Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.92 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHAN HUY TRƯỜNG

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. NGUYỄN MINH HOÀN

2. PGS.TS. ĐẶNG QUANG ĐỊNH

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:


Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi giờ

ngày tháng

năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi xã hội phân chia giai cấp, công bằng xã hội (CBXH) luôn
luôn là khát vọng, là mục tiêu đấu tranh của con người và xã hội loài người.
Ngày nay, thực hiện công bằng xã hội trở thành một trong những tiêu chí
đánh giá sự phát triển bền vững và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, thực hiện CBXH đang trở thành nhu cầu bức thiết, điều
kiện đem lại sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Trong xây
dựng và phát triển đất nước, Việt Nam lựa chọn con đường phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, việc lựa chọn con đường phát triển ngày
càng khẳng định rõ hơn, sâu sắc hơn nhu cầu thực hiện CBXH. Hơn thế
nữa, thực hiện CBXH không chỉ là nhu cầu, điều kiện, động lực phát triển
mà còn là mục tiêu của sự phát triển phát triển đất nước Việt Nam và
khẳng định rõ mục tiêu đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là xây dựng đất nước nhằm thực
hiện xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Trên thế giới hiện nay, trong sự phát triển của các quốc gia lợi thế so
sánh của sự phát triển nhanh và bền vững đang chuyển dần từ yếu tố giàu
về tài nguyên, tiền vốn, giá nhân công rẻ sang lợi thế về trình độ trí tuệ của
con người và về phát huy vai trò của nguồn nhân lực (NNL) trong tiến
trình phát triển đó. Vì vậy, phát triển NNL đang trở thành một yêu cầu
quan trọng, là nguồn tài sản quý giá, là nhân tố góp phần đem lại sự tăng
trưởng, phát triển kinh tế của mọi quốc gia, điều này được minh chứng qua
mô hình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan,
Sinhgapo….và một số nước khác trên thế giới. Bởi thế, phát huy vai trò
NNL trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đang trở thành vấn đề
chiếm vị trí trọng tâm trong hệ thống các nguồn lực trong sự phát triển của
các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, thực hiện
CBXH đang trở thành một nội dung cơ bản trong đời sống kinh tế - xã hội
và đặc biệt thực hiện CBXH với việc phát triển NNL đang đặt ra những
vấn đề lý luận và thực tiễn bức thiết. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này,
nó sẽ là trở lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Tại sao việc thực hiện CBXH, việc phát triển NNL và việc thực hiện
CBXH đối với phát triển NNL xuất hiện những vấn đề phức tạp, nó có là
trở lực đối với sự phát triển đất nước hay không? Liệu có thể thực hiện
CBXH đối với phát triển NNL trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường,
trong điều kiện thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH), hướng tới phát triển kinh tế tri thức, trong điều kiện số lượng NNL


2

đang tăng nhanh, trong điều kiện nước ta đang được hưởng lợi từ “dân số
vàng” hay không? Để giải đáp câu hỏi này một vấn đề cấp thiết khác cũng
đang được đặt ra trong thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển

NNL, vạch ra và tìm phương hướng giải quyết những tồn tại, những hạn
chế, những vấn đề có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện công bằng xã
hội đối với phát triển NNL và có ý nghĩa quan trọng đối với giải quyết vấn
đề đó nhằm tạo lên động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Với những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: "Thực hiện công bằng xã
hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài
nghiên cứu luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử góp phần làm sáng tỏ vấn đề nêu trên.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, khảo sát thực trạng thực hiện CBXH với việc
phát triển NNL ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ chính:
Thứ nhất, khái quát một số vấn đề lý luận về thực hiện CBXH và phát
triển NNL
Thứ hai, khảo sát thực trạng vai trò của thực hiện CBXH với việc phát
triển NNL ở Việt Nam
Thứ ba, đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trò
của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thực hiện CBXH diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
kinh tế - xã hội, trong nghiên cứu của mình, tôi tập trung vào nghiên cứu

thực hiện công bằng xã hội về cơ hội đối với việc phát triển NNL.
- Nghiên cứu thực hiện công bằng về cơ hội đối với việc phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện


3

CBXH, về phát triển NNL và thực hiện CBXH với việc phát triển NNL.
Ngoài ra, luận án còn kế thừa và phát triển những quan điểm lý luận của các
nhà khoa học trong nước và thế giới về những nội dung có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận điểm mang tính nguyên tắc
phương pháp luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp
luận định hướng cho quá trình nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ của luận án.
- Luận án kết hợp với việc sử dụng phương pháp: khái quát hoá, trừu
tượng hoá, kết hợp lịch sử - lôgic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn
dịch, hệ thống - cấu trúc, phân tích....để triển khai nhiệm vụ đề ra.
5. Đóng góp về khoa học của luận án
Với tư cách là một công trình nghiên cứu từ góc độ triết học, từ quan
điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy vật lịch sử về thực hiện CBXH
với việc phát triển NNL, luận án có những điểm mới sau:
- Phân tích và đánh giá khái quát về thực trạng vai trò thực hiện
CBXH với việc phát triển NNL trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao vai trò của thực hiện

công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
về thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án góp phần tìm động lực NNL đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên
cứu. Những quan điểm và giải pháp được luận án đề xuất có thể gợi mở
cho các cơ quan quản lý có những điều chỉnh phù hợp để thực hiện chính
sách đảm bảo vai trò của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án bao gồm 4 chương, 11 tiết.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN VỀ THỰC
HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về thực hiện công bằng xã hội
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh
tế quốc tế, vấn đề thực hiện CBXH được Đảng, toàn xã hội quan tâm.
Các tác giả nghiên cứu về thực hiện công bằng xã hội: đưa ra quan

niệm về CBXH, chỉ ra cách thức trong việc thực hiện CBXH, các nguyên
tắc nhằm thực hiện CBXH, đề cập đến nguyên tắc phân phối nhằm thực
hiện CBXH, tiêu biểu cho xu hướng nghiên cứu này có các công trình như:
"Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội" của tập thể tác
giả Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Utrich Dornberg;
"Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng
xã hội ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Lê Hữu Tầng; "Công bằng xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của tác giả
Phạm Xuân Nam; "Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa" của tác giả Nguyễn Duy Quý; "Công bằng
xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp thực hiện" của tác giả Đỗ Huy;
"Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta
hiện nay" của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm; "Công bằng xã hội và phát
triển con người bền vững" của tác giả Phạm Thành Nghị; "Công bằng xã
hội trong tiến bộ xã hội" của tác giả Nguyễn Minh Hoàn; "Công bằng xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của tác
giả Nguyễn Duy Quý......
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực
Phát triển NNL, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao (NNL
CLC) là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Nghiên cứu nhằm chỉ ra
nhiệm vụ, cách thức nhằm phát huy vai trò NNL, quan niệm về NNL, vai
trò của NNL trong phát triển kinh tế - xã hội, trong tiến trình đẩy mạnh
CNH, HĐH, phát huy NNL trong nền kinh tế thị trường, trong phát triển
hướng tới kinh tế tri thức, tiêu biểu như các công trình nghiên cứu: "Phát
triển nguồn nhân lực: kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta" của Trần
Văn Tùng, Lê Ái Lâm, "Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa " của tác giả Phạm Minh Hạc; "Nghiên cứu
con người và nguồn nhân lực: Niên giám nghiên cứu số 3" của Phạm Minh
Hạc, Phạm Thành Nghị và Vũ Minh Chi; "Nghiên cứu văn hoá, con người,
nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI" của Nhiều tác giả: có các công trình "Vấn



5

đề nghiên cứu văn hóa - con người - nguồn nhân lực ở Việt Nam đầu thế
kỷ XXI" tác giả Phạm Minh Hạc; đề tài "nghiên cứu và phát triển văn hóa,
con người và nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI" của tác giả Nguyễn Phú
Trọng; đề tài "Khoa học xã hội Việt Nam với nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa,
con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI" của tác giả Đỗ Hoài Nam; đề tài
"Nghiên cứu nguồn nhân lực ở Việt Nam: khía cạnh kinh tế và khía cạnh văn
hóa" của tác giả Phạm Văn Đức; đề tài "Để có nguồn nhân lực chất lượng
cao nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thế kỷ XXI" của tác giả
Nguyễn Trọng Chuẩn; "Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam" của tác giả Đoàn Văn Khái;...
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG VAI
TRÒ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC

Công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò của thực hiện công bằng
xã hội với việc phát triển NNL, có thể khẳng định chưa có công trình khoa
học nào trực tiếp bàn về vấn đề này. Thông qua nội dung những công trình
đề cập đến việc thực hiện CBXH và đến phát triển NNL, các tác giả
nghiên cứu về thực hiện CBXH, về phát triển NNL đã phần nào chỉ ra thực
trạng vai trò của thực hiện CBXH đối với việc phát triển của NNL trong
thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu như: "Quản lý sự phát triển xã
hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng" của tác giả Phạm Xuân Nam;
trong bài "Thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, mâu thuẫn và
phương hướng giải quyết" của các tác giả Nguyễn Tấn Hùng, Lê Hữu Ái;
Bài viết" "Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp thực hiện"

của tác giả Đỗ Huy; trong cuốn: "Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng
xã hội ở Việt Nam" của tác giả Hoàng Đức Thân, Đinh Quang Ty, là kết quả
công trình nghiên cứu của đề tài KX 04.19/06-10 về "Quan điểm và giải
pháp bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
ở nước ta", do tác giả Hoàng Đức Thân làm chủ nhiệm;...
1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN QUAN
ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ THỰC HIỆN CÔNG
BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

Thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, vai trò của thực hiện CBXH với
việc phát triển NNL có vấn đề đặt ra, những tồn tại cần xem xét, yêu cầu
đặt ra nghiên cứu để đưa ra giải pháp nhằm phát huy vai trò thực hiện
CBXH với việc phát triển NNL trong thực tiễn Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: "Thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa",
Tạp chí Xã hội học, số 3, 2004, tác giả Phạm Xuân Nam; Cuốn sách "Công


6

bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội", Nxb khoa học xã hội,
Hà Nội, 2008, của tập thể tác giả Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần
Văn Đoàn, Utrich Dornberg; Trong bài viết "công bằng xã hội ở Việt Nam:
nhận diện và giải pháp thực hiện" của tác giả Đỗ Huy, Tạp chí Triết học,
số 5, 2008; Trong cuốn sách "nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999,
của tác giả Mai Quốc Chánh. Trong cuốn "định hướng phát triển đội ngũ
trí thức Việt Nam trong CNH, HĐH", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, của tác giả Phạm Tất Dong; Trong tác phẩm "Nguồn nhân lực và
nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam

trong tiến trình đổi mới những vấn đề lý luận", Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, 2010, của tác giả Nguyễn Ngọc Phú, đề tài khoa học mã số
KX.02.24/06-10, thuộc chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm
cấp Nhà nước KX.02/06-10 mang tên "Quản lý phát triển xã hội trong tiến
trình đổi mới ở Việt Nam" đã tiến hành tổ chức hội thảo về vấn đề NNL và
nhân tài cho phát triển xã hội, vào tháng 11 năm 2009 tại Hà Nội; cuốn
sách "Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, của
tác giả Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng. Cuốn sách được hình thành trên
cơ sở biên soạn từ các tham luận tại Hội thảo ngày 24/8/2012 do Tạp chí
Cộng sản và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đồng tổ chức. Trong đó có
các bài viết "phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập
quốc tế" của Vũ Văn Phúc; bài viết "quan điểm của Đảng về phát triển
NNL trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH" của Đoàn Thế Hanh; bài viết
"phát triển NNL: từ nhận thức đến thực tiễn" của Lê Văn Cương; bài viết
"phát triển NNL CLC trong các doanh nghiệp nhà nước - thực trạng và
giải pháp" của Vũ Văn Phúc;.v.v....
1.4. HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

1.4.1. Giá trị của những công trình có liên quan đến vấn đề luận
án đang nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về thực hiện CBXH, về phát triển NNL
cho thấy những nội dung khác nhau về thực hiện CBXH, về phát triển
nguồn nhân lực và các công trình đó đã đem đến những giá trị thực tiễn và
lý luận to lớn. Một là, cách công trình nghiên cứu đã chỉ ra một bức tranh
tổng quát về thực hiện CBXH, về vai trò của CBXH tác động trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống, về phát triển NNL, về phát huy vai trò
NNL trong thực tiễn kinh tế - xã hội. Hai là, các công trình trên đã phân
tích về thực hiện CBXH, mối quan hệ CBXH với sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế, thực hiện CBXH trong phát triển kinh tế, quan hệ biện chứng

của CBXH với bình đẳng xã hội, với đoàn kết xã hội, với trách nhiệm xã


7

hội, với hiện đại hóa xã hội, đề cập đến vấn đề thực hiện công bằng về cơ
hội,...,cho thấy vai trò, mối quan hệ giữa thực hiện CBXH với các lĩnh vực
cơ bản của nền kinh tế. Ba là, các công trình nghiên cứu về phát triển
NNL, quản lý sự phát triển NNL, vai trò NNL trong tiến trình CNH,
HĐH,..., đã cho thấy vai trò, vị trí, tính tất yếu của việc phát triển NNL, đề
ra những yêu cầu của việc xây dựng, hình thành, phát triển NNL phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội, cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
1.4.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ
Các công trình nghiên cứu trên có những đóng góp quan trọng về mặt
khoa học, đã góp phần giải đáp nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh
trong quá trình Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, hội nhập kinh tế
quốc tế. Tuy nhiên, chưa có công trình nào thuộc chuyên ngành chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trực tiếp nghiên cứu về
thực hiện CBXH với việc phát triển NNL ở Việt Nam. Kế thừa những giá
trị lý luận, thực tiễn và kết quả các công trình nghiên cứu của các tác giả,
các nhà khoa học, tác giả luận án tiếp tục làm sâu sắc những vấn đề sau:
Thứ nhất, trình bày khái quát những vấn đề lý luận về thực hiện CBXH, về
phát triển NNL và vai trò của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL.
Hai là, Phân tích thực trạng vai trò thực hiện công bằng về cơ hội với việc
phát triển NNL ở Việt Nam hiện nay. Ba là, đề ra một số quan điểm và
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò thực hiện CBXH với việc phát
triển NNL ở Việt Nam.
Chương 2
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN

NGUỒN NHÂN LỰC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về thực hiện công bằng xã hội
Quan điểm chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng, trong một hình thái kinh tế xã hội không chỉ có một loại hình quan hệ sản xuất nhất định, mà thường
tồn tại nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác nhau và bao giờ cũng có một
loại hình quan hệ sản xuất chủ đạo, gắn liền với nó là một nguyên tắc phân
phối chủ đạo, nguyên tắc phân phối chủ đạo nào mà đảm bảo CBXH và
thực hiện CBXH với nghĩa là hưởng thụ tương xứng với cống hiến, sự
cống hiến đó mang lại hiệu quả kinh tế cho nền sản xuất xã hội cao hơn,
khi đó, nguyên tắc phân phối ấy sẽ góp phần to lớn vào việc giải phóng
con người khỏi sự bất công và bất bình đẳng xã hội.


8

Theo quan điểm của các nhà tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen, muốn
có CBXH thực sự, đảm bảo thực hiện CBXH thực sự trong đời sống thì
phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, phải thực hiện phân
phối đúng với giá trị của sức lao động. Nhưng sự phân phối đó chẳng
những chưa loại trừ sự bất công mà vẫn còn hàm chứa trong nó việc chấp
nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã
hội, "Đó vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của nguyên tắc phân phối theo lao
động - một thiếu sót, theo C.Mác, là không thể tránh khỏi trong giai đoạn
đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa"
Vận dụng quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về CBXH, về thực
hiện CBXH vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng bước thực hiện CBXH phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, CBXH và thực hiện

CBXH không chỉ biểu hiện là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà còn là một
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, là một biện pháp căn bản
hiện thực hóa những giá trị, lý lưởng cao cả của chủ nghĩa xã hội.
2.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện công
bằng xã hội
Việt Nam đang ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhằm phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế thị trường, thực hiện đẩy mạnh
sự nghiệp CNH, HĐH, trong điều kiện đó, quan điểm Đảng ta khẳng định
thực hiện phân phối theo lao động là chính và thực hiện phân phối theo
nguồn vốn và các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất, kinh doanh,
nhằm thực hiện CBXH.
Trong thực tiễn lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định rõ ràng là thực hiện các hình thức phân phối trong thực tiễn kinh tế xã hội là nhằm thực hiện CBXH, thực hiện CBXH tác động đến NNL tạo
lên động lực thúc đẩy người lao động tích cực hoạt động kinh tế - xã hội.
Từ những nội dung về thực hiện CBXH, chúng tôi đưa ra quan niệm
mang tính khái quát như sau: Thực hiện công bằng xã hội là việc đảm bảo
sự phù hợp giữa khả năng công hiến và hưởng thụ thành quả cống hiến
của nguồn nhân lực trong quá trình tham gia hoạt động kinh tế - xã hội
nhằm thúc đẩy NNL phát triển tạo động lực phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.2.1.Quan niệm về nguồn nhân lực
Thực tiễn nghiên cứu về NNL, nhiều các nhà nghiên cứu đưa ra
quan điểm khác nhau, quan niệm về NNL rất đa dạng, trên nhiều lĩnh vực
khác nhau đưa ra quan niệm khác nhau, chưa có sự thống trong quan niệm
về NNL và NNL được đề cập theo phạm vi rộng, hẹp khác nhau.


9


Chúng ta cần khẳng định về NNL: Một là, số lượng NNL (có bao
nhiêu và sẽ có bao nhiêu người nữa trong tương lai). Hai là, chất lượng
NNL (trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ, năng lực
thẩm mỹ, kinh nghiệm sống… của người lao động. Ba là, cơ cấu NNL (cơ
cấu thể hiện các phương diện khác nhau như trình độ đào tạo, dân tộc, giới
tính, độ tuổi…
Theo quan điểm của tôi có thể khái quát quan niệm về NNL:
Theo phạm vi rộng: NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho nền
sản xuất xã hội với tư cách là yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, giữ
vai trò quan trọng nhất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận của sự phát
triển kinh tế - xã hội, là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; là bộ
phận dân số trong độ tuổi lao động với những tiềm năng, sức mạnh trong
cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Theo phạm vi hẹp: NNL là lực lượng lao động của xã hội, nguồn lực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi
lao động (từ 15 - 55 tuổi đối với nữ, từ 15 - 60 tuổi đối với nam), có khả
năng tham gia vào quá trình lao động, sản xuất của xã hội, là toàn bộ cá
nhân có thể tham gia vào quá trình lao động, gắn liền với cá nhân đó là
tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực của họ, được phát huy trong
quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh tạo ra của cải cho xã hội.
2.2.2. Khái quát lý luận về phát triển nguồn nhân lực
Trong thực tiễn hoạt động kinh tế - xã hội, nền kinh tế Việt Nam hiện
nay đang hưởng lợi từ "cơ cấu dân số vàng", trong tiến trình phát triển kinh
tế - xã hội. Với Việt Nam đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và hướng
tới phát triển kinh tế tri thức, đặt ra yêu cầu cần phải đẩy mạnh việc hình
thành, phát triển nhanh NNL về quy mô, về số lượng, về trình độ, kỹ năng,
có chất lượng, với số lượng hợp lý đáp ứng yêu cầu nền kinh tế đang đặt ra.
Theo tôi có thể khái quát về phát triển NNL:
Thứ nhất, phát triển NNL về số lượng được quy định bởi quy mô dân

số (số lượng dân, mật độ dân số tốc độ tăng dân số) và lực lượng lao động
(độ tuổi từ 15-55 tuổi đối với nữ, từ 15-60 tuổi đối với nam, giới tính),
phát triển NNL về số lượng là hình thành lực lượng lao động với quy mô
và cơ cấu hợp lý, đảm bảo một lực lượng lao động dồi dào.
Thứ hai, phát triển về chất lượng của NNL, biểu hiện tổng hợp những
phẩm chất, năng lực và sức mạnh của con người dưới dạng hiện có thực tế
và tiềm năng đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, là phát triển những năng lực và phẩm chất của NNL (NNL gồm người
lao động từ 15-55 tuổi đối với nữ, từ 15-60 tuổi đối với nam).
Thứ ba, nâng cao hiệu quả sử dụng NNL, là yếu tố cấu thành của
phát triển NNL, đồng thời là một trong những tiêu chí để đánh giá kết quả


10

của việc phát triển NNL trong phát triển lực lượng sản xuất, trong tiến
trình CNH, HĐH, trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Như vậy, phát triển NNL cần đảm bảo đông về số lượng, mạnh về
chất lượng, đồng bộ về cơ cấu ngành nghề và khả năng sử dụng có hiệu
quả NNL đây là yêu cầu cần thiết đối với Việt Nam trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
2.3. VAI TRÒ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM

2.3.1. Thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển nguồn
nhân lực góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
Thực hiện CBXH vừa là mục tiêu, vừa là một động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời là góp phần vào thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Thực hiện CBXH gắn với lợi ích của chủ thể là người lao động, sẽ
thúc đẩy NNL phát triển, thúc đẩy NNL tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội, góp phần thực hiện tốt, hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội. Thước đo của thực hiện CBXH đó là cái để "ngăn chặn" và "trừng
phạt" những cá nhân vi phạm quan hệ lợi ích chung và lợi ích riêng trong
đời sống kinh tế - xã hội.
Tiêu chí để xác định vai trò thực hiện công bằng về cơ hội đối với sự
phát triển của NNL trong thực tiễn kinh tế - xã hội là hiệu quả kinh tế, hiệu
quả xã hội mà NNL thực hiện trong thực tiễn kinh tế - xã hội, hiệu quả đó
có góp phần tạo sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
2.3.2. Thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam góp phần thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất
Trong tiến trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà
nước ta luôn khẳng định: CBXH thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư
liệu sản xuất, lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở điều kiện
phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng.
Trong việc thực hiện phân phối tư liệu sản xuất, đối tượng phân phối
chính là các chủ thể trong nền kinh tế, thực hiện CBXH gắn liền với quan
hệ phân phối về vốn, tư liệu sản xuất được thực hiện và đảm bảo trên cơ sở
thước đo hiệu quả kinh tế và thước đo hiệu quả xã hội, sẽ tạo cơ hội, điều
kiện cho các chủ thể phát huy năng lực, sở trường của mình.
Thực hiện phân phối công bằng tư liệu sản xuất, tất yếu sẽ kéo theo
việc phân bổ nguồn lao động của xã hội gắn liền với tư liệu sản xuất đó
phù hợp hơn, đưa đến kết quả nền kinh tế đạt năng suất cao, thúc đẩy lực
lượng sản xuất của xã hội phát triển.


11

Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường Việt Nam, Nhà nước và thị

trường trở thành những chủ thể thực hiện phân phối tư liệu sản xuất, khi
các chủ thể kinh tế được phân phối tư liệu sản xuất thì đồng thời họ được
trao quyền tự chủ trong việc sử dụng nguồn tư liệu sản xuất đó.
Thực hiện CBXH từng bước thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của
NNL về số lượng, về cả chất lượng, hình thành cơ cấu NNL phù hợp với
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, cho thấy việc sử
dụng NNL ngày càng hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
cho thấy thực hiện hiệu quả mục tiêu kinh tế - xã hội.
2.3.3. Thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển nguồn
nhân lực góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và định
hướng cho sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Thực hiện CBXH là một trong những chủ trương lớn nằm trong các
chủ trương mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đề ra trong tiến trình xây
dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện CBXH nhằm định hướng hình thành và phát triển NNL
CLC, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng, phát triển, hướng tới
phát triển kinh tế tri thức,
nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải phát triển NNL CLC.
Để phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải phát huy hệ thống các
động lực kinh tế - xã hội, một trong động lực đó là phát huy vai trò của
thực hiện CBXH thúc đẩy sự phát triển NNL CLC, đây là điều kiện giúp
cho Việt Nam vừa thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, nhanh
chóng hướng tới phát triển kinh tế tri thức, vừa nhanh chóng đón đầu trong
quá trình phát triển kinh tế.
Trong thực tiễn, nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang diễn ra mâu
thuẫn giữa quá trình thực thi chính sách trong sử dụng với việc xây dựng
môi trường làm việc nhằm thu hút NNL và NNL CLC. Trong đó, đặc biệt
hơn là việc thu hút NNL CLC ở nước ngoài về nước, đối tượng được
hướng đến là đội ngũ trí thức Việt kiều đang làm việc tại các quốc gia trên
thế giới, bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam cần đội ngũ trí thức tham gia

vào bộ máy quản lý công, do đó, chúng ta cần phải thực hiện công bằng về
cơ hội trong môi trường làm việc, để thu hút đội ngũ trí thức này.
Trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội đang đặt ra yêu cầu là phải
sử dụng hiệu quả NNL CLC ở trong nước, thực hiện theo hướng đảm bảo
công bằng trong các chính sách tiền lương, tiền công, chính sách bảo hiểm,
các chế độ khác…từ đó sẽ thu hút có hiệu quả NNL CLC trong nước tham
gia tích cực vào quá trình hoạt động kinh tế - xã hội.
Thực hiện CBXH nhằm nâng cao chất lượng NNL, định hướng phát
triển NNL CLC và tác động đến quá trình phát huy các tố chất của NNL
CLC trong thực tiễn hoạt động kinh tế - xã hội Việt Nam, như: tố chất dân
tộc, tố chất thích ứng, tố chất sáng tạo.


12

Chương 3
THỰC TRẠNG VAI TRÒ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI
VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG VỀ CƠ
HỘI TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC CƠ BẢN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC

3.1.1. Tác động của việc thực hiện công bằng về cơ hội trong lĩnh
vực kinh tế đối với phát triển nguồn nhân lực
Trong thực tiễn kinh tế - xã hội, thực hiện công bằng về cơ hội diễn
ra trong các lĩnh vực khác nhau, lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực xã hội, các khía
cạnh của đời sống xã hội, đối với hoạt động của con người…trong đó, thực
hiện công bằng về cơ hội trong lĩnh vực kinh tế đối với NNL mang tính
trực tiếp và mạnh mẽ hơn cả.
Sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế của một quốc gia sẽ tạo cơ

sở, điều kiện vật chất khách quan thúc đẩy NNL phát triển. Khi NNL phát
triển sẽ là động lực cho phát triển kinh tế.
Thực hiện công bằng về cơ hội trong điều kiện phát triển kinh tế đến
sự phát triển NNL, sự tác động đó mang tính tích cực, hiệu quả cao, nó
thúc đẩy NNL phát triển về số lượng, chất lượng và đồng thời tạo điều
kiện để nền kinh tế sử dụng ngày càng hiệu quả NNL.
Thực hiện công bằng về cơ hội gắn liền với việc hình thành Nhà nước
pháp quyền, sẽ từng bước hình thành cơ chế, chính sách, tạo dựng môi
trường thị trường công bằng, minh bạch, hiệu quả, tạo nên cơ hội, điều kiện
phát huy vai trò tích cực của người lao động tham gia vào hoạt động kinh tế.
Tác động của thực hiện công bằng về cơ hội, đã từng bước góp phần
hình thành các nguyên tắc cho hoạt động của các thị trường, tạo điều kiện
đảm bảo tính tự chủ của các thành phần kinh tế được phát huy.
Trong môi trường hoạt động kinh tế, vai trò thực hiện công bằng về
cơ hội tác động tác động đối với các chủ thể trong nền kinh tế là các nhà
sản xuất, kinh doanh, đảm bảo công bằng, hợp lý, phù hợp nguyện vọng
của các nhà kinh doanh sẽ thúc đẩy họ hoạt động kinh tế đạt chất lượng,
hiệu quả, tạo điều kiện làm chuyển biến rõ rệt tình hình sản xuất và đời
sống ở khắp các vùng miền, các lĩnh vực kinh tế.
Việc thực hiện công bằng về cơ hội trong việc xây dựng và thực hiện
đa dạng các chính sách của Nhà nước tác động đến sự phát triển NNL, đã
hình thành cơ chế để hoạt động thị trường công bằng, nên huy động vai trò
của nguồn lực đó là NNL trong phát triển kinh tế - xã hội.
Vai trò của thực hiện công bằng về cơ hội gắn liền với việc Nhà nước
thực chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy thế


13

mạnh, lợi thế giữa các vùng, thành phần, ngành kinh tế, đã tạo cơ hội, điều

kiện công bằng giữa các vùng miền, các tầng lớp nhân dân trong việc tham
gia vào hoạt động kinh tế.
Tác động của thực hiện công bằng về cơ hội trong sự vận động cơ
cấu kinh tế tác động đến cơ cấu NNL, đã tạo cơ hội, điều kiện để cơ cấu
NNL chuyển dịch một cách khách quan, hợp lý, phù hợp.
Thực hiện công bằng về cơ hội trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thành phần kinh tế, vùng kinh tế còn góp phần làm giảm khoảng cách về
mức hưởng thụ các thành quả kinh tế - xã hội của nhân dân, giữa các vùng,
miền trong cả nước.
Thực hiện công bằng về cơ hội gắn liền với việc tiến hành quy
hoạch, xác định lại cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng, từng địa phương về đất đai, tài nguyên thiên nhiên,
lao động và địa kinh tế, tạo điều kiện các vùng đó khai thác thế mạnh một
cách hợp lý hơn, hiệu quả hơn.
Tác động của thực hiện công bằng về cơ hội trong thực hiện chính
sách đầu tư phát triển các vùng miền, nên đã tạo điều kiện phân bổ nguồn
lực, trong đó có sự phân bổ NNL giữa các vùng.
Quá trình tác động đó đã dần dần hình thành cơ cấu lao động hợp lý
và cơ cấu kinh tế phù hợp cho mỗi vùng và liên vùng; tạo ra sự cạnh tranh,
liên kết về lực lượng lao động giữa các vùng trong cả nước.
Thực hiện công bằng về cơ hội đối với việc phát triển NNL trong
điều kiện Nhà nước từng bước đổi mới chế độ tiền lương, quy định ngày
càng rõ hơn mức lương tối thiểu cho từng khu vực, xây dựng các bậc,
ngạch, thang bậc lương hợp lý, tạo điều kiện cho NNL tìm kiếm việc làm,
tự tạo việc làm, khơi dậy tính năng động và sáng tạo của các chủ thể trong
nền kinh tế, khuyến khích các chủ thể đóng góp nhân lực, vật lực, tài lực
cho hoạt động của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
3.1.2. Tác động của việc thực hiện công bằng về cơ hội trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực
Trong lĩnh vực đào tạo, thực hiện công bằng về cơ hội nhằm thúc đẩy

sự phát triển NNL và hình thành nền giáo dục đảm bảo sự công bằng đối
với mọi người, hướng đến phát triển nền giáo dục tương đương trình độ
khu vực và thế giới.
Mục tiêu của nền giáo dục là đảm bảo tất cả mọi người đều có cơ
hội, điều kiện học tập, phát triển bản thân, mục tiêu đó được ghi rõ trong
Luật giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, với việc hình thành các loại thị
trường, trong đó hình thành thị trường giáo dục, thực hiện chủ trương


14

chung của Đảng và Nhà nước về thực hiện xã hội hóa giáo dục, nhằm thu
hút các nguồn lực đầu tư cho giáo dục, nhằm thực hiện công bằng về cơ
hội học tập cho mọi người dân. Thực hiện công bằng cơ hội trong lĩnh vực
đầu tư đó, tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia hoạt động giáo dục
Chiến lược thực hiện phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước,
cùng với hệ thống giáo dục công lập, hệ thống giáo dục ngoài công lập,
trong việc thực hiện xã hội hóa giáo dục, nên đã tạo nhiều cơ hội, điều kiện
học tập cho tất cả mọi người, việc thực hiện công bằng về cơ hội đối với
lĩnh vực này là vừa một mặt đảm bảo sự phát triển nền giáo dục.
Cùng với đó, việc thực hiện công bằng về cơ hội trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo không chỉ được thực hiện trong phát triển hệ thống giáo dục đào tạo còn được thực hiện gắn với vấn đề thu chi ngân sách cho giáo dục.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thực hiện đầu tư
cho giáo dục diễn ra dưới nhiều hình thức: Ngân sách nhà nước; học phí;
vốn viện trợ và vốn vay.
Theo chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước đề ra, yêu cầu để
có ngân sách nhà nước đầu tư cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo, ngân sách đó
cần phải thu bằng thuế từ chính những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh

doanh hay cơ sở sử dụng NNL được đào tạo đó.
Vai trò thực hiện công bằng về cơ hội trong giáo dục, đào tạo tác
động đến sự phát triển NNL là trực tiếp góp phần thực hiện thành công
mục tiêu giáo dục nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung, góp phần
thúc đẩy NNL phát triển, phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
3.1.3. Tác động của việc thực hiện công bằng về cơ hội trong điều
kiện phát huy dân chủ trong đời sống xã hội đối với phát triển NNL
Thực hiện công bằng về cơ hội không chỉ tác động trong lĩnh vực
kinh tế, trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo mà nó còn tác động mạnh mẽ
trong điều kiện thực hiện và phát huy dân chủ của đời sống xã hội.
Trong đời sống xã hội, thực hiện công bằng về cơ hội đối với việc
phát triển của NNL trong môi trường dân chủ bao giờ cũng tồn tại gắn liền
với một hình thức nhà nước, trong điều kiện đó mọi thành viên của xã hội
có quyền tham gia vào việc ra quyết định về các vấn đề liên quan trực tiếp
đến đời sống của mình.
Thực hiện công bằng về cơ hội trong quá trình phát huy dân chủ
trong lĩnh vực đời sống xã hội tác động tới sự phát triển NNL, đó là:
Đối với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Thực hiện công bằng về cơ
hội có tác dụng to lớn trong việc phát huy vai trò dân chủ của người lao
động, người lao động được tạo điều kiện, cơ hội, tức là có môi trường dân
chủ để thực hiện quyền đầy đủ nhất quyền làm chủ của mình, có nghĩa vụ
thực hiện quyền đó.


15

Phát huy hiệu quả hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện,
tác động trực tiếp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội tới người lao
động, đảm bảo quyền dân chủ của người lao động trong đời sống.

Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy
dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy dân chủ trong xã hội.
Như vậy, việc thực hiện công bằng về cơ hội đối với NNL trong điều
kiện phát huy dân chủ của đời sống xã hội diễn ra ở các nội dung trên là cơ
sở cho việc tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người dân, người lao động thực
hiện tốt nhất, hiệu quả nhất quyền và nghĩa vụ của mình trong đời sống,
người lao động thực hiện được vai trò, vị trí làm chủ.
Gắn liền với quá trình thực hiện dân chủ cơ sở, tác động của thực
hiện công bằng về cơ hội trên các lĩnh vực sau:
Trong việc xây dựng quy chế và các hình thức thực hiện dân chủ để
nhân dân, cán bộ, công chức, người lao động ở cơ sở, được bàn bạc và
tham gia ý kiến vào việc xây dựng chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công
tác chuyên môn, công tác cán bộ... của chính quyền, cơ quan, đơn vị.
Trong việc xây dựng và thực hiện các quy định để người lao động,
nhân dân tham gia bàn và quyết định một cách dân chủ đối với những công
việc, những việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn.
Gắn liền với hoạt động của hội đồng quản trị, của giám đốc trong
việc thực hiện công khai hoạt động doanh nghiệp như: phương hướng,
nhiệm vụ chung về đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh từng năm của
doanh nghiệp, những chủ trương lớn về thay đổi phương thức quản lý
doanh nghiệp và chuyển đổi doanh nghiệp.
Trong việc tạo điều kiện cho mọi người lao động được tiếp cận, được
biết công khai những nhiệm vụ chiến lược của doanh nghiệp gắn liền với
họ. Tác động của vai trò đó được thể hiện ở việc người lao động được tạo
điều kiện, cơ hội thực hiện vai trò của mình, là góp phần việc phát huy khả
năng, năng lực của người lao động trong thực tiễn đời sống.
3.2. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA VAI TRÒ THỰC HIỆN
CÔNG BẰNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


3.2.1. Những thành tựu của thực hiện công bằng xã hội đối với
việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Tác động của vai trò đó thúc đẩy NNL vận động, phát triển, hình
thành cơ cấu NNL hợp lý, đáp ứng yêu cầu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH, theo hướng phát triển kinh tế thị trường, thúc đẩy
nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
Thành tựu đạt được bước đầu trong quá trình phát triển của đất nước
khẳng định thực hiện công bằng về cơ hội tác động đến sự phát triển NNL,


16

đã tạo động lực thúc đẩy phát triển NNL, thể hiện sự tăng lên nhanh chóng
của lực lượng lao động, sự chuyển dịch cơ cấu lao động gắn liền với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kết quả là tỷ trọng lao động trong nông nghiệp
giảm, tỷ trọng lao động trong công nghiệp, dịch vụ tăng lên, nền kinh tế
đạt tốc độ tăng trưởng tương đối cao.
Cùng với những tác động tích cực nói trên, thực hiện công bằng về
cơ hội còn từng bước định hướng cho hình thành, phát triển NNL CLC, tạo
động lực hơn nữa trong việc thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế ở Việt Nam, làm cho nền kinh tế Việt Nam tham gia tích cực
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả.
Có thể thấy rằng, tác động của thực hiện công bằng về cơ hội đến
NNL không chỉ tác động đối với nguồn cung (tức là từ chính bản thân
NNL) của NNL mà còn tác động tới cả yếu tố cầu của NNL trong thị
trường lao động.
Thực hiện công bằng về cơ hội đối với sự phát triển của NNL, kết
quả là tỷ lệ cơ cấu NNL vận động theo hướng tích cực, NNL phát triển về
số lượng và chất lượng. Thể hiện, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp ngày
một giảm, lao động công nghiệp, dịch vụ ngày một tăng gắn liền với sự

vận động cơ cấu kinh tế.
Thực hiện công bằng về cơ hội đã tạo cơ hội, điều kiện để NNL
chuyển dịch từ hoạt động trong thành phần kinh tế nhà nước sang hoạt
động ở các thành phần kinh tế khác, nhưng vẫn làm cho tỷ trọng giá trị
thành phần kinh tế nhà nước đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân có xu hướng ngày một tăng.
Những thành tựu đạt được của sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta
thời gian qua còn khẳng định hơn nữa vai trò của thực hiện công bằng về
cơ hội đang tác động vào quá trình phân bổ NNL trong điều kiện tồn tại
nền kinh tế nhiều thành phần, ở chỗ nó tạo cơ hội, điều kiện cho việc tìm
kiếm việc làm đối với người lao động.
Thực hiện công bằng về cơ hội tác động từng bước định hướng sự
phát triển đội ngũ NNL CLC, thúc đẩy NNL CLC phát triển nhanh chóng
về số lượng và chất lượng, kết quả là NNL CLC ngày càng tăng trong cơ
cấu NNL gắn với cơ cấu kinh tế và góp phần to lớn vào phát triển lực
lượng sản xuất ngày càng hiện đại, tạo điều kiện nền kinh tế Việt Nam
tăng trưởng bền vững thời gian qua.
Việc Đảng và Nhà nước, xã hội tạo điều kiện và môi trường thuận lợi
cho hoạt động của NNL, kết quả thực tiễn, NNL CLC đã được sử dụng
ngày càng hiệu quả cao, góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển
hướng tới nền kinh tế tri thức.


17

3.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện công bằng về cơ hội
đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Nhưng bên cạnh những thành tựu to lớn đó, thực tiễn kinh tế - xã hội,
thực hiện công bằng về cơ hội đối với việc phát triển NNL còn xuất hiện
những hạn chế, bất hợp lý, thể hiện ở chỗ làm cho NNL phát triển chưa

tương xứng, chưa phù hợp, NNL phát triển có phần "lệch" so với cơ cấu
nền kinh tế, hiện tượng thừa, thiếu NNL trong nền kinh tế.
Nền kinh tế vẫn tồn tại số lượng tương đối nhiều về số lượng NNL
được đào tạo, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bị “dư thừa”, số lượng
người lao động có trình độ nhưng không tìm kiếm được việc làm, số lượng
lao động bị thất nghiệp, một bộ phận NNL chưa được khai thác, chưa sử
dụng hiệu quả trong thực tiễn hoạt động của nền kinh tế.
Cùng với tác động của thị trường lao động, tác động của thực hiện
công bằng về cơ hội đến NNL, kết quả làm cho NNL không chỉ tăng lên về
số lượng mà còn nâng cao về chất lượng, NNL qua đào tạo ngày càng
tăng, thực tế hoạt động kinh tế còn một tỷ lệ lớn lao động đã được đào tạo
về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa có việc làm, đó là hạn chế
Thực hiện công bằng về cơ hội tác động trong điều kiện tồn tại thị
trường lao động, đã dẫn đến hệ quả là NNL phát triển chưa phù hợp với
yêu cầu của nền kinh tế, một bộ phận NNL dư thừa.
Thực hiện công bằng về cơ hội tác động gắn với tác động mang tính
định hướng của Nhà nước và của thị trường đến sự vận động, phát triển
của NNL trong nền kinh tế, kết quả là một tỷ lệ lực lượng lao động phát
triển chưa phù hợp với sự thay đổi của cơ cấu kinh tế, sự chuyển dịch cơ
cấu lao động trong nền kinh tế vẫn còn diễn ra chậm, là hiện tượng thừa,
thiếu việc làm.
Thực hiện công bằng về cơ hội tác động đến sự phát triển NNL CLC,
một mặt làm cho NNL CLC phát triển tương đối nhanh chóng, thực tế, tỷ
trọng của nhân lực chất lượng cao trong tổng số NNL còn thấp so với yêu
cầu của nền kinh tế hiện nay, sự tăng lên của NNL CLC so với yêu cầu của
sự phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế và so với yêu cầu của sự phát
triển lực lượng sản xuất nước ta còn thiếu.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với vấn đề thiếu lao
động kỹ thuật cao, lao động trình độ cao, đặc biệt là thiếu lao động kỹ
thuật cao thuộc các lĩnh vực mũi nhọn. Trong đó, lao động có thể thay thế

các vị trí của lao động nước ngoài làm việc ở nước ta đang còn thiếu, trong
khi lao động phổ thông dư thừa với số lượng lớn và ở khu vưc nông thôn
lực lượng lao động phần lớn chưa qua đào tạo đang là trở lực lớn trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn.


18

Như vậy, thực hiện công bằng về cơ hội tác động đến sự phát triển
NNL trong điều kiện vận động của thị trường lao động dẫn đến kết quả
làm cho thị trường phát triển thiếu lành mạnh, thiếu vững chắc, thị trường
lao động còn bị chia cắt, chưa làm tốt chức năng điều phối NNL một cách
hiệu quả.
3.2.3. Những nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực
hiện công bằng về cơ hội đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay
Thực hiện công bằng về cơ hội đối với sự phát triển của NNL đưa
đến những thành tựu to lớn trong việc phát huy vai trò NNL trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội và cũng với sự tác động đó làm xuất hiện
những tồn tại, hạn chế, do nhiều nguyên nhân.
Trong thực tiễn, thực hiện công bằng về cơ hội gắn với thực hiện các
chính sách kinh tế - xã hội, đã góp phần giải quyết việc làm cho những lao
động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do quá trình tích tụ, tập trung ruộng
đất hoặc bị thu hồi đất để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị và xây
dựng các công trình công cộng, bằng việc, khuyến khích đầu tư xã hội để
tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục, chú trọng xây dựng,
hoàn thiện hệ thống chính sách tiền lương, tiền công. Đó là nguyên nhân
đưa lại những thành công bước đầu.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, việc Việt Nam từng bước tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh
công bằng, thuận lợi, nền kinh tế đã huy động mọi thành phần, mọi chủ thể
tham gia phát triển kinh tế, đây cũng là nguyên nhân mang tính khách
quan đem lại những thành tựu nói trên.
Với việc nước ta thực hiện hoàn thiện phát triển thị trường lao động,
đảm bảo đồng bộ liên thông, minh bạch và tạo thuận lợi cho việc tự do
dịch chuyển lao động. Phát triển mạnh thị trường nhân lực chất lượng cao,
nhất là lao động kỹ thuật và nhân lực quản trị kinh doanh, nên đã tạo cơ
hội, điều kiện phát huy vai trò NNL tham gia phát triển kinh tế. Đây là
nguyên nhân đưa lại thành tựu.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong tiến trình phát triển kinh tế
- xã hội, tác động của vai trò thực hiện công bằng về cơ hội còn dẫn đến
những hạn chế và hệ quả đối với đời sống của người lao động trong quá
trình tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Chưa tạo ra nhiều đột phá về thể chế để huy động, phân bổ và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển trong điều kiện hoạt động của cơ
chế thị trường.


19

Trong điều kiện tồn tại thị trường lao động, tác động của thực hiện
công bằng về cơ hội làm cho NNL phát triển bất hợp lý, đây là nguyên
nhân đưa đến hạn chế.
Nguyên nhân gắn với vai trò thực hiện công bằng về cơ hội nhằm
thúc đẩy hình thành, phát triển NNL CLC, còn nhiều bất cập, việc sử dụng
NNL CLC trong hoạt động kinh tế - xã hội nước ta chưa hiệu quả.
Nguyên nhân cho thấy việc sử dụng nhân lực có trình độ chuyên môn
kỹ thuật không đúng với ngành nghề được đào tạo, không đúng hoặc dưới
khả năng được đào tạo còn phổ biến. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự phát

triển "lệch lạc" của NNL, cũng như NNL CLC ở nước ta trong thời gian qua.
Chương 4
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN
CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI
TRÒ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1.1. Quán triệt quan điểm của Đảng về thực hiện công bằng xã
hội với việc phát triển nguồn nhân lực; phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong hoạt động kinh tế - xã hội
Thực tế cho thấy, cần khẳng định một vấn đề có tình nguyên tắc cơ
bản là: lấy hiệu quả sử dụng NNL, mà hiệu quả này đạt được do thực hiện
công bằng về cơ hội, đây là nội dung mang tính quyết định cho việc đảm
bảo thực hiện công bằng về cơ hội trở thành giải pháp cơ bản thúc đẩy phát
triển NNL trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Trong điều kiện nước ta hiện nay với NNL dồi dào, quá trình sử
dụng NNL ở Việt Nam rất dễ gặp phải mâu thuẫn giữa hai xu hướng:
Một là, thực hiện CBXH với việc phát triển NNL, để đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta
cần phải sử dụng NNL có chất lượng cao, phải tạo ra việc làm với năng
suất cao, phải điều chỉnh cơ cấu lao động cho phù hợp với cơ cấu kinh tế,
tổ chức lại lao động trên phạm vi toàn xã hội. Xuất hiện xu hướng tách và
đẩy lao động ra khỏi việc làm là rất lớn, thất nghiệp gia tăng.
Hai là, khi thực hiện CBXH với việc phát triển NNL mà nếu chúng
ta quá chú trọng đến yêu cầu về toàn dụng lao động, toàn dụng NNL.
Thực tế cũng cho thấy, chúng ta chỉ có thể giải quyết việc làm đầy đủ cho
người lao động khi nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.



20

Cần thực hiện một số quan điểm chỉ đạo sau: Một là, kết hợp các
mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trên bình diện cả nước cũng như ở
từng lĩnh vực, từng địa phương. Hai là, thực hiện tiến bộ và CBXH ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển và trong từng chính sách
phát triển.
Trong đó, vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là sự thể hiện rõ nét
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đảm bảo cho việc thực hiện CBXH.
Khẳng định vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước
cần thực hiện tốt các chức năng sau: Một là, định hướng sự phát triển bằng
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn
trọng các nguyên tắc của thị trường, đảm bảo cho thị trường phát triển lành
mạnh. Hai là, Nhà nước tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách
thuận lợi để nhằm phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển. Ba là, Nhà
nước hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
quan trọng, xây dựng hệ thống chính sách xã hội phục vụ yêu cầu của sự
phát triển ngày càng cao của nền kinh tế thị trường nước ta, nhằm hạn chế
mức thấp nhất các rủi ro do tác động của cơ chế thị trường. Bốn là, Nhà
nước bảo đảm tính bền vững và tính tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô,
hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thi trường. Nhà nước sử
dụng các công cụ điều tiết của mình như công cụ pháp luật, chính
sách…..để nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của các cân đối vĩ mô, từ
đó tạo ra xu hướng phát triển tích cực của nền kinh tế.
4.1.2. Đảm bảo "thực hiện công bằng xã hội trong từng bước và
trong từng chính sách phát triển" nhằm phát huy vai trò của NNL
tham gia hoạt động kinh tế - xã hội
Trong tiến trình phát triển đất nước hiện nay, thực hiện tiến bộ và

CBXH ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường nước ta, sẽ tạo cơ sở từng bước hình thành,
phát triển thị trường lao động, thúc đẩy phát triển NNL trong nền kinh tế.
Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách tuyển dụng và sử
dụng lao động theo cơ chế thị trường, việc sử dụng lao động dựa trên cơ sở
nguyên tắc thực hiện công bằng về cơ hội trong cơ chế thị trường, yêu cầu:
Một là, Nhà nước thực hiện quyền dân chủ, công bằng, bình đẳng trước
pháp luật đối với các thành phần kinh tế trong tuyển dụng và sử dụng NNL.
Hai là, tạo điều kiện cho người lao động được tự do di chuyển giữa
các vùng, các ngành, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế, phần quan
trọng khắc phục sự bất hợp lý trong việc phân bổ NNL trong hoạt đông
kinh tế, cũng như bù đắp cho sự thiếu hụt về nhân lực có chất lượng cao
trong các lĩnh vực của nền kinh tế.


21

Ba là, thực hiện giải pháp phát huy vai trò thực hiện công bằng về cơ
hội gắn liền thực hiện chính sách tiền lương trong cơ chế thị trường.
Thực hiện tốt chủ trương đa dạng hóa các hình thức tuyển dụng và sử
dụng lao động trên cơ sở vai trò thực hiện công bằng về cơ hội, chúng ta
cần phải khẳng định vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội nhằm từng bước hoàn
thiện cơ cấu nguồn nhân lực thích ứng với sự vận động của cơ cấu kinh tế cũng
như với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất

Phát huy vai trò thực hiện công bằng về cơ hội đối với với việc phát

NNL, góp phần thúc đẩy phát triển NNL, từng bước hình thành cơ cấu
NNL ngày càng hợp lý, phù hợp với cơ cấu kinh tế, tạo động lực phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Vai trò thực hiện công bằng xã hội được phát huy trong:
Việc thực hiện các chính sách cho sự phát triển thị trường lao động:
như việc thực hiện hỗ trợ chi trả cho lao động dôi dư, cho vay vốn giải
quyết việc làm, phát triển hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm cung
cấp thông tin về thị trường lao động…. góp phần hình thành thị trường lao
động với cơ chế hoạt động minh bạch, công bằng, hiệu quả, nên tạo nhiều
cơ hội, điều kiện khách quan cho người lao động trong việc tìm, tạo việc
làm, đã kích thích cầu về lao động và giảm sức ép về việc làm trong nền
kinh tế.
Trong điều kiện thực hiện các chính sách cho phát triển thị trường
lao động và với việc thực hiện xây dựng theo lộ trình về ngạch, bậc của
công chức, viên chức hành chính sự nghiệp ngày càng tăng, làm cho mức
độ chênh lệch về tiền lương giữa hành chính sự nghiệp và khu vực sản
xuất, kinh doanh, giữa các doanh nghiệp giảm.
Thực hiện đối với công tác di dân, tạo nên sự phát triển hợp lý của
NNL, bù đắp sự thiếu hụt về NNL trong nền kinh tế.
Trong việc thực hiện cải cách hành chính và thực hiện cơ chế, chính
sách để nhằm phát triển và hoàn thiện cơ cấu NNL
Tạo cơ hội và điều kiện cho các doanh nghiệp, người sử dụng lao
động, nhất là doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân phát triển sản
xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
Trong thực hiện chính sách phát triển tập trung vào các ngành kinh tế
mũi nhọn, trên cơ sở phát triển các doanh nghiệp lớn, khu công nghiệp tập
trung với kỹ thuật và công nghệ cao tạo nên mũi nhọn tăng trưởng, góp
phần tạo nhiều việc làm và ổn định việc làm cho người lao động.



22

Trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế và tạo việc làm ở nông thôn
Duy trì các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho
người lao động thông qua phát triển hoạt động của các tổ chức giới thiệu
việc làm, nâng cao hiệu quả của Quỹ quốc gia về việc làm.
Trong việc thực hiện chính sách phân bố lại lao động giữa các vùng
góp phần hoàn thiện cơ cấu NNL:
Trong việc thực hiện chính sách phát triển thị trường lao động đã
từng bước tạo cơ sở cho việc phát triển, hoàn thiện cơ cấu NNL trong nền
kinh tế.
Thể chế hóa và cụ thể hóa chiến lược việc làm thành quyết sách và
kế hoạch của Nhà nước; Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước hàng năm.
4.2.2. Phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội nhằm phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước

Thực hiện giải pháp này, cần phát huy vai trò thực hiện công bằng xã
hội trong việc nâng cao nhận thức toàn xã hội về việc phát triển NNL CLC.
Phát huy vai trò thực hiện CBXH nhằm thúc đẩy phát triển NNL
CLC, chúng ta cần phải thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Một là, thông qua các kênh thông tin đại chúng truyên truyền khác
nhau, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức đối với mọi người
dân và cho biết rõ những thông tin cần thiết về quan hệ cung - cầu NNL CLC
trên phạm vi từng tỉnh, từng thành phố và trên phạm vi toàn quốc.
Hai là, thực hiện tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân
về mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội về việc hình thành, đào
tạo và phát triển NNL CLC nhằm phục vụ yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước hiện nay.

Ba là, Đảng, Nhà nước cần xây dựng và đề ra chủ trương, chính sách
cụ thể tạo cơ chế, chính sách để nâng cao nhận thức toàn xã hội về tầm
quan trọng của việc phát triển NNL CLC và thực hiện phát triển nguồn lực
này phục vụ yêu cầu phát triển đất nước.
Phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội trong việc thực hiện phát
triển giáo dục, đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế nhằm phát triển NNL CLC:
Thực hiện nội dung giải pháp trên, cần tập trung một số nội dung cụ
thể sau: Thứ nhất, thực hiện đầu tư thỏa đáng cho giáo dục - đào tạo. Thứ
hai, cần có chính sách huy động vốn từ nhiều nguồn, từ ngân sách địa
phương, từ sự đóng góp của người học theo tiêu chí nhà nước và nhân dân
cùng làm, sự bảo trợ của các tổ chức xã hội; các cá nhân và viện trợ quốc
tế. Thứ ba, phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội trong việc thực


23

hiện đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục bậc cao nhằm phát triển NNL
CLC. Thứ tư, thực hiện công bằng xã hội trong việc thực hiện đổi mới
chính sách sử dụng, đãi ngộ đối với NNL CLC.
4.2.3. Phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội nhằm phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng thị trường lao động trong nước theo tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay

Phát huy vai trò thực hiện CBXH đối với việc thực hiện nhất quán
chính sách tuyển dụng và sử dụng NNL theo cơ chế thị trường. Cần phải
giải quyết những vấn đề: Nhà nước cần thực hiện bình đẳng, công bằng
trước pháp luật với mọi thành phần kinh tế trong việc tuyển dụng và sử
dụng lao động; Phát huy vai trò thực hiện CBXH để phát huy có hiệu quả
NNL trong hoạt động kinh tế, cần phải đảm bảo sự thống nhất trên cả 3

mặt: đào tạo , sử dụng, việc làm.
Bên cạnh vấn đề mang tính quốc gia, chiến lược lâu dài trên, cần chú
ý những giải pháp cụ thể, phát huy vai trò thực hiện CBXH trong thực hiện
gắn chặt chẽ giữa đào tạo, sử dụng, việc làm, với nội dung là: Đào tạo trực
tiếp theo nhu cầu doanh nghiệp; Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa
chỉ, đào tạo tại chỗ cho các vừng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; Nhà nước
cần có cơ chế quản lý chặt chẽ đội ngũ lao động đã được đào tạo trong
phạm vi cả nước.
Phát huy vai trò thực hiện CBXH trong việc nâng cao hiệu quả của
các chính sách đối với thị trường lao động, để từ đó nâng cao tính tích cực,
năng động của NNL, tăng cường sự thích ứng của lao động đối với mức
cầu về lao động, điều chỉnh sự cân bằng giữa cung - cầu lao động và thúc
đẩy sự di chuyển lao động để cân đối nguồn lực cho sự phát triển của các
vùng, lãnh thổ và của cả nước.
Phát huy vai trò thực hiện CBXH trong việc hoàn thiện và áp dụng
chính sách đối với sự phát triển của thị trường.
4.2.4. Xây dựng môi trường dân chủ trong kinh tế đảm bảo thực hiện công
bằng xã hội thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực trong thực tiễn kinh tế - xã hội

Vai trò động lực tạo điều kiện cho sự ổn định, phát triển xã hội của
vai trò thực hiện CBXH với việc phát triển NNL có được phát huy hiệu
quả cao hay không, hiệu quả của nó đạt được đến đâu….điều này phụ
thuộc rất lớn vào mức độ thực hiện dân chủ hóa mà nội dung, tính tích cực
của giải pháp đó tạo nên.
Do đó, thực hiện dân chủ trong đời sống xã hội là điều kiện cần thiết
để đảm bảo vai trò thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển của NNL
đi vào cuộc sống, trở thành nhân tố tích cực trong đời sống và từ đó mà
phát huy vai trò, tác dụng tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của việc thực
hiện CBXH với việc phát triển NNL, hướng đến mục tiêu tạo lập vai trò



×