Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.98 KB, 7 trang )

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự: Về quyền
của người bào chữa trong tố tụng hình sự: Người bào chữa và người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo đều là những người tham gia tố tụng hình sự, mặc
dù địa vị pháp lý của họ không như nhau nhưng khi tham gia tố tụng họ
lại có mối quan hệ ràng buộc “ tương đối” với nhau. Trong đó, người
bào chữa thực hiện một lúc hai nghĩa vụ: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và nghĩa vụ tôn trọng sự thật,
bảo vệ pháp luật. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là đối tượng của việc
điều tra, truy tố, xét xử, là người bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội, khi
tham gia tố tụng họ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
cho mình. Một bên cần gỡ tội hoặc giảm tội và một bên giúp bên kia
thực hiện mong muốn của mình, có thể họ tìm đến nhau bằng một hợp
đồng “ Dịch vụ pháp lý” hoặc bằng cách khác. Vậy người bào chữa thực
hiện nghĩa vụ của mình như thế nào để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của những người nhờ họ bào chữa cũng như bảo vệ sự thật và tôn
trọng sự thật khách quan? Do đó pháp luật TTHS đã quy định quyền của
người bào chữa để họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Theo khoản
1 Điều 58 BLTTHS thì: “ Ngưòi bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi
tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều
82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết
định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm
phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để
người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra”. Để tạo điều
kiện cho người bào chữa tham gia vào hoạt động tố tụng một cách thuận
lợi, khoản 2 Điều 58 quy định về quyền của người bào chữa, cụ thể như
sau: Người bào chữa có quyền. a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị
tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi
người tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác;
xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các
quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa. Việc người



bào chữa có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi
có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can bị cáo sẽ ổn định về
mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận
trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa thao dõi được quá trình
điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn
bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng sau này tại phiên toà. Người bào
chữ còn có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi Điều tra viên đồng ý
để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi
tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng
có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng có liên quan đến
người mà mình bao chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật,người
bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. b) Đề nghị Cơ
quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có
mặt khi hỏi cung bị can”. c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này. Người
bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc
nhũng người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng
không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này
hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ bị
can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. đ) Đưa ra
tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người
bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người làm
chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi
cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng
quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa. e) Gặp người

bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Người bào chữa phải


thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm
nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào
chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được các tình tiết gỡ
tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao
đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề về pháp luật và cũng có thể
tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo lam cho họ có thái độ khai
báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. g) Đọc, ghi
chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào
chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Thông qua
việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung vụ
án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người
được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào
chữa, tham gia tranh tụng phiên toà. Qua việc đọc hồ sơ, tài liệu của vụ
án, người bào chữa cũng có điều kiện phát hiện những sai lầm, thiếu sót,
vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những
yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền. h) Tham gia
hỏi, tranh luận tại phiên toà. Tại phiên toà xét xử vai trò của người bào
chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và
những người khác về vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo
hướng có lới cho bị cáo. Khi tranh luận, người bào chữa phải phân tích,
lập luận, đưa ra lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị
cáo. i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án
nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có khuyết điểm về tâm
thần hoặc thể chất theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS.
Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo

không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị
cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo. 2.
Về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự: Khoản 3 Điều 58


BLTTHS quy định về nghĩa vụ của người bào chữa, cụ thể như sau: a)
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố
tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào
chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan
tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của
Bộ luật này. b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. c) Không được từ chối
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào
chữa, nếu không có lý do chính đáng. d) Tôn trọng sự thật và pháp luật;
không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo
gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. đ) Có mặt theo giấy triệu tập của
Toà án. e) Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biếtđược khi thực
hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp
trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Người bào chữa làm
trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi Giấy
chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo
quy định của pháp luật. V. Người bào chữa trong tố tụng hình sự trong
thực tiễn hiện nay: 1. Những yếu tố tích cực: a) Về mặt quy định của
pháp luật: So với BLTTHS 1998 thì BLTTHS 2003 có những tiến bộ rất
cơ bản, đó là: Thứ nhất, theo Điều 56 của Bộ luật này thì người bào chữa

được tham gia bào chữa từ khi khởi tố vụ án. Trước đây ở BLTTHS cũ
cũng đã quy định nhưng cái mới lần này người bào chữa có thể tham gia
bào chữa cho người bị tạm giữ, chưa bị khởi tố. Trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt giữ cũng được nhờ người bào chữa. Hai là, BLTTHS
lần này có quy định cho người bào chữa được thu thập các tài liệu,


chứng cứ từ bị can, bị cáo, từ người thân thích của họ hoặc từ cơ quan
nhà nước để cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng. Những thứ đó nếu
đúng với sự thật khách quan thì cũng được công nhận như các chứng cứ
khác mà cơ quan tiến hành tố tụng thu thập. Đây cũng là một điểm rất
tiến bộ vì trước đây người bào chữa đưa ra các tài liệu, chứng cứ ít được
chú trọng, xem xét. Tiến bộ thứ ba là người bào chữa được không những
chỉ là ghi chép những điều cần thiết trong hồ sơ như BLTTHS cũ mà còn
được sao chụp những tài liệu cần thiết phục vụ cho việc bào chữa của
mình. Một tiến bộ nữa của BLTTHS 2003 là việc bắt buộc phải chỉ định
người bào chữa. Trước đây có một bất hợp lý là khi toà án xử vị thành
niên mà không có người bào chữa tham gia bào chữa thì coi như bản án
đó là vô hiệu. Nhưng khi cơ quan điều tra hỏi cung các vị thành niên thì
không có ai là người giám hộ, chứng kiến, bào chữa thì bản cung vẫn có
giá trị pháp lý. Các bản cung được các cơ quan tiến hành tố tụng coi là
căn cứ để buộc tội hoặc gỡ tội. BLTTHS mới quy định rất rõ, kể cả ở ba
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử phải có sự tham gia của người bào
chữa đối với ba đối tượng: vị thành niên; người bị ghép vào khung hình
phạt có mức án tử hình; những người có khuyết tật về thể chất hoặc tinh
thần. Cơ quan điều tra hỏi cung bị can là vị thành niên, người có khuyết
tật mà không có luật sư bào chữa, người bảo lãnh, người làm chứng thì
coi như bất hợp pháp. b. Về bản thân người bào chữa: _ Số vụ án có
người bào chữa tham gia ngày càng tăng so với những năm trước đây.
Điều này phản ánh được chất lượng của đội ngũ người bào chữa cũng

như sự nhận thức tiến bộ của nhân dân. _ Mặc dù còn nhiều khó nhăn
nhưng sự tham gia của người bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự
góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án giải quyết các vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ,
tránh được việc chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội mà không xem xét
chứng cứ gỡ tội _ Việc tham gia tố tụng của người bào chữa nói chung


đã đáp ứng được yêu cầu bào chữa và đạt được kết quả đáng khích lệ,
khắc phục được những vi phạm tố tụng, làm rõ sự thật khách quan, đảm
bảo cho việc xét xử của Toà án được tiến hành đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, loại trừ dần yếu tố lạm dụng quyền trong việc áp dụng
pháp luật và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Cơ quan tiến hành tố
tụng hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh. _ Hơn nữa,
sự có mặt của người bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự giúp Cơ
quan tiến hành tố tụng sửa chữa những thiếu xót, kịp thời khắc phục
những sai lầm. 2. Những yếu tố còn hạn chế: Bên cạnh những yếu tố tích
cực của vấn đề người bào chữa trong tố tụng hình sự vẫn còn tồn đọng
những hạn chế, vướng mắc cần tháo gỡ. Đầu tiên phải nói đến các quy
định của pháp luật về người bào chữa. Đó là sự hạn chế trong việc cấp
Giấy chứng nhận cho người bào chữa trong BLTTHS. Thủ trưởng, Phó
thủ trưởng cơ quan điều tra cấp và thời hạn cấp ít nhất là trong 3 ngày
phải cấp ( khoản 4 Điều 56). Trong khi đó, những người bị tạm giữ cũng
chỉ có trong 3 ngày. Nếu vụ việc phức tạp thì thời hạn tạm giữ có thể gia
hạn thêm 3 ngày ( thành 6 ngày). Trong 3 ngày hoặc 6 ngày ầy, người
bào chữa có thể tham gia làm chứng, bào chữa, bênh vực cho người bị
tạm giữ. Một câu hỏi đặt ra là cơ quan tiến hành tố tụng có nên tạo cơ
chế thoáng hơn cho người bị tạm giữ thực hiện quyền của mình một
cách thuận lợi hơn? Thêm vào đó, những người tiến hành tố tụng thông

thường ngại có sự tham gia của người bào chữa. họ ngại vì mất thời gian
chưa kể đến động cơ này, động cơ khác. Hay tình trạng lạm quyền của
những người tiến hành tố tụng vẫn còn tồn tại. Xin được đưa ra một ví
dụ: Căn cứ vào đơn yêu cầu Văn phòng luật sư Pháp Quyền giúp đỡ
pháp lý vào ngày 14/5/2008 của thân nhân 7 bị can: Đặng Tiến Thông,
Đỗ Thị Mai, Dương Thanh Trúc, Lưu Quốc Luân, Nguyễn Anh Tuấn,
Nguyễn Nam Biền, Nguyễn Văn Năng trong vụ án hình sự “ Gây rối trật
tự công cộng” xảy ra tại Quận 9, TP Hồ Chí Minh. Văn phòng luật sư
Pháp Quyền đã cử 3 Luật sư gồm: Lê Trần Luật, Nguyễn Quốc Minh,


Nguyễn Đình Thái Hùng tiến hành các thủ tục tham gia bào chữa cho
các bị cáo có tên nêu trên. Vào ngày 28/5/2008, ba người đã đến Nhà
tạm giữ CA Quận 9 để xin gặp mặt bị can. Tuy nhiên, Ông Nguyễn
Minh Luân là Phó trưởng CA Quận 9 kiêm Trưởng Nhà tạm giữ không
chấp nhận họ gặp mặt các bị can và bát buộc họ muốn gặp thì phải có
Kiểm sát viên đi cùng. Quyết định của Ông Luân đã vi phạm pháp luật
TTHS quy định tại Điều 37 và điểm e khoản 2 Điều 58. Phải chăng đây
không phải là sụ lạm quyền của người tiến hành tố tụng? Không thể phủ
nhận quá trình tranh tụng tại các phiên toà trong thời gian qua đã đạt
được nhất định, tạo sự công bằng và nâng cao vị thế của các cơ quan bảo
vệ pháp luật. Tuy nhiên, nhìn trên diện rộng thì vấn đề tranh tụng vẫn
đang còn ở dạng bỏ ngõ ở cả về phương diện pháp luật, cả về phương
diện người bào chữa. Mặt khác, trình độ pháp luật của người dân đang
còn nhiều hạn chế. Họ chưa có thói quen nhờ người bào chữa và chưa
thấy rõ vai trò của người bào chữa trong các vụ án hình sự. Cũng có
nhiều người biết việc nhờ người bào chữa có lợi cho mình nhưng lại
không có tiền hoặc sợ tốn kém. Về phía những người bào chữa, bên cạnh
những thành công đã đạt được, bản thân họ cũng bộc lộ những hạn chế
nhất định. _ Đại đa số những người bào chữa đã tích cực sử dụng những

biện pháp được pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng cũng không ít những
người bào chữa đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách hình thức, qua
loa đặc biệt là những trường hợp bào chữa chỉ định. Việc không coi
trọng bào chữa chỉ định và thiếu trách nhiệm của người bào chữa trong
những trường hợp này không mang lại hiệu quả. Ví dụ: Bị cáo Nguyễn
Đức Thắng( có nhược điểm về tinh thần) bi truy tố về tội giết người.
Luật sư đến muộn đã thao thao bất tuyệt bào chữa cho Thắng phạm tội
cướp tài sản ở tuổi chưa thành niên. Khi bị Chủ toạ phiên toà nhắc nhở
Luật sư mới biết nhằm



×