
STT : 44
Email:
ĐT : 090 669 0078
Khóa: 2012TP1 – Tại Chức
Lớp : Ngân Hàng


LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là cuộc khủng hoảng lớn nhất trên thế giới kể từ sau cuộc khủng
hoảng kinh tế tồi tệ nhất lịch sử của thế giới trong những năm 30 của thế kỷ XX, nó đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng đối với nền kinh tế nước Mỹ và lan rộng ra toàn cầu làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống
tài chính và sự tăng trưởng kinh tế thế giới. Kể từ khi cơn lốc của cuộc khủng hoảng đi qua cuốn theo rất
nhiều quốc gia vào vòng xoáy của nó, đến bay giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị trường đã
trở nên ổn định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các nước vẫn còn phải tiếp tục lịch
trình tái cơ cấu và đang đứng trước một nguy cơ khủng hoảng tài chính mới.
Tuy không nằm trong tiêu điểm của cơn lốc khủng hoảng, nhưng những ảnh hưởng và tác động của nó ngày
càng được thể hiện rõ ở Việt Nam, thể hiện qua những chỉ số giảm đi cụ thể về thương mại, đầu tư, tốc độ
phát triển kinh tế và du dịch…
Phần 1 : Tổng quan về khủng hoảng tài chính quốc tế
1/ Khái niệm khủng hoảng tài chính quốc tế :
-

Khủng hoảng tài chính là sự suy giảm của hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái
trong chu kỳ kinh tế. Khủng hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài
chính vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng sản xuất thừa sẽ làm gia tăng nhu cầu cho


mục đích tiêu dùng hàng hoá. Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung
của xã hội, nhu cầu về tiền của nhân dân hay các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã gây sức ép cho
hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính khiến cho ngân hàng và các tổ chức tài chính sụp đổ. Khủng
hoảng tài chính chỉ là 1 phần của khủng hoảng kinh tế nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt
hại lớn nhất vì các nước có tự do thương mại, nguồn vốn được di chuyển qua những nước khác nhau
nên khủng hoảng tài chính là yếu tố lây lan, còn khủng hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp
lây lan.

2/ Một số khái niệm và các dạng của khủng hoảng tài chính quốc tế:
A/ Dấu hiệu : - Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền
- Tỷ giá hối đoái tăng đột biến và dây chuyền
- Lãi suất tín dụng gia tăng : lãi suất tăng kéo theo cầu tiền tệ, cầu tín dụng sụt giảm
làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm
- Hệ thống ngân hàng bị tê liệt
- Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng


- Các hoạt động kinh tế bị suy giảm
B/ Các hình thức của khủng hoảng tài chính:
*** Khủng hoảng ngân hàng : Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt có
thể dẫn đến sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ
khi học được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng
ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng
được tăng lên do lo ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố
gây ra khủng hoảng tài chính
*** Khủng hoảng trên thị trường tài chính: thường xảy ra do 2 nguyên nhân chính: do các chính
sách của nhà nước và do sự tồn tại của cá “bong bong đầu cơ”. Khi nhà nước phát hành tiền nhằm
trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, sẽ gây ảnh hưởng đến tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất
long tin vào nội tệ và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của nhà
nước sẽ cạn dần, nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào đó, thị trường

luôn tồn tại những “bong bóng đầu cơ”, ẩn chứa nguy cơ đỗ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia
thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hoá nào đó trên thị trường tài chính , nhưng không nhằm
mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với hi vọng sẽ bán ra giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy
giá trị của các hàng hoá này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo
những nguy cơ đỗ vỡ trên thị trường tài chính , do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán
theo xu hướng chung trên thị trường, họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt
ảo trên thị trường và bán ra khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá
*** Khủng hoảng tiền tệ : Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình,
gây khủng hoảng tiền tệ
*** Khủng hoảng tài chính trong các Tập đoàn kinh tế: Các tập đoàn tài thường vướng vào khủng
hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn
đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán được các khoản vay đầu tư và phá sản, và do bị hiệu ứng dây
chuyền từ khủng hoảng chung, các doanh nghiệp không thể vay vốn đầu tư, hoặc các dự án đầu tư
không thể thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng
*** Khủng hoảng nợ quốc gia: trường hợp 1 quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính thức, vay
thương mại) qua nhiều, sử dụng không hiệu quả vốn nên không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng
hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xoá nợ thậm chí tuyên bố vỡ nợ
*** Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường
chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường chứng khoán xảy ra khi
chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay “không thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do
hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì
không có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào so với tiền ra thị trường chứng
khoán (quỹ chứng khoán)
*** Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai), cán cân vốn (còn được gọi là tài khoản)
là cấu thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt
quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra
khi cán cân thương mại (nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng
các nguồn ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào gây nên thâm hụt nặng nề



*** Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản : nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan
tới cả ba mặt số lượng , thời hạn và chủng loại tiền thì khủng hoảng tính thanh khoản là sự mất cân
đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của “giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù
*** Khủng hoảng ngân sách : NSNN thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn thu bù đắp
thâm hụt bụ hạn chế hay không thể lạm dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả vỡ nợ hay bùng nổ
lạm phát
*** Mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân hàng, tiền tệ và hậu quả của các cuộc khủng hoảng: Vào
những năm 90, các cuộc khủng hoảng tài chính ở những nước đang phát triển được mô tả với nét tiêu
biểu là sự sụp đổ của các cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và các trung gian tài chính như các ngân
hàng. Khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ có mối quan hệ rất chặt chẽ vì cả 2 liên quan
đến việc giữ ổn định tỷ giá tài sản và cùng xuất hiện khi cam kết hỗ trợ ổn định giá trị đồng tiền, lạm
phát trong nước không còn đáng tin cậy
C/ Các mô hình khủng hoảng cơ bản :
Dựa trên đặc điểm và tính chất của các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã nổ ra, các học giả đã
xây dựng nên 3 mô hình khủng hoảng cơ bản.
- Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất: được P. Krugman (1979) xây dựng và chủ yếu đặc trưng
cho các cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai trong điều kiện tỷ giá cố định bị các hoạt động đầu cơ tấn
công. Mô hình này xảy ra ở một số nước có nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém, ngân sách thâm hụt
trầm trọng, cung tiền tăng quá mức (có thể do Chính phủ in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách) khiến
lạm phát gia tăng; những điềunày dẫn đến cán cân vãng lai thâm hụt trầm trọng. Trước nguy cơ đồng
nội tệ bị giảm giá, Chính phủ buộc phải liên tục can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra thị trường để duy
trì tỷ giá cố định. Khi lượng dự trữ ngoại hối giảm xuống một mức thấp nhất định nào đó, các cuộc
tấn công mang tính đầu cơ bắt đầu xảy ra, cùng với các điều kiện nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém
và thậm chí là sự gia tăng căng thẳng về chính trị và xã hội, đến một thời điểm nào đó, Chính phủ
buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá làm cho đồng nội tệ bị mất
giá liên tục và khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Mô hình này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng
hoảng ở một số nước châu Mĩ La Tinh vào cuối những năm 1970, đầu những năm 1980 và trong
những năm 1990.
- Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai : được Obstfeld (1994 và 1995) xây dựng. Khủng hoảng
dạng này còn được gọi là khủng hoảng tự phát sinh (self-fulfilling crisis), có thể xảy ra ở những nước

có mức độ yếu kém về tài chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố định của
Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp bảovệ tỷ giá quá tốn kém (chẳng hạn do thắt chặt tiền tệ, lãi
suất bị đẩy lên cao, gây tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm). Trước tín hiệu đó, các
nhà đầu cơ có thể bán tháo đồng nội tệ để mua ngoại tệ. Những sức ép này buộc Chính phủ không có
cách nào khác là phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định để thực thi chính sách tiền tệ mở rộng trước những
cuộc tấn công quy mô của giới đầu cơ tiền tệ, và hậu quả là khủng hoảng bùng phát. Biến thể khác
của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai xuất phát từ tình trạng thông tin không hoàn hảo và mất đối
xứng. Trong điều kiện một hoặc một số ngân hàng có “vấn đề”, tình trạng này dẫn đến hành vi “bầy
đàn”, gây hoảng loạn tài chính và rốt cuộc dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Mô hình này có
thể thấy trong cuộc khủng hoảng của Hệ thống tiền tệ châu Âu (European Monetary System) năm
1992-1993.


- Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba : được Yoshitomi và Ohno (1999) xây dựng, đặc trưng cho
các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế (Balance of Payment). Khủng
hoảng tài khoản vốn thường dẫn đến khủng hoảng “kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân
hàng. Việc tự do hoá tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho
cuộc khủng hoảng kép: (i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai; và (ii)
Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng quá lớn. (i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng
lai (CA Deficit) đã khiến cán cân thanh toán (BOP) thặng dư và dự trữ ngoại hối tăng. Điều này dẫn
tới sự bành trướng tín dụng, đầu tư và tiêu dùng trong nước. Điểm mấu chốt ở đây là việc đầu tư quá
mức (dư thừa năng lực sản xuất), đầu tư kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản…), đã dẫn
tới hậu quả là thâm hụt cán cân vãng lai tăng, xuất hiện nền “kinh tế bong bóng” và mức cung dư
thừa. Khi các nhà đầu tư nhận thức được những yếu kém kể trên và những dấu hiệu bất ổn khác như
sự sụt giảm giá bất động sản và cổ phiếu cũng như các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, họ đồng
loạt rút vốn ra khỏi nền kinh tế. Hậu quả là cán cân thanh toán trở nên thâm hụt trầm trọng và dự trữ
ngoại hối dần cạn kiệt, báo hiệu về một cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra. (ii) Trong điều kiện tự do
hoá cán cân vốn, một lượng vốn ngắn hạn với tỷ trọng quá lớn (lớn hơn nhiều dự trữ ngoại hối) đã đổ
vào nền kinh tế. Trong điều kiện giám sát các khoản vay nợ kém hiệu quả, một lượng lớn vốn vay
ngắn hạn bằng ngoại tệ đã được cho vay bằng nội tệ để đầu tư dài hạn vào những dự án kém hiệu quả

đã dẫn đến vấn đề “sai lệch kép” trầm trọng. Bảng cân đối tài sản của các công ty cũng như của hệ
thống ngân hàng - tài chính xấu đi một cách trầm trọng khi đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn lớn
của các nhà đầu tư nước ngoài bị rút ra đột ngột; đến lượt nó, tài sản ròng của các ngân hàng bị sụt
giảm, dẫn đến tín dụng càng bị thắt chặt và bảng cân đối tài sản của các ngân hàng càng tồi tệ hơn.
Quá trình tác động vòng xoáy và cộng hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát trong một thời
gian rất ngắn và đẩy các nền kinh tế ngập sâu vào vòng suy thoái. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ châu Á 1997-1998 được coi là ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba.
Phần 2 : Phân tích khủng hoảng ở Việt Nam
1) So sánh bối cảnh các nền kinh tế Đông Á trong thời kỳ khủng hoảng với bối cảnh kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay:
- Cho đến năm 1995, nền kinh tế khu vực Đông Á đã được lợi phần nào nhờ chính sách đồng USD
suy yếu của Mĩ (đồng USD giảm tới 50% so với đồng Yên trong thời kỳ 1990 - 1995). Nhưng tới thời
điểm năm 1995, nhiều nước trong khu vực lại bị động trước việc đồng USD tăng giá đột ngột như là
kết quả của sự thoả thuận trước đó trong nhóm G7 - một nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của khu
vực. Vào năm 1995, nhằm khôi phục lại kinh tế sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục
Dự trữ Liên bang Mĩ (FED) bắt đầu nâng lãi suất để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mĩ trở
thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn
đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất cao và làm tăng giá đồng USD. Từ năm 1995-1997, đồng USD
liên tục tăng giá tới 50% so với đồng Yên. Với việc Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ hơn 30%
vào cuối năm 1994, cùng với chính sách neo giữ tỷ giá vào USD nói trên, đã khiến đồng tiền của các
nước Đông Á tăng giá tương đối. Sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu giảm, tăng trưởng xuất khẩu
giảm nhanh chóng làm suy yếu cán cân vãng lai của các nước này. Sự khô hạn nguồn vốn chảy vào
cùng với sự giảm giá trị bất động sản (do cung vượt xa cầu hữu hiệu), giảm giá trị các tài sản thế
chấp của các ngân hàng, cũng như các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, các nhà đầu tư và cho vay
nước ngoài đồng loạt rút vốn ra khỏi nền kinh tế. Cầu ngoại tệ tăng vọt trên thị trường ngoại hối
trong nước. Những nỗ lực duy trì tỷ giá của Chính phủ càng là cho dự trữ ngoại hối cạn kiệt nhanh
chóng, đồng bản tệ không tránh khỏi bị phá giá nhanh chóng. Tuy nhiên, những yếu kém trong năng


lực cạnh tranh hàng xuất khẩu của các nền kinh tế Đông Á vẫn không thể giải thích sự giảm mạnh

trong tăng trưởng xuất khẩu. Chính sự đình trệ của nhu cầu nhập khẩu nói chung, và nhu cầu các sản
phẩm như chất bán dẫn nói riêng, mà đến lượt nó lại bị quy định bởi mức độ giảm sút trong tăng
trưởng của kinh tế thế giới, đặc biệt là nền kinh tế Nhật Bản, là một tác nhân quan trọng đối với tốc
độ giảm sút trong tăng trưởng xuất khẩu trong các nền kinh tế Đông Á. Ngoài ra, vai trò ngày càng
lớn của Trung Quốc, Ấn Độ trong tổng giá trị xuất khẩu cũng làm gia tăng áp lực cạnh tranh trong
khu vực.
- Cũng giống như các nước châu Á khác, Việt Nam hiện nay được đánh giá là ít bị tổn thương hơn
trước một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán so với cách đây 10 năm. Thứ nhất, thặng dư cán cân
vãng lai, nợ nước ngoài thấp cho phép Việt Nam và nhiều nước trong khu vực bảo vệ mình trước tác
động của bất cứ cuộc đầu cơ nào trong tương lai. Thứ hai, trong vài năm gần đây, do thâm hụt thương
mại khổng lồ, đồng USD đã mất giá so với các đồng ngoại tệ mạnh khác. Cuộc khủng hoảng tín dụng
nhà đất tại Mĩ vào cuối năm 2007 đã khiến nền kinh tế này bước vào giai đoạn suy thoái, đẩy đồng USD
mất giá nhiều hơn nữa. Chỉ tính từ năm 2006 đến nay, đồng USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so
với các đồng ngoại tệ mạnh khác như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh và đồng Nhân dân tệ. Tuy nhiên, tỷ giá
của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (tính đến cuối tháng 2/ 2008 chỉ tăng
0,24% so với năm 2006). Với chính sách gần như neo tỷ giá này, VND cũng giảm trung bình 15% so với
các ngoại tệ mạnh khác. Điều này sẽ có lợi cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Namtrong ngắn hạn. Thứ
ba, mặc dù kinh tế Mĩ đang trong thời kỳ suy thoái, nhưng sức cầu về hàng hoá xuất khẩu từ các nước
Đông Á, trong đó có Việt Nam vẫn tăng lên do kinh tế Nhật Bản đang trong giai đoạn phục hồi. Ngoài
ra, cùng với Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và nhiều quốc gia khác trong khu vực cũng đang hội nhập
sâu rộng và tham gia mạnh mẽ vào dây chuyền cung ứng hàng xuất khẩu của thế giới. Rõ ràng, bối cảnh
kinh tế của Việt Nam giai đoạn hiện nay hoàn toàn khác so với bối cảnh của các nền kinh tế Đông Á
trước cuộc khủng hoảng 1997-1998. Điều này cho phép Việt Nam tránh được rủi ro của một cuộc khủng
hoảng tài chính tương tự trong tương lai gần. Tuy nhiên, dường như vẫn còn đó những nguy cơ tiềm ẩn
mà Việt Nam có thể phải đối mặt trong tương lai.
2) Toàn cảnh kinh tế Việt Nam năm 2008 và dự báo 2009:
Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã trải qua những trạng thái
hoàn toàn trái ngược từ quá nóng sang quá lạnh.
Những tháng đầu năm 2008 do giá nguyên liệu, dầu mỏ và lương thực tăng chóng mặt kèm theo chính
sách nới lỏng tiền tệ và tài khóa một cách quá mức của chính phủ trong những năm trước đây đã tạo là

chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng 17 năm qua lên đến 23%. Đồng thời với đó do
nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả gây ra nhập khẩu tăng vọt đẩy thâm
hụt thương mại lên mức kỉ lục là 17 tỷ USD. Mức thâm hụt lớn này gây sức ép lên VND và khiến VND
có khả năng bị mất giá nghiêm trọng. Trước hoàn cảnh khó khăn đó chính phủ Việt Nam đã thực thi
hàng loạt các biện pháp cấp bách như thắt chặt tiền tệ (lãi suất cơ bản có lúc đã đẩy lên đến mức 14%),
siết chặt đầu tư công và chi tiêu chính phủ bằng việc đình hoãn, hủy bỏ hàng loạt các dự án chưa cấp
bách. Các chính sách này đã tỏ ra hiệu quả khi lạm phát đã hạ nhiệt vào các tháng cuối năm, thâm hụt
thương mại giảm bớt qua đó tỷ giá VND/USD đã trở nên cân bằng và ổ định hơn. Nền kinh tế Việt Nam
đã thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ.
Tuy nhiên chưa kịp hoàn hồn, ngay sau đó Việt Nam lại tiếp tục phải đối mặt với những thử thách cam
go hơn đến từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ những tháng cuối năm 2008. Cuộc
khủng hoảng này đã tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế Việt Nam khi nhu cầu hàng hóa của toàn cầu suy
giảm nghiêm trọng. Điều này dẫn tới sự sụt giảm xuất khẩu cũng như đầu tư của Việt Nam tạo ra nguy
cơ suy thoái kinh tế và đe dọa làm mất cân bằng cán cân thương mại một lần nữa.
Quan sát các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Việt Nam trong năm 2007 và 2008 có thể thấy nền kinh tế Việt
Nam đã yếu đi rõ rệt và dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết.
Bảng1: Các chỉ tiêu kinh tế Việt Nam năm 2007&2008


2007
Tăng trưởng GDP (%)
Tăng trưởng tiêu dùng cá nhân(%)
Tăng trưởng chi tiêu công (%)
Tăng trưởng đầu tư (%)
Tăng trưởng xuất khẩu (%)
Tăng tưởng nhập khẩu (%)
Chỉ số giá tiêu dùng (avg, %)
Tỷ giá hối đoái, VND:USD

2008

8.5
9.6
8.9

23.0

6.2
3.9
8.0

14.0
15.2
10.6
21.3
15.1
12.6 b
23.0
16,096

16,989

Thực trạng Kinh tế Việt Nam năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã phải chịu hai tác động nặng nề, đó
là chính sách tiền tệ và tài khóa được thắt chặt khá đột ngột nhằm hãm đà lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô
của chính phủ và sự suy thoái kinh tế toàn cầu.
Sau 3 năm đạt mức tăng trưởng GDP hết sức ấn tượng ở mức trên 8 % thì năm 2008 và những tháng đầu
năm 2009 mức tăng trưởng đã chậm lại rõ rệt. Năm 2008 tăng trưởng GDP chỉ đạt 6.2 % trong khi 3 tháng
đầu năm 2009 tăng trưởng GDP chỉ đạt 3,1%. Năm 2008 Nông nghiệp chỉ tăng 3,8%, công nghiệp tăng
6,3%, dịch vụ tăng 7,2%. Đây là những mức tăng khiêm tốn nhất trong 10 năm trở lại đây và là dấu hiệu cho
thấy nền kinh tế đang chững lại.
Tiêu dùng toàn xã hội: Trong bối cảnh lạm phát tăng cao những tháng đầu năm, sau đó lại là suy giảm tăng

trưởng kinh tế những tháng cuối năm khiến thu nhập thực tiễn của người tiêu dùng Việt Nam giảm đáng kể,
người tiêu dùng Việt Nam đã phản ứng bằng cách thắt chặt chi tiêu cá nhân. Tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng năm
2008 chỉ là 3,9 % mức tăng rất thấp nếu so với mức 9,6% của năm 2007 và tỷ lệ này tiếp tục suy giảm trong
những tháng đầu năm 2009.
Chi tiêu chính phủ: Chi tiêu chính phủ tăng khoảng 8% trong năm 2008 giảm 1%so với mức tăng năm 2007.
Sự suy giảm này gây bởi từ chính sách tài khóa thắt chặt quyết liệt của chính phủ nhằm hạ nhiệt lạm phát.
Tuy nhiên một phần lớn phần ngân sách tiết kiệm được này lại dùng để trả lương cho các công chức chính
phủ do đó thâm hụt ngân sách năm 2008 vẫn ở mức cao chiếm 5% GDP. Mức thâm hụt ngân sách cao cộng
với nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu suy giảm khiến chính phủ khó lòng gia tăng chi tiêu trong năm 2009.
Điều này khiến chính sách kích cầu và nới lỏng tiền tệ của chính phủ trở nên kém hiệu quả.
Đầu tư toàn xã hội: đầu tư trong năm 2008 đã tăng chóng mặt lên đến mức tăng 11.2%. Mặc dù có những
mối quan ngại về nền kinh tế đang xấu đi nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng kí vào Việt Nam vẫn tăng
mạnh. Luồng vốn FDI được duyệt lên đến 64 tỷ USD, gấp 3 lần năm 2007. Tuy nhiên trên thực tế vốn giải
ngân thực sự ít hơn nhiều chỉ khoảng 11 tỷ USD. Trong năm 2009 nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã có sự suy
giảm rõ rệt do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thống kê 3 tháng đầu năm 2009 Trong ba
tháng đầu 2009 Việt Nam chỉ thu được 2,1 tỷ USD đầu tư nước ngoài.Số tiền cam kết cho các dự án đã khởi
động dự tính sẽ đạt 6 tỷ USD trong ba tháng đầu năm, thấp hơn so với năm ngoái tới 40%. Trong khi đó đầu
tư công khó có khả năng tăng trở lại do thâm hụt ngân sách của Việt Nam đang ở mức rất cao. Các doanh
nghiệp đang gặp khó khăn cả về vốn lẫn đầu ra sản phẩm nên họ cũng không mặn mà với việc mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh. Điều này khiến cho tổng mức đầu tư toàn xã hội sẽ suy giảm mạnh trong
năm 2009.
Xuất khẩu: Từ năm 2001 Việt Nam đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế hướng tới xuất khẩu và chiến
lược này thực sự đã gặt hái được một số thành công. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đã trở nên phụ thuộc
quá nhiều vào xuất khẩu khi xuất khẩu chiểm đến 70 % GDP. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng toàn câu hiện nay
đã ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam do các thị trường tiêu thụ sản phẩm chính bị thu hẹp.
Thống kê cho thấy xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2009 khả ảm đạm. Mặc dù xuất khẩu của VN trong tháng 3
giảm 2,8% so với cùng kỳ năm 2008, chỉ có 9/35 mặt hàng xuất khẩu được thống kê tăng, còn lại là giữ
nguyên và giảm nhưng nhờ lượng tái xuất vàng, đá quý tăng vọt lên tới trên 2 tỉ USD trong ba tháng đầu năm,
giúp xuất khẩu cả quý 1 tăng 2,4%. Tuy nhiên, ba tháng kim ngạch xuất khẩu mới đạt khoảng 19% kế hoạch
năm. Xuất khẩu ba tháng qua của hơn mười mặt hàng chủ lực như điện tử và linh kiện máy tính, thủy sản, cà



phê, hạt điều, dầu thô... giảm 10-20%, có mặt hàng giảm gần 50% như cao su, dây cáp điện... Điều này chứng
minh các doanh nghiệp (DN) VN đang chịu ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng kinh tế thế giới. Mặc dù 3
tháng đầu năm Việt Nam xuất siêu nhưng chủ yếu là nhờ tái xuất vàng và đây không phải là điều đáng mừng
bởi không ảnh hưởng gì tới sản xuất.
Tóm lại năm 2009 nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp phải những thử thách hết sức khốc liệt và nguy cơ suy giảm
tăng trưởng vẫn đang hiện hữu. Tuy nhiên với những chính sách điều hành kinh tế linh hoạt của Chính phủ và
nỗ lực của toàn xã hội, kinh tế Việt Nam sẽ đứng vững tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững trong những
năm tiếp theo.
Phần 3 : Những bài học đối với Việt Nam từ cuộc khủng hoảng
Với Việt Nam, một nước đi theo con đường kinh tế thị trường chưa lâu, cuộc khủng hoảng này có thể làm
xói mòn niềm tin vào thị trường, nhất là khi vai trò của nhà nước đã được nhấn mạnh trở lại ngay cả ở Mỹ và các
nền kinh tế phát triển khác. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm lớn nếu Việt Nam không tiếp tục hoặc chệnh hướng khỏi con
đường cải cách đang đi. Việt Nam nên coi cuộc khủng hoảng này là một cơ hội tái cơ cấu lại nền kinh tế và nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình. Cùng với các trào lưu biến đổi của thế giới đang diễn ra, Việt Nam cần lựa
chọn cho mình một chiến lược phát triển khôn ngoan và bền vững
Chiến lược này cần tiếp tục phát triển các mối quan hệ kinh tế đa phương và song phương, đồng thời đẩy
mạnh đầu tư vào các nguồn lực trong nước như cơ sở hạ tầng, nguồn vốn con người, vốn xã hội. vai trò của nhà
nước sẽ phải đẩy mạnh ở 2 mặt: chủ động hơn trong các hoạt động phối hợp quốc tế và nâng cao năng lực quản lý
và giám sát hệ thống tài chính ngân hàng. Các nỗ lực xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam cần được tiếp tục đẩy
mạnh, song song với việc gia tăng các khoản trợ cấp và bảo hiểm xã hội. Điều này có thể sẽ làm tăng kích cỡ và
vai trò của nhà nước trong nền kinh tế
1) Phối hợp hài hoà bàn tay Nhà nước pháp quyền cho bàn tay thị trường:
Những cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính-tiền tệ khu vực và thế giới đã, đang và sẽ còn chứng tỏ, khi
“bàn tay hữu hình” của Nhà nước hoặc nắm quá chặt, hoặc bị buông lỏng quá mức, và cả khi “bàn tay vô
hình” của thị trường bị lạm dụng và đề cao thái quá, thì đều có nguy cơ dẫn đến những cực đoan, có thể trực
tiếp và gián tiếp làm tích tụ ngày càng đậm những xung lực gây ra những làn “sóng thần” khủng hoảng, đồng
nghĩa với quá trình gây hao phí và tổn thất nặng nề cho đời sống kinh tế-xã hội và môi trường, cho mỗi quốc
gia và toàn nhân loại.

Để các quy luật kinh tế khách quan vận động có lợi nhất cho xã hội, các khiếm khuyết của thị trường tự do
phải được sửa chữa bằng sự can thiệp chủ động và tích cực của Nhà nước kiểu mới, mang tính pháp quyền và
đại diện cao hơn, sử dụng các công cụ hiệu quả hơn cho các lợi ích chung của quốc gia và nhân loại. Trong
mô hình kết hợp đó, sẽ có yêu cầu cao hơn về tăng cường vai trò của cạnh trạnh thị trường lành mạnh với luật
pháp, chế tài, điều tiết, kiểm soát, giám sát nhà nước về hiệu năng và trách nhiệm các thể chế thị trường, thiết
lập hệ thống thông tin công khai, minh bạch, phát triển các công cụ dự báo, cảnh báo và trừng phạt các sai
trái và gian lận…, sao cho vừa tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trường, vừa không làm xấu đi sự ổn định
kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích trong quá trình phát triển, nhất là không lạm dụng sức chịu đựng
và đổ gánh nặng khủng hoảng lên người dân, người tiêu dùng.
Đặc biệt, cần sớm khắc phục những bất cập về nhận thức và lạm dụng trong thực tế về quyền lực chủ quan
của nhà nước, về sức mạnh thị trường khách quan, về tính ôm đồm đa mục tiêu của chính sách, cũng như của
nếp tư duy nhiệm kỳ và lợi ích cục bộ, địa phương, của sự “vận động hành lang” và cơ chế quan liêu, hình
thức, “ làm láo, báo cáo hay”. Đặc biệt, cần nâng cao chất lượng xây dựng các quy hoạch, dự án; thực hiện
nghiêm túc các quy định về đấu thầu thực chất, chống thông thầu, ép thầu và các gian lận thầu khác gây tổn
hại lợi ích chung và dài hạn; tăng cường kiểm toán độc lập, xây dựng và áp dụng rộng rãi hệ thống chỉ tiêu
hiệu quả, cũng như chế độ đánh giá hệ số tín nhiệm tập thể và cá nhân.
Về dài hạn, cần chuyển nhanh từ mô hình “nhà nước – nhà đầu tư lớn nhất” và phát triển chủ yếu theo bề
rộng hiện nay, sang mô hình “nhà nước – nhà quản lý công” và phát triển theo bề sâu, đi đôi với việc chuyển


dịch nguồn động lực chính trong đầu tư phát triển kinh tế từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế
ngoài nhà nước; cần sớm thông qua và thực hiện nghiêm túc Luật đầu tư công và dũng cảm cắt giảm các chi
tiêu công không vì mục tiêu bảo đảm và nâng cao hiệu quả chung, duy trì sự ổn định xã hội, cũng như cần ngăn
chặn kịp thời “sự liên minh ma quỷ” giữa các doanh nghiệp-ngân hàng và quan chức có liên quan trong cho vay và
đầu tư mang nặng tính đầu cơ, trục lợi cá nhân hoặc phe nhóm, lũng đoạn thị trường và lãng phí các nguồn lực quốc
gia.
Hơn nữa, cần sớm thiết lập cơ chế thị trường cạnh tranh đầy đủ, lành trong việc cung cấp các sản phẩm
và nguyên , nhiên liệu đầu vào thiết yếu của nền kinh tế, rồi mới bãi bỏ sự kiểm soát hành chính về giá cả.
Đồng thời, cần nâng cao năng lực và hiệu quả trên thực tế của chính phủ trong công tác giám sát, kiểm soát
và xử lý sự độc quyền và các vi phạm về giá từ phía các doanh nghiệp và các bên có liên quan; ngăn chặn

hiện tượng lạm dụng trục lợi cá nhân, thậm chí biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp,
phường hội và phe nhóm.
Về dài hạn, yêu cầu về tổ chức lại nền kinh tế và các doanh nghiệp trong nước sẽ cấp thiết hơn nhằm tăng
cường sự hợp tác, gắn kết, sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, cũng như hiệu
quả đầu tư kinh tế-xã hội nói chung.
2) Coi trọng tính đồng bộ và chú ý đến tính 2 mặt của các giải pháp chính sách
Bản lĩnh và Trí tuệ Việt Nam còn thể hiện trong sự dám đối diện, chấp nhận và biết cách vượt qua thử
thách trên cơ sở tuân thủ các yêu cầu, lẫn quy trình của kinh tế thị trường, coi trọng tính đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm của các mục tiêu, loại công cụ chính sách và sự phối hợp ăn khớp cần có giữa các cơ quan
chức năng hữu quan, nâng cao hiệu quả đầu tư kinh tế-xã hội.
Các giải pháp và công cụ chính sách cần có trọng tâm, trọng điểm, được cụ thể hoá thành cơ chế tổ chức
thực hiện trong thực tiễn; đồng thời, cần có sự đồng bộ, nhất quán giữa việc ban hành, triển khai, giám sát,
kiểm tra và chế tài hiệu quả các vi phạm chính sách trên thực tế; giảm thiểu các lạm dụng công cụ quản lý
hành chính, mệnh lệnh và hiện tượng “vận động hành lang”, “chạy chính sách” vì lợi ích nhóm, cục bộ,
ngành độc quyền. Các biến động chính sách phải tường minh và có thể dự báo được trong xu hướng ổn định,
nhất quán, phù hợp các nguyên tắc kinh tế thị trường và yêu cầu cam kết hội nhập, các thông lệ thế giới, cũng như
các tín hiệu thị trường khách quan.
Đặc biệt, cần nâng cao chất lượng công tác và dịch vụ thông tin, dự báo, phản biện và chủ động các
phương án và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng; phân biệt rạch ròi giữa yêu cầu dự báo khách
quan với mục tiêu chính sách và ý chí chủ quan; coi trọng các phản biện xã hội và các đánh giá tác động
chính sách (định kỳ hoặc đột xuất) trước và sau khi ban hành do các tổ chức chuyên nghiệp và độc lập thực
hiện theo đặt hàng của cấp có thẩm quyền khách quan; thể chế hoá các phát ngôn và cung cấp thông tin chính
thức có chất lượng và trách nhiệm pháp lý cao; Phát hiện và trừng phạt kịp thời, nghiêm khắc các cá nhân và
tổ chức tung tin đồn thất thiệt hoặc thông tin thiếu trách nhiệm nhằm mục tiêu phá hoại chính sách, đầu cơ và
cạnh tranh không lành mạnh; Tăng cường giáo dục dân trí, nâng cao nhận thức về kinh tế thị trường và hiểu
biết pháp luật, tăng khả năng tự nhận thức và cảnh giác, tránh hành động kiểu bầy đàn, vô tình hoặc cố ý tiếp
tay và trở thành nạn nhân của tin đồn.
Ngoài ra, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu thống kê và dữ liệu thông tin quốc gia và chuyên
ngành hiện đại, có chất lượng cao, đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng về quản lý nhà nước các cấp, kinh doanh và
nghiên cứu khoa học; khắc phục tình trạng phân tán, chia cắt, rời rạc, đóng băng và thiếu chuẩn hoá thống



nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý thông tin, gây khó khăn và đắt đỏ cho các đơn vị và cá nhân có nhu
cầu tiếp cận, khai thác và sử dụng các thông tin này, đồng thời làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế và gia
tăng sự lãnh phí các nguồn lực xã hội.
3) Trọng dụng người tài và đấu tranh không khoan nhượng với nạn tham nhũng :
Tham nhũng làm thất thu và thất thoát, giảm hiệu quả các nguồn lực xã hội, những luật định quản lý
kinh tế – xã hội, làm nản lòng nhà đầu tư trong và ngoài nước, gây cản trở cho sự vận hành thông suốt
của nền kinh tế với tư cách một chỉnh thể tự nhiên, là cội nguồn mọi bất ổn, trở ngại và thách thức lớn
nhất, gây tổn thất to lớn, khó lường cho lợi ích, uy tín quốc gia, làm gia tăng tình trạng rối loạn kỷ cương
xã hội, xu hướng ly tâm và mất đồng thuận, kẻ thù nguy hiểm nhất từ bên trong đối với công cuộc đổi
mới và phát triển ở Việt Nam. Tham nhũng, nhất là tham nhũng trong công tác cán bộ, làm tăng các xung
lực gây ra khủng hoảng và lạm phát, đồng thời làm trầm trọng thêm những hậu quả của chúng, làm giảm
kết quả những chính sách chống khủng hoảng và lạm phát của Chính phủ.
Nếu cuộc đấu tranh này bị xem nhẹ thì không những không thể ngăn chặn và giải quyết hiệu quả các cuộc
khủng hoảng và lạm phát tương lai, mà còn nẩy sinh nguy cơ đưa cuộc cải cách kinh tế hiện nay thoát khỏi
sức mạnh của luật pháp, từ bỏ lợi ích cộng đồng, để thiên về lợi ich phe phái. Vì thế, để củng cố Bản lĩnh và
Trí tuệ Việt Nam trong tương lai không thể không bao hàm nội dung chống tham nhũng triệt để. Nhằm mục
đích đó, cần khắc phục sự không minh bạch giữa hai hệ thống quyền lực Đảng và Nhà nước. Dân chủ hoá đời
sống kinh tế – xã hội phải được tăng cường, đi đôi với xây dựng hệ thống luật pháp rõ ràng, đồng bộ và nhất
quán, hiện đại, theo kịp trình độ phát triển luật pháp và thông lệ quốc tế. Các thủ tục hành chính phải đơn
giản hoá, công khai, công bằng, thống nhất, nhanh chóng và trực tiếp. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn
trong hệ thống cơ quan hành chính phải gắn liền với tăng cường trách nhiệm trực tiếp và cuối cùng của
chúng. Đảm bảo mọi tài sản xã hội, mọi luật định và mọi công việc Nhà nước đều có người chịu trách nhiệm
cá nhân và trách nhiệm hình sự cụ thể, rõ ràng; Phát triển hệ thống tư pháp và thực hiện rộng rãi tự do báo trí,
ngôn luận.
Cơ chế đào tạo, tập hợp và trọng dụng nhân tài phải tạo sự di chuyển chất xám tự do và nâng cao tính chuyên
nghiệp trong thị trường lao động theo “quy luật tối ưu” của tự nhiên. Mọi lao động trong xã hội đều có quyền
và nhận được sự giáo dục tốt, cần thiết và sống được bằng lao động chuyên môn của mình; thoả mãn các điều
kiện nuôi dưỡng tốt nhất cho nhân tài (lương, điều kiện học tập, lao động, khả năng tiếp cận các thông tin và

công nghệ mới, sự tôn trọng về tinh thần và thăng tiến cá nhân….). Các quan chức hành chính, các nhà khoa
học và các doanh nhân, nhà quản trị doanh nghiệp thực thụ cần được ngồi đúng vị trí của mình; Đồng thời,
phải coi trọng việc phát hiện, lựa chọn và sử dụng đúng những nhân tài đầu đàn, tái lựa chọn liên tục trên cơ
sở lấy hiệu quả công việc, chứ không phải bằng cấp, học vị, chức tước.
Đặc biệt, cần nhấn mạnh rằng, Trí tuệ và Bản lĩnh Việt Nam sẽ được hội tụ, biểu hiện tập trung và phát
huy tốt nhất khi và chỉ khi tạo được sự đồng thuận và dân chủ hóa xã hội cao trên cơ sở xây dựng, củng cố và
phổ biến rộng rãi nhận thức về các giá trị xã hội chuẩn chung, các lợi ích quốc gia trở thành tối thượng, đội
ngũ trí thức tinh hoa được tập hợp và trọng dụng, phản biện và giám sát xã hội được tăng cường, đồng thời
các nhà lãnh đạo biết nêu gương, với mục tiêu cao nhất và xuyên suốt của mọi chính sách là bảo đảm xây
dựng một đất nước Việt Nam độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, giàu mạnh, xã hội công bằng , dân chủ và văn minh.
Việt Nam gặp phải thách thức rất lớn nhưng cơ hội cũng đang mở ra. Vấn đề là chúng ta có nắm bắt được cơ
hội hay không. Cần nhận định rõ rằng, Trung Quốc là một siêu cường đang nổi lên, một “nhà máy sản xuất” của thế


giới, một thị trường đang tăng trưởng nhanh (vừa vượt cả Mỹ để trở thành thị trường tiêu thụ ô tô lớn nhất thế giới);
và là một quốc gia có dự trữ vốn gần như lớn nhất thế giới. Một chính sách nhằm làm co hẹp dần khoảng cách về
năng suất của nền kinh tế Việt Nam so với Trung Quốc sẽ biến Việt Nam thành nơi “hút đầu tư nước ngoài cực
mạnh, ngay khi nền kinh tế thế giới phục hồi trở lại. Đó là cơ hội phát triển cho Việt Nam, dựa ngay trên sức mạnh
đang lên của Trung Quốc. Điều này đòi hỏi phải có một sự thay đổi về thể chế quản lý một cách có trật tự và vững
chắc. Một thể chế quản lý nhấn mạnh tới trách nhiệm, hiệu quả của từng tế bào của bộ máy quản lý Nhà nước, của
từng tổ chức tài chính và công nghiệp đối với lợi ích của toàn xã hội và với yêu cầu phát triển bền vững. Điều đó đòi
hỏi một sự minh bạch về thông tin quản lý, về hiệu quả kinh tế - xã hội của từng đơn vị hay tổ chức trong từng địa
phương và trong toàn nền kinh tế. Đây cũng chính là bài học quý báu nhất về tiến trình chuyển đổi tổ chức và quản lý
tại Trung Quốc trong cải cách. Cũng như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, hay Trung Quốc, Ấn Độ trước đây, sự
thách thức và cơ hội đang đặt ra với Việt Nam hôm nay. Họ cũng đã bắt đầu từ một xã hội như chính chúng ta. Và
chúng ta cũng hoàn toàn có thể vươn lên như họ, hòa nhập vào một Châu Á năng động và một Thế giới phát triển
bền vững hơn.
Việt Nam cần làm gì để có thể đứng vững trong một hoàn cảnh như vậy?
Chúng ta cần phải đa dạng hóa và đa phương hóa thị trường xuất nhập khẩu của mình. Nghĩa là phải phân
tán thị trường, bên cạnh những thị trường lớn như thị trường Mỹ, Nhật, EU cần tạo thêm nhiều thị trường

khác như thị trường các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh, … Có thể các thị trường nhỏ tính hiệu quả
kinh tế không cao như các thị trường lớn, nhưng khi có sự biến động của các thị trường lớn thì sự ảnh hưởng
của nó đối với nền kinh tế không lớn.
Nhưng trước hết chúng ta cần phải khai thác thị trường nội địa ở trên tất cả các hàng hóa – dịch vụ. Vì đó
là thị trường căn bản nhất, an toàn nhất. Chúng ta không thể cứ chăm chăm vào thị trường quốc tế, và khi thị
trường quốc tế không dung nạp nữa mới tìm đến thị trường nội địa.
Bất cứ điều gì đều có cái giá của nó, và giá cả luôn luôn quay quanh giá trị. Lợi tức càng cao thì rủi ro
cũng sẽ lớn. Do đó không thể vì cái lợi trước mắt mà bỏ cái lợi căn bản, lâu dài.
Kể từ khi nền kinh tế mở cửa thì tính hướng ngoại của sản xuất đã tạo cho nền kinh tế Việt Nam những
điều kiện để có một bước phát triển dài. Tuy nhiên do trong quá trình phát triển đó phần lớn nguồn lực đều
được dành cho sản xuất xuất khẩu, hoặc sản xuất những hàng hóa cao cấp dành cho người nước ngoài (ví dụ
như khách sạn, nhà nghỉ cao cấp, sân golf bải tăm, …) còn thị trường những người lao động, thị trường nông
thôn, … gần như không mấy nhà sản xuất quan tâm khai thác do tính hiệu quả kinh tế không cao như thị
trường quốc tế. Cho đến khi thị trường quốc tế suy sụp thì mới có lời kêu gọi các nhà sản xuất trở về thị
trường trong nước để tự cứu nguy.
Cũng cần làm rõ, nếu những nhà sản xuất chỉ coi thị trường nội địa chỉ là thị trường “tạm thời”, thị
trường cứu nguy, thì mục tiêu đầu tư của nhà sản xuất – kinh doanh cũng sẽ lệch lạc không đúng tầm.
Một điều may mắn đối với Việt Nam là một lượng lớn giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là hàng
nông nghiệp, nên mức độ ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu sẽ không phải quá lớn và quá dài như hàng
hóa công nghiệp.
Có thể nói thêm là những thị trường được những nhà đầu cơ Việt Nam quan tâm nhất đó là thị trường
vàng, ngoại tệ, thị trường địa ốc và sau đó là thị trường chứng khoán. Do đó cần phải có một sự chấn chỉnh và
giám sát chặt chẻ những thị trường này và có giải pháp quản lý, điều tiết sao cho những thị trường này không


mang tính ảo cao.Chúng ta có thể hình dung ra rằng khi một phần lớn nguồn vốn tiền tệ của chúng ta, kể cả
tín dụng được đem đầu tư vào các thị trường phi sản xuất nói trên, thì rõ ràng đầu tư vào sản xuất và tiêu
dùng trong nước sẽ bị hạ thấp là điều chắc chắn.
Trừ một số nước làm dịch vụ tài chính – ngân hàng quốc tế như Singapore, HồngKông, … thu nhập của
họ dựa trên việc cung cấp dịch vụ cho các khách hàng quốc tế và tiêu dùng của nhân dân được thỏa mản bằng

hàng hóa nhập khẩu thì việc phát triển các lãnh vực dịch vụ phi sản xuất mới mang lại thu nhập thực cho
quốc gia đó. Còn những nước mà khu vực phi sản xuất chỉ thực hiện trong phạm vi của một quốc gia thì điều
đó sẽ làm cho khối tiền trong quốc gia đó tăng lên nhanh chóng, như hàng hóa dịch vụ phục vụ cuộc sống con
người thì tăng lên rất chậm và không chóng thì chầy sẽ đi đến khủng hoảng.
Vì vậy có người cho rằng trong khủng hoảng và suy thoái hiện nay Việt Nam có thể tìm ra cơ hội để phát
triển kinh tế. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó là ảo tưởng. Chúng tôi cho rằng qua cuộc khủng hoảng và suy
thoái này cho Việt Nam rút ra những bài học đích đáng để điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế hợp lý
hơn.
Cần có những chính sách phát triển kinh tế không cần nhanh, nhưng cơ bản và bền vững. Trong đó cần
phải quan tâm đến phát triển kinh tế hạ tầng, nhất là giao thông, đặc biệt là giao thông của các đô thị mới,
giao thông nông thôn.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa cần phải quan tâm sâu sắc đến việc công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nhận thức của công dân và các nhà lãnh đạo, công nghiệp hóa - hiện đại hóa các
quan hệ xã hội và công nghiệp hóa – hiện đại hóa phong cách làm việc, quản lý của mọi tổ chức và công dân.
Nếu không làm được những điều trên thì nhất định các mâu thuẩn sẽ xảy ra. Trước hết là mâu thuẩn giữa
ý thức xã hội và tồn tại xã hội, mâu thuẩn giữa cái riêng và cái chung, mâu thuẩn giữa cơ sở hạ tầng và kiến
thức thượng tầng, … Những mâu thuẩn này sẽ càng ngày càng tăng lên và đến một lúc nào đó nó sẽ tự điều
chỉnh để lập lại một trạng thái cân bằng mới, mà chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt cho những cuộc điều chỉnh
đó.
Khủng hoảng và suy thoái hiện nay thực chất là sự điều chỉnh sự mâu thuẩn giữa sản xuất và tiêu dùng,
điều chỉnh sự mâu thuẩn giữa quyền lợi của các giai cấp, mâu thuẩn giữa người nghèo và người giàu, v.v…
Do đó vấn đề đặc ra cho chúng ta chính là nhận thức được những mâu thuẩn của nền kinh tế và xã hội
hiện nay để có những bước điều chỉnh tự giác, tránh những cú điều chỉnh tự phát mà hậu quả của nó sẽ nằm
ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.

Kết luận
Cuộc khủng hoảng đã đi qua nhưng vẫn còn đó rất nhiều công việc để chúng ta phải nhìn nhận, sự yếu kém
trong khâu quản lý và quá tin tưởng vào thị trường đã làm phát sinh nên nhiều quá nhiều điểm yếu và bất ổn
trong hệ thống tài chính của Mỹ nói riêng và thế giới nói chung. Xu thế toàn cầu hóa cũng là con dao hai lưỡi
đối với nền kinh tế thế giới, cơ hội tạo ra cũng nhiều và thách thức cũng khá là nhiều đó là vấn đề cần được

nhiều quốc gia xem xét để có một chiến lược phát triển hợp lý. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chỉ ra
quá nhiều điểm yếu kém cần phải được cải tổ và khắc phục, sẽ không dẽ một sớm một chiều để làm được
điều đó bởi ngay sau lưng nó đây là một khoảng nợ khổng lồ mà nhiều nước châu Âu đang gánh phải, tình
trạng thất nghiệp lan rộng, sự thiếu lòng tin của các nhà đầu tư vào tình hình tài chính trong tương lai… sẽ là


vết thương rất khó lành sau cuộc khủng hoảng tồi tệ này, phải chăng thế giới sắp bước vào một cuộc khủng
hoảng tài chính mới? Đó là một câu hỏi mà không ít người đang đề cập tới hiện nay và đang là bài toán hóc
búa đối với nhiều nhà kinh tế, nhiều quốc gia hiện nay. Tuy nhiên hi vọng với những bài học những kinh
nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu này mỗi nhà quản lý, mỗi quốc gia sẽ đúc kết được
những kinh nghiệm quý báu để từng bước phục dậy nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và xa hơn là
tái cơ cấu, ổn định lại hệ thống tài chính quốc tế để làm tiền đề cho sự phát triển vững mạnh của nền kinh tế
thế giới trong bối cảnh hội nhập sâu rộng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
2.
3.
4.
5.

Saga.vn
Tailieu.vn
Tuoitre.vn
Vneconomy.vn
Vnexpress.net



×