Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.19 KB, 12 trang )

Mục lục

Trang

ĐẶT VẤN ĐỀ

1

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ TRONG
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1

1. Khái niệm giám sát

1

2. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa

1

3. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà
nước

2

II. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ


NƯỚC

2

1. Hoạt động giám sát của Quốc hội

2

2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân

4

II. VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG
VIỆC BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC

5

1. Vai trò chung đối với việc bảo đảm pháp chế

5

2. Vai trò giám sát của Quốc hội trong việc bảo đảm pháp chế

6

3. Vai trò giám sát của HĐND trong việc bảo đảm pháp chế

7


IV. NHẬN XÉT HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN QUYỀN
LỰC NHÀ NƯỚC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC BẢO
ĐẢM PHÁP CHẾ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

8

KẾT THÚC VẤN ĐỀ

9

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

10

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

11


ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết hoạt động giám sát được coi là chức năng quan trọng
của Quốc hội và HĐND. Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND có vai trò rất
lớn đối với các cơ quan khác, trong đó có cơ quan hành chính nhà nước. Nghiên cứu
về hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đặc biệt chú trọng đến vai trò
hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước với việc đảm bảo pháp chế là
việc làm có ý nghĩa rất quan trọng đáp ứng với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay. Để hiểu rõ hơn
về vấn đề này sau đây em xin chọn đề tài: “Phân tích vai trò hoạt động giám sát của
cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lý hành
chính Nhà nước”.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận về giám sát bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính
nhà nước
1. Khái niệm giám sát
Giám sát tức là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào
đó đúng hay sai với những điều đã quy định. Giám sát luôn gắn liền với một chủ thể
nhất định, với một đối tượng cụ thể (Giám sát ai? Giám sát cái gì?). Giám sát thể
hiện mối quan hệ giữa chủ thể tiến hành hoạt động giám sát và đối tượng chịu giám
sát. Chính vì vậy, giám sát là hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất
định – là một nội dung của hoạt động quản lí nhà nước và cũng là một hình thức
kiềm chế đối trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện nay.
2. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội,
trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân, nhân viên nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện
hiến pháp và pháp luật một cách nghiêm chỉnh triệt để chính xác. Mọi hoạt động
xâm phạm lợi ích của tập thể của nhân dân đều bị xử phạt theo pháp luật.
Nội dung của pháp chế rất phong phú, trong đó nội dung cơ bản nhất là sự triệt
để tôn trọng pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Chính
từ nội dung này mà pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của quản lí
hành chính nhà nước. Nếu thiếu nguyên tắc này hoạt động quản lí hành chính nhà
2


nước sẽ không có cơ sở pháp lí bền vững, thiếu tính đồng bộ. Như vậy muốn xây
dựng và củng cố pháp chế phải tiến hành từ khâu xây dựng pháp luật. Nói đến pháp
chế trong quản lí hành chính nhà nước là nhấn mạnh đến trật tự pháp luật nhằm bảo
vệ và phát triển quyền lợi ích hợp pháp của công dân, củng cố và duy trì địa vị pháp
lí của hành chính của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội.
3. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có nghĩa là bằng những
cơ chế và hoạt động pháp lí nhằm làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả
trong thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước mà trước hết là hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý chí tự
lực, tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục thực sự dễ hiểu, dễ
làm và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự nhất định. Để
bảo đảm pháp chế thì hoạt động giám sát là không thể thiếu. Hiện nay, bộ máy nhà
nước bao gồm nhiều cấp và nhiều cơ quan, được tổ chức và hoạt động trong các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội nên muốn bảo đảm cho chúng có trình tự thành
lập chặt chẽ, cơ cấu tổ chức hợp lý và hoạt động có hiệu quả thì việc tổ chức và hoạt
động của chúng phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật. Chính vì vậy,
nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước càng được đề cao
hơn.
II.

Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
Theo khoản 2 Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định: “… Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức…”. Đề thực hiện quyền lực nhà nước, nhân
dân phải thông qua các cơ quan đại biểu của mình là Quốc hội, HĐND. Thông qua
hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý hành chính, nhân
dân thực hiện quyền lực của mình đối với hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước
để đảm bảo các hoạt động đó phục vụ lợi ích, ý chí, nguyện vọng của mình.
1. Hoạt động giám sát của Quốc hội
Hoạt động giám sát của Quốc hội vừa là chức năng vừa là nhiệm vụ và quyền
hạn của Quốc hội. Quyền hạn đó đã được khẳng định cụ thể tại Điều 69 Hiến pháp
năm 2013 và khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội: “Quốc hội…thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước”. Phạm vi và nội dung

3



giám sát của Quốc hội bao gồm nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau như kinh
tế - ngân sách, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh và thi hành pháp luật.
Nội dung cơ bản của quyền giám sát của Quốc hội là giám sát văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát trực tiếp của Quốc hội
ban hành cũng như tính hợp hiến, hợp pháp đối với hoạt động tổ chức và thực hiện
pháp luật trong thực tiễn của các cơ quan nhà nước đó. Quốc hội thực hiện quyền
giám sát thông qua việc xem xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, UBTVQH,
Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao; thông qua hoạt động của các Ủy ban,
hội đồng của Quốc hội, và hoạt động của bản thân đại biểu Quốc hội, đặc biệt là
hoạt động chất vấn tại các kỳ họp của Quốc hội.
Thứ nhất, tại kỳ họp cuối năm, Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác
hàng năm của UBTVQH, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao; tại kỳ họp
giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến đại biểu Quốc hội; khi cần thiết,
Quốc hội có thể xem xét, thảo luận. Tại kỳ họp cuối nhiệm kỳ, Quốc hội xem xét,
thảo luận báo cáo công tác cả nhiệm kỳ của Quốc hội, Chủ tịch nước, UBTVQH,
Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao. Quốc
hội có thể yêu cầu UBTVQH, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao báo cáo
về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết. Thông qua hoạt động này, Quốc hội
nhận được những thông tin cần thiết về tình hình hoạt động của các cơ quan nhà
nước cũng như các ngành trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Thứ hai, Quyền giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua, hoạt động
của các ủy ban, hội đồng, đại biểu của QH.Đối với vấn đề giám sát, quyền của
UBTVQH được quy định từ Điều 11 đến Điều 13 Luật tổ chức Quốc hội, quyền của
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội ghi nhận từ Điều 23 đền Điều 29 Luật
tổ chức Quốc hội. Quyền giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua hoạt động
của các đại biểu Quốc hội chủ yếu thông qua hoạt động chất vấn được quy định tại
Điều 39, 42, 44, 45 Luật tổ chức Quốc hội.Các đại biểu Quốc hội thực hiện quyền
giám sát của Quốc hội thông qua hoạt động chất vấn những người đứng đầu các cơ

quan nhà nước trung ương. Những chủ thể này có thể phải trả lời trong các kỳ họp
của Quốc hội hoặc sau kỳ họp của Quốc hội (Khoản 2 điều 80 Hiến pháp 2013). Các
đại biểu còn có quyền và trách nhiệm xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân và hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân thực hiện các
quyền đó (Điều 79 Hiến pháp 2013, Điều 44 Luật tổ chức Quốc hội). Ngoài ra, hoạt
động của các tổ đại biểu, đại biểu Quốc hội ở địa phương và cơ sở cũng là một hình
thức giám sát của Quốc hội. Bên cạnh đó, Quốc hội xem xét văn bản quy phạm pháp
4


luật của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TAND tối
cao, VKSND tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội
từ đó quyết định việc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất.
2. Hoạt động giám sát của HĐND
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện quyền giám sát
đối với hoạt động của UBND, các cơ quan chuyên môn của UBND cũng như các
đơn vị trực thuộc. Căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và Điều 1 Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 và nội dung hoạt động giám sát của HĐND cụ thể như
sau: “Giám sát của HĐND là quyền của HĐND thực hiện theo dõi, xem xét và đánh
giá hoạt động của thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp; các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công
dân ở địa phương trong việc thực hiện các nghị quyết của HĐND và việc tuân theo
Hiến pháp và luật”.Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hoạt động giám sát
của HĐND được bảo đảm thực hiện qua các hoạt động:


Giám sát của HĐND tại các kỳ họp.

- Xem xét các báo cáo công tác của thường trực HĐND, UBND, TAND,
VKSND cùng cấp.

- Xem xét việc trả lời chất vấn của chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND, các thành
viên khác của UBND, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, viện
trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của
HĐND cấp dưới trực tiếp khi phát hiện dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh và nghị quyết của UBTVQH, văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp.
- Nghe báo cáo và xem xét ý kiến đóng góp nguyện vọng của cử tri địa phương
về hoạt động của HĐND và những vấn đề về tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội và
những vấn đề bức xúc khác ở địa phương thông qua việc tiếp xúc cử tri.
- Xem xét đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân và việc giải quyết đơn thư
khiếu nại tố cáo của công dân của cơ quan chức năng.
- Thành lập đoàn giám sát khi thấy cần thiết.
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do HĐND bầu ra.


Giám sát của thường trực HĐND và các ban của HĐND.

5


Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của
pháp luật thì thường trực HĐND và các ban của HĐND thực hiện các hoạt động
giám sát trong hai lĩnh vực:
- Giám sát các văn bản quy phạm pháp luật và giám sát hoạt động của các đối
tượng bị giám sát bằng cách: theo dõi, xem xét các báo cáo và tổ chức thẩm tra các
báo cáo đó.
- Trong các hình thức giám sát chung của HĐND đã trình bày ở trên thì thường
trực HĐND và các ban của HĐND chú trọng việc tổ chức các đoàn giám sát thực tế.



Giám sát của đại biểu HĐND.

Đại biểu HĐND tham trực tiếp vào hoạt động giám sát của HĐND tại các kỳ
họp hoặc hoạt động của thường trực HĐND và các ban của HĐND. Đại biểu HĐND
chú trọng hoạt động giám sát độc lập thông qua việc tiếp xúc cử tri, theo dõi việc
giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của cử tri và giám sát qua nhưng thông tin trên
các phương tiện thông tin đại chúng.

Giám sát thông qua việc xem xét, giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân.
Đây cũng là một hình thức giám sát quan trọng của HĐND, để nhân dân trực tiếp
tham gia vào quản lí nhà nước, quản lí xã hội.
III. Vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước trong viêc bảo đảm pháp chế
trong quản lí hành chính nhà nước.
1. Vai trò chung đối với việc bảo đảm pháp chế
Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước có vai trò hết sức quan
trọng, cụ thể:
- Các cơ quan quyền lực nhà nước phát hiện ra những yếu kém, khuyết điểm
trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với cơ quan hành chính
nhà nước. Trên cơ sở đó, cơ quan quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những biện
pháp thích hợp để khắc phục những khó khăn đó.
- Thông qua hoạt động giám sát, cơ quan hành chính nhà nước có dịp kiểm
nghiệm tính hợp lí, hợp pháp của các văn bản pháp luật do chính mình ban hành.
Nếu thấy khiếm khuyết về hình thức hay nội dung thì các cơ quan quyền lực nhà
nước nói trên phải đưa ra những biện pháp, giải pháp khắc phục. từ đó các cơ quan
này đưa ra những yêu cầu và những biện pháp cải tiến chế độ, quy trình lập pháp,
lập quy nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước.

6



- Hoạt động giám sát giúp cơ quan quyền lực nhà nước các cấp có thể phát hiện
ra những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự an ninh và lợi ích của nhà nước, từ
đó mà kịp thời quản lí hoặc yêu cầu các cấp, các ngành xử lí nghiêm minh những vi
phạm đó để củng cố pháp chế.
2. Vai trò giám sát của Quốc hội trong bảo đảm pháp chế
Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là một yếu tố của cơ chế đảm bảo và
tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật ở nước ta. Cơ chế đó bao gồm một
hệ thống các yếu tố có tác động qua lại với nhau bao gồm từ giám sát tối cao của
Quốc hội, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của nó, giám sát của
nhân dân đến hoạt động kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân, giám đốc xét xử của
Toà án, thanh tra của các cơ quan hành pháp.
Thông qua hoạt động xem xét báo cáo của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính
phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao, Quốc hội giám sát hoạt động của cấu trúc bộ
máy nhà nước trung ương, kiểm soát được tình hình thực thi Hiến pháp và pháp luật
trong đời sống xã hội, tăng cường trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu
cơ quan nhà nước. Còn thông qua hoạt động chất vấn, đại biểu Quốc hội thể hiện
trách nhiệm của những người đại biểu trước nhân dân, nêu lên những vấn đề bức
xúc, những mối quan tâm của cử tri nhờ vậy Quốc hội đánh giá được chất lượng và
hiệu quả công tác của người bị chất vấn.
Hoạt động giám sát của Quốc hội còn là phương tiện kiểm soát, ngăn chặn
kịp thời lạm dụng quyền lực nhà nước. Điều 15, Quy chế hoạt động của đại biểu
Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội quy định: “Khi phát hiện có hành vi vi phạm
pháp luật…đại biểu Quốc hội có quyền trực tiếp yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
hữu quan và những người có trách nhiệm thi hành những biện pháp cần thiết để kịp
thời chấm dứt hành vi trái pháp luật đó”.
Qua hoạt động giám sát, cụ thể là xem xét văn bản quy phạm pháp luật của
Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao có dấu hiệu
trái Hiến pháp, luật và nghị quyết, Quôc hội giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của

VBQPPL của các đối tượng giám sát, hủy bỏ văn bản trái pháp luật. Hình thức này
không chỉ đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, luật, nghị quyết do Quốc hội ban
hành, tính hiệu quả của các VBPL khác, tính phù hợp của các Pháp lệnh, Nghị định
độc lập mà còn tạo ra sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Thông qua việc thực hiện quyền giám sát, Quốc hội xây dựng những biện
pháp và giải pháp hữu hiệu để giải quyết những vấn đề được phát hiện từ việc thực
7


hiện quyền giám sát, giải quyết những vấn đề được phát hiện từ việc thực hiện
quyền giám sát của mình. Chẳng hạn như việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn. (Khoản 8, điều 70, Hiến pháp
năm 2013).
Như vậy, hoạt động giám sát giúp Quốc hội phát hiện ra những yếu kém,
khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những khó khăn, vướng
mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các cơ
quan hành chính nhà nước cũng như đánh giá được mức độ phù hợp của quyền hạn,
thẩm quyền được trao cho các tổ chức, cá nhân; hiệu quả hoạt động của từng cơ
quan… Trên cơ sở này Quốc hội có những phương án tổ chức, trao quyền một cách
thích hợp để phát huy tối đa năng lực, ưu điểm của từng cá nhân, cơ quan, giúp thực
hiện hiệu quả hơn những công việc mà Quốc hội giao phó…
3. Vai trò giám sát của HĐND trong bảo đảm pháp chế
Trong quản lí nói chung và quản lí hành chính nhà nước nói riêng, hoạt động
giám sát nếu được chú trọng sẽ phát huy được những ưu điểm của hoạt động này,
giúp cho guồng quay của bộ máy nhà nước được phối hợp nhịp nhàng, đan xen kiểm
tra giám sát lẫn nhau.
Hoạt động giám sát của HĐND trong thời gian vừa qua đã kịp thời phát hiện
những điểm chưa hợp lý trong quản lý HCNN của các cơ quan nhà nước và đã kiến
nghị những biện pháp khắc phục có hiệu quả trong công tác quản lí hành chính nhà
nước. Đồng thời, HĐND phát hiện những khuyết điểm, những yếu kém trong công

tác tổ chức và hoạt động cũng như những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực
hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các cơ quan
HCNN; kiểm nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản pháp luật do chính
mình ban hành.
Thông qua hoạt động giám sát, HĐND các cấp phát hiện những vi phạm pháp
luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ nhà
nước, từ đó kịp thời xử lí hoặc yêu cầu các cấp, các nghành xử lí nghiêm minh
những vi phạm đó để củng cố pháp chế.
Thông qua việc thực hiện quyền giám sát, nắm rõ được những hạn chế, bất
cập trong thực thi pháp luật, HĐND xây dựng những biện pháp và giải pháp hữu
hiệu mới để phù hợp với điều kiện thực tế. Một số phương pháp mới đang được thực
hiện: Thường trực HĐND cấp tỉnh tổ chức giám sát những vấn đề được cử tri quan
tâm bằng hình thức chất vấn giữa hai kỳ họp (TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ);
thành lập đoàn giám sát chuyên đề về việc trả lời và thực hiện chất vấn (Bình
8


Thuận); tổ chức giám sát bằng hình ảnh, ghi lại những nội dung giám sát và báo
cáo tại kỳ họp HĐND (Tuyên Quang). Các hình thức này đã đem lại hiệu quả rõ rệt,
được các đại biểu HĐND và cử tri hoan nghênh...
Tóm lại, hoạt động giám sát của HĐND góp phần tích cực vào việc phát hiện
những sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc chấp hành pháp luật. Trên cơ sở
đó kiến nghị với cấp có thẩm quyền giải quyết, xử lí kịp thời những sai phạm đó,
đôn đốc các cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện nghị quyết của HĐND và của cấp
trên cũng như giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương, bảo đảm thi hành có hiệu
quả các quy định của pháp luật và nghị quyết của HĐND địa phương, góp phần
ngăn chặn phòng ngừa, phát hiện và xử lí nghiêm minh, kịp thời đối với hành vi vi
phạm pháp luật đảm bảo pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể, cá nhân cũng như toàn xã
hội.

IV. Nhận xét hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và một số
kiến nghị đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
Bên cạnh những mặt tích cực mà ta có thể thấy được trong hoạt động giám sát
của cơ quan quyền lực nhà nước như: phát hiện ra những yếu kém trong công tác tổ
chức và hoạt động cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với cơ quan hành chính nhà nước, kiểm
nghiệm tính hợp lí, hợp pháp của các văn bản pháp luật và phát hiện ra những vi
phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự an ninh và lợi ích của nhà nước thì hoạt động
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế.
- Giám sát vẫn là khâu yếu trong hoạt động của Quốc hội, hiệu lực và hiệu quả
của hoạt động giám sát chưa cao nhất là đối với những vấn đề nóng bỏng trong lĩnh
vực kinh tế - xã hội, đấu tranh chống tham nhũng…Việc giám sát các hoạt động điều
tra truy tố chưa làm được nhiều.
- Hoạt động giám sát của HĐND chưa được thường xuyên, đôi khi còn mang
tính hình thức, một số kiến nghị chưa được các cơ quan chức năng thực hiện nghiêm
túc, kịp thời, HĐND chưa thực sự phát huy vai trò cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, hiệu quả giám sát còn hạn chế đặc biệt là hoạt động chất vấn và trả lời chất
vấn, cả người chất vấn và người trả lời chất vấn đều chưa phát huy hết quyền và
nghĩa vụ của mình. Tóm lại, bên cạnh những việc làm được, vẫn còn một số tồn tại,
hạn chế nhất định, nổi lên là chất lượng, hiệu quả giám sát chưa đi vào chiều sâu,
khả năng phân tích đánh giá các khía cạnh của vấn đề còn nhiều hạn chế, một số
kiến nghị, đề xuất có lúc, có nơi còn chung chung, chưa có sức thuyết phục cao đối
9


với các cơ quan nhà nước, nội dung giám sát có lúc còn dàn trải, chưa đi vào trọng
tâm, trọng điểm.
• Một số kiến nghị đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính
nhà nước.
- Về hoạt động giám sát của Quốc hội.

+ Cần cải tiến cơ chế giám sát của Quốc hội, tăng cường hoạt động giám sát của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
+ Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc xử lý các kiến nghị và
những vấn đề nổi lên qua hoạt động giám sát của Quốc hội.
+ Tăng cường sự phối hợp trong hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và ủy ban mặt trận tổ quốc các cấp.
+ Cần nghiên cứu để vừa đảm bảo vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao.
- Về hoạt động giám sát của HĐND.
+ Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND trong quản lý hành
chính nhà nước: Cần xây dựng một bộ máy tổ chức điều hành tinh gọn, đủ năng lực,
Quốc hội, UBTVQH cần sớm nghiên cứu ban hành luật giám sát của HĐND các cấp
tạo cơ sở pháp lý đầy đủ để HĐND thực hiện tốt hoạt động giám sát của mình.
+ Xây dựng nâng cao chất lượng đại biểu HĐND và cán bộ chuyên trách trong
HĐND: Đại biểu HĐND phải gắn bó với cử tri, vừa lắng nghe và phản ánh trung
thực ý kiến nguyện vọng của cử tri, vừa giám sát, vừa đôn đốc các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết thỏa đáng các ý kiến nguyện vọng của cử tri.
+ Đổi mới nâng cao chất lượng của hình thức giám sát của HĐND: Nâng cao
chất lượng hiệu quả giám sát tại các kì họp của HĐND, nâng cao chất lượng xem xét
thảo luận báo cáo, chất lượng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn…
+ Nâng cao năng lực của chủ thể thực hiện hoạt động giám sát của HĐND: Nâng
cao năng lực của chính HĐND, của thường trực HĐND, của các ban của HĐND,
của Đại biểu HĐND.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong cơ chế đảm bảo tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật của
quốc gia. Chính vì thế trong quản lí nói chung và quản lí hành chính nhà nước nói
riêng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nếu được chú trọng quan tâm, nâng
cao chất lượng hơn nữa thì sẽ phát huy được những ưu điểm, mặt mạnh giúp cho bộ
máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả. Có như thế chúng ta mới tạo ra được

10


hành lang pháp lí minh bạch tạo tiền đề cho những bước phát triển của đất nước và
đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lí hành chính nhà nước

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội – 2012.
2.

Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội- 2012.
3.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

4.

Luật tổ chức Quốc hội năm 2001.

5.

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003.

6.


Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2003.

7.

Philaphandeth vilay, Tổ chức và hoạt động của Quốc hôi nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật hiện hành, khóa luận tốt nghiệp,
Hà nội, 2010.
8.

Đàm Đức Tâm, hoạt động giám sát của HĐND thực trạng và

phương hướng hoàn thiện, khóa luận tốt nghiệp, hà nội 2012
9.

/>
tail.aspx?ItemID=115

11


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HĐND

:

Hội đồng nhân dân


UBND

:

Ủy ban nhân dân

UBTVQH :

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

HCNN

:

Hành chính nhà nước

TAND

:

Tòa án nhân dân

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

12




×