Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Biến đổi khuôn mẫu ứng xử trong gia đình người việt (nghiên cứu trường hợp tại xã an cầu huyện quỳnh phụ tỉnh thái bình) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.33 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH HUYỀN

BIẾN ĐỔI KHUÔN MẪU ỨNG XỬ TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT
(Nghiên cứu trường hợp tại xã An Cầu huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 62310301

LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Ngọc Văn

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Ngọc Văn
Phản biện 1: GS.TS. Đặng Cảnh Khanh
Phản biện 2: PGS.TSKH. Bùi Quang Dũng
Phản biện 3: PGS.TS. Trịnh Văn Tùng

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại :
Học viện Khoa học xã hội
Vào hồi… .giờ……phút,ngày…tháng….năm


Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện trường Đại học Lao động – Xã hội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thanh Huyền ( 2014), “ Nhận xét bước đầu về khuôn mẫu ứng xử trong
gia đình người Việt hiện nay ( Qua cuộc khảo sát tại Thái Bình)” , Tạp chí Gia đình
và Giới (4)
2. Nguyễn Thanh Huyền ( 2016), “ Khuôn mẫu ứng xử vợ chồng trong gia đình qua
nghiên cứu tài liệu trong và ngoài nước”, Tạp chí Gia đình và Giới (3)
3. Nguyễn Thanh Huyền ( 2016), “Một số quan điểm nghiên cứu về khuôn mẫu ứng
xử giữa các thế hệ trong gia đình”, Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội (6)


1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là thiết chế có lịch sử lâu đời nhất của xã hội loài người và khuôn
mẫu ứng xử (KMUX) trong gia đình cũng cổ xưa như gia đình vậy. Gia đình là một
tập hợp người có những đặc trưng về giới tính, lứa tuổi, tâm sinh lý, vị trí, vai trò,
quyền lực khác nhau, tương tác với nhau trong một không gian văn hóa đặc thù cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng chia sẻ những giá trị vật chất, tinh thần,
tâm linh… trên cơ sở của các mối quan hệ hôn nhân và huyết thống - các thành viên
của gia đình không ứng xử với nhau một cách ngẫu nhiên, tùy tiện mà tuân theo
những quy tắc chung. Những quy tắc đó được lặp đi lặp lại trong suy nghĩ và hành
động của nhiều người, trải qua nhiều thế hệ, lâu dần sẽ trở thành các KMUX hay
văn hóa ứng xử.
Khuôn mẫu ứng xử trong gia đình được thể hiện thông qua những mối quan hệ
giữa các thành viên và các thế hệ của gia đình như quan hệ giữa vợ và chồng, giữa
ông bà/cha mẹ và con cháu... Mỗi mối quan hệ này lại chứa đựng trong nó hàng loạt

các nghi thức, cách thức giao tiếp, bao gồm cả những nghi thức thông thường, xã
giao, tự nguyện và nghi thức có tính bắt buộc. Các cách ứng xử này tạo thành hệ
thống các KMUX mà các thành viên gia đình phải tuân thủ tùy thuộc vào vị trí, vai
trò, tình cảm của các cá nhân trong các mối quan hệ. Khuôn mẫu ứng xử gia đình
được hình thành trong những điều kiện sống nhất định và được tiếp nối từ thế hệ
này qua thế hệ khác, nhưng nó không nhất thành bất biến mà thay đổi khi điều kiện
sống thay đổi.
Ở Việt Nam, khuôn mẫu/văn hóa ứng xử gia đình đã hình thành, tồn tại và
biến đổi trải qua nhiều thời đại lịch sử khác nhau. Từ hình thái gia đình mẫu quyền
đề cao quyền lực của người phụ nữ trước thời đại Hùng Vương, đến chế độ phụ hệ
với sự thống trị của người đàn ông trong gia đình dưới các triều đại phong kiến ảnh
hưởng văn hóa Nho giáo. Tiếp theo đó là gia đình một vợ một chồng ảnh hưởng văn
hóa phương Tây, và ngày nay là ảnh hưởng của văn hóa toàn cầu hóa. Sự tiếp xúc
với các nền văn hóa khác nhau dẫn đến sự học hỏi, vay mượn nhiều nét đặc trưng
của các nền văn hóa đó.
Trong phạm vi gia đình, sự giao lưu tiếp xúc văn hóa một mặt giúp cho gia
đình loại bỏ được những khuôn mẫu văn hóa lạc hậu, tiếp thu và sáng tạo ra những
1


khuôn mẫu văn hóa mới; nhưng mặt khác, có thể dẫn đến sự lai căng hay lệch lạc về
văn hóa. Đây không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề thực tiễn đặt ra trong đời
sống gia đình khi mà văn hóa ứng xử trong xã hội nói chung, trong gia đình nói
riêng đang vận động và biến đổi dưới tác động của công nghiệp hóa (CNH), hiện
đại hóa (HĐH), kinh tế thị trường (KTTT) và hội nhập quốc tế (HNQT).
Rõ ràng đây là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu từ góc nhìn xã hội học,
trước hết là xã hội học gia đình. Tuy nhiên, trên bình diện khoa học, việc nghiên
cứu về khuôn mẫu/văn hóa ứng xử gia đình lại chưa theo kịp nhu cầu nhận thức lý
luận và sự thay đổi đang diễn ra trong cuộc sống. Phần lớn các nghiên cứu mà
chúng ta biết được mới chỉ dừng lại ở việc mô tả chung chung, chưa đi sâu nghiên

cứu một cách có hệ thống về các hợp phần của KMUX gia đình, cũng như những
biến đổi của KMUX trong gia đình, chỉ ra sự vận hành của văn hóa ứng xử trong
gia đình hiện nay có ảnh hưởng gì đến mục tiêu phát triển gia đình và xã hội bền
vững mà Đảng và Nhà nước đang đặt ra.
Làm rõ những vấn đề này cũng đồng nghĩa với việc cung cấp một bức tranh
khái quát về những thay đổi đang diễn ra trong văn hóa ứng xử gia đình và những
luận cứ khoa học cho việc định hướng xây dựng khuôn mẫu văn hóa gia đình Việt
Nam thích ứng với thời kỳ CNH, HĐH, HNQT hiện nay và thời gian sắp tới.
Từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài: “Biến đổi khuôn mẫu ứng xử trong
gia đình người Việt (Nghiên cứu trường hợp xã An Cầu, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh
Thái Bình) cho luận án nghiên cứu sinh của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện KMUX và xu hướng biến đổi KMUX trong gia đình người Việt
hiện nay; qua đó, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc định hướng xây dựng
khuôn mẫu văn hóa ứng xử gia đình Việt Nam thích ứng với thời kỳ CNH, HĐH,
HNQT.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đã nêu, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Tổng quan vấn đề nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
2


- Làm rõ cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài, bao gồm việc
định nghĩa và thao tác hóa khái niệm, các cách tiếp cận lý thuyết nghiên cứu đề tài,
xác định rõ phương pháp nghiên cứu đề tài.
- Trình bày một số nét khái quát về khuôn mẫu/văn hóa ứng xử của gia đình
Việt Nam tuyền thống.
- Mô tả và phân tích các hợp phần cơ bản của KMUX và xu hướng biến đổi

của KMUX trong gia đình người Việt hiện nay qua kết quả khảo sát.
- Đề xuất một số khuyến nghị xây dựng KMUX trong gia đình người Việt
trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khuôn mẫu ứng xử trong gia đình của người Việt. Cụ thể, đó là KMUX giữa
vợ và chồng và KMUX giữa các thế hệ trong gia đình, bao gồm KMUX giữa cha
mẹ với con cái vị thành niên và KMUX giữa con cháu với người cao tuổi.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận án này là các cá nhân đại diện cho các hộ gia
đình. Cụ thể là phụ nữ và nam giới đang sống trong các hộ gia đình thuộc các nhóm
tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, mức sống khác nhau, cộng đồng nơi cá nhân
sinh sống.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: nghiên cứu trường hợp tại xã An Cầu, huyện Quỳnh
Phụ, tỉnh Thái Bình
- Phạm vi về thời gian: Luận án xem xét nghiên cứu sự biến đổi từ xã hội nông
nghiệp truyền thống đến nay.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu ở việc mô
tả thực trạng và xu hướng biến đổi KMUX của người Việt ở đồng bằng châu thổ
sông Hồng (trường hợp tại xã An Cầu huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình). Cụ thể, đề
tài tiến hành nghiên cứu hai hợp phần cơ bản của KMUX trong gia đình:
1. Nghiên cứu KMUX giữa vợ và chồng.
2. Nghiên cứu KMUX giữa các thế hệ trong gia đình.

3


4. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án cung cấp một sự hiểu biết tương đối có hệ thống về các khuôn mẫu

ứng xử và xu hướng biến đổi khuôn mẫu ứng xử trong gia đình người Việt dưới tác
động của biến đổi kinh tế - xã hội.
-Về giá trị khoa học
Thứ nhất, luận án cung cấp những bằng chứng lý thuyết và thực nghiệm cho
việc xây dựng các giải pháp nhằm xây dựng những chuẩn mực văn hóa mang ý
nghĩa điều chỉnh các hành vi xã hội, hướng hành vi xã hội đến sự biểu hiện văn hóa,
giúp con người nhận thức được sắc thái văn hóa cá nhân và cộng đồng thông qua
các ứng xử xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận án tạo cơ sở cho việc định hướng hành vi
cho các cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội, cho việc xây dựng văn hóa ứng xử
trong gia đình.
Thứ ba, luận án cung cấp cơ sở luận cứ khoa học, thực tiễn cho các cơ quan
hoạch định chính sách.
-Về giá trị thực tiễn
Thứ nhất, luận án góp phần xây dựng và hoàn thiện khái niệm khuôn mẫu ứng
xử trong gia đình Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, luận án vận dụng một số luận điểm cơ bản của lý thuyết hiện đại hóa,
lý thuyết biến đổi xã hội và tiếp biến văn hóa, lý thuyết cấu trúc – chức năng vận
dụng giải thích sự vận hành và biến đổi của KMUX trong gia đình Việt Nam hiện
nay. Từ đó, kiểm nghiệm tính đúng đắn của các lý thuyết này trong điều kiện của xã
hội Việt Nam( trường hợp tại xã An Cầu – Quỳnh Phụ - Thái Bình).
5. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, từ viết
tắt, danh mục các bảng biểu, danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu
có liên quan đến đề tài luận án của tác giả... Nội dung luận án gồm có 5 chương
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Khuôn mẫu ứng xử và cơ sở kinh tế - xã hội hình thành khuôn
mẫu ứng xử trong gia đình Việt Nam truyền thống
Chương 4: Xu hướng biến đổi khuôn mẫu ứng xử giữa vợ và chồng trong gia đình

Chuơng 5: Xu hướng biến đổi khuôn mẫu ứng xử giữa các thế hệ trong gia đình
4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.2. Các nghiên cứu có liên quan đến khuôn mấu ứng xử giữa vợ và chồng
Ứng xử giữa vợ và chồng là một bộ phận hợp thành của KMUX trong gia
đình. Nó được biểu hiện thông qua các mối quan hệ trong đời sống tâm lý tình cảm,
trong phân công lao động và quyền lực giữa vợ chồng trong gia đình. Trong các
nghiên cứu về biến đổi gia đình, KMUX vợ chồng thường được mô tả theo chiều
hướng có sự biến đổi từ các khuôn mẫu mang tính chất bất bình đẳng trong xã hội
nông nghiệp truyền thống sang các khuôn mẫu bình đẳng hơn trong xã hội công
nghiệp và hiện đại.
1.2.1. Khuôn mẫu ứng xử trong đời sống tâm lý tình cảm vợ chồng
Giao tiếp là hoạt động không thể thiếu trong đời sống vợ chồng. Ngoài việc
truyền đạt thông tin, giao tiếp còn có ý nghĩa biểu cảm. Các nghi thức, cách thức
giao tiếp thể hiện tính chất của mối quan hệ vợ chồng. Báo cáo cho thấy trong gia
đình người Việt hiện đại còn bảo lưu nhiều khuôn mẫu/mô hình giao tiếp truyền
thống, nhưng đã xuất hiện những mô hình giao tiếp mới trong quan hệ vợ chồng.
Tình yêu vợ chồng là một trong những yếu tố quan trọng để duy trì hạnh phúc
và sự bền vững của mối quan hệ vợ chồng. Bởi vì người ta có thể có đầy đủ điều
kiện vật chất cho cuộc sống gia đình nhưng không hẳn vì thế mà đã có hạnh phúc
thật sự nếu thiếu tình yêu. Tình yêu vợ chồng thường có nguồn gốc từ tình yêu đôi
lứa trước hôn nhân và là sự tiếp tục của tình yêu đôi lứa trước hôn nhân. Nhưng
không có nghĩa là có tình yêu đôi lứa trước hôn nhân thì sẽ có tình yêu vợ chồng và
có khi chưa có tình yêu đôi lứa đi trước nhưng vẫn có tình yêu vợ chồng.
Sự chung thủy và đời sống tình dục vợ chồng: Chung thủy vợ chồng theo
nghĩa rộng là trước sau như một, không thay lòng đổi dạ. Còn theo nghĩa hẹp là sự
không chia sẻ tình dục với người khác ngoài vợ hoặc chồng của mình. Sự chung

thủy trong quan hệ tình dục vừa là một nhu cầu tự thân của những người yêu nhau,
vừa được điều chỉnh bằng quan hệ xã hội, bao gồm cả quan hệ đạo đức và quan hệ
pháp luật.
Quan hệ tình dục có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống vợ chồng. Ngoài
mục đích sinh đẻ, duy trì nòi giống, hoạt động này còn có ý nghĩa trong việc thể
hiện tình yêu, thỏa mãn nhu cầu tình cảm và là yếu tố tạo nên hạnh phúc và sự bền
vững của gia đình.
5


1.2.2. Khuôn mẫu ứng xử vợ chồng trong phân công lao động
Phân công lao động giữa vợ và chồng hay phân công lao động theo giới trong
gia đình được coi là hình thức phân công lao động đầu tiên của lịch sử phân công
lao động xã hội. Nó bắt nguồn từ sự khác biệt về vai trò giới tính của nam và nữ
trong việc duy trì nòi giống.
Các kết quả điều tra nghiên cứu trong phạm vi cả nước cũng như giữa các
vùng miền, các tộc người và các loại hình gia đình khác nhau đều cho thấy hình
thức phân công lao động theo giới vẫn còn khá phổ biến. Phụ nữ vẫn là người đảm
nhận chính các công việc tái sản xuất bên trong gia đình, bao gồm công việc nội trợ,
nuôi dưỡng chăm sóc trẻ nhỏ, chăm sóc người già, người ốm và các thành viên khác
của gia đình. Đàn ông là người đảm nhận nhiều hơn các hoạt động bên ngoài gia
đình, bao gồm công việc sản xuất kinh doanh, kiếm tiền, giao tiếp và hoạt động xã
hội.
1.2.3. Khuôn mẫu ứng xử quyền lực vợ chồng trong gia đình
Quyền lực của vợ chồng trong gia đình là khả năng người này gây ảnh hưởng
đến người kia thể hiện thông qua việc đưa ra các quyết định liên quan đến đời sống
gia đình. Quyền lực vợ chồng là một trong những mối quan hệ rất cơ bản của thiết
chế gia đình do đó đã có nhiều thảo luận cả lý luận và thực tiễn về chủ đề này.
1.3. Các nghiên cứu có liên quan đến khuôn mẫu ứng xử giữa các thế hệ
trong gia đình

Quan hệ giữa các thế hệ là mối quan hệ hết sức cơ bản của gia đình. Nếu như
quan hệ vợ chồng là mối quan hệ theo chiều ngang thì quan hệ giữa các thế hệ là
quan hệ theo chiều dọc. Mối quan hệ giữa các thế hệ lại có thể được phân chia thành
hai loại khác nhau, đó là quan hệ giữa cha mẹ với con cái và quan hệ giữa con cháu
với người cao tuổi. Mỗi loại quan hệ này đều có đặc điểm riêng và chứa trong đó
những KMUX đặc thù.
1.3.1. Khuôn mẫu ứng xử giữa cha mẹ và con cái
Khuôn mẫu/mô hình ứng xử giữa cha mẹ và con cái đã được quan tâm nghiên
cứu từ các góc nhìn khác nhau như tâm lý học, giáo dục học, xã hội học. Mỗi lĩnh
vực nghiên cứu có những cách phân chia mô hình ứng xử cha mẹ con cái theo
những cách nhìn khác nhau.
1.3.2. Khuôn mẫu ứng xử giữa con cháu với người cao tuổi

6


Hai khuôn mẫu nổi bật trong cách ứng xử giữa con cháu với người cao tuổi
trong gia đình Việt Nam truyền thống là “kính trên nhường dưới” và “cha từ con
hiếu”. Khác với các KMUX giữa cha mẹ đối với con cái VTN và KMUX giữa vợ
chồng mang nặng tính chất độc đoán gia trưởng, KMUX giữa con cháu với người
người cao tuổi là một sự tương tác hai chiều. Cha mẹ, ông bà được con cháu yêu
thương, kính trọng, hiếu thảo nhưng họ cũng dành cho con cháu tình cảm nhân từ
và sự bao dung. Một số tác giả đã làm rõ nội dung của các KMUX này.
1.4. Một số nhận xét và định hướng nghiên cứu của đề tài
Cần khẳng định là có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến KMUX và
KMUX trong gia đình. Có nhiều định nghĩa về KMUX, khái niệm này đã được các
tác giả trong và ngoài nước trình bày khá rõ ràng. Đây là thành tựu rất quan trọng
mà đề tài cần tiếp thu và vận dụng trong nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, khái niệm
KMUX trong gia đình cũng như các hợp phần nghiên cứu của KMUX trong gia
đình thì hầu như chưa được các tác giả đi trước quan tâm nghiên cứu đầy đủ. Do

chưa xây dựng được khái niệm “KMUX trong gia đình” cho nên các nghiên cứu
chưa có cơ sở đi sâu mô tả và phân tích về KMUX bên trong gia đình như KMUX
vợ chồng, KMUX thế hệ trong giá đình, chưa gọi tên được các KMUX trong gia
đình là gì; cũng như chưa xây dựng được các hợp phần trong một chỉnh thể thống
nhất nghiên cứu về văn hóa ứng xử trong gia đình. Đây là nhiệm vụ mà đề tài cần
phải làm rõ, cụ thể là đề tài cần tiến hành định nghĩa khái niệm và thao tác hóa khái
niệm KMUX trong gia đình. Trên cơ sở đó, xác định các hợp phần và phạm vi nội
dung nghiên cứu về KMUX trong gia đình Việt Nam.
Cũng cần phải nói thêm, ngoài việc chưa có tác giả nào gọi tên và định nghĩa
rõ ràng khái niệm “khuôn mẫu ứng ứng xử trong gia đình” và việc vận dụng các lý
thuyết để nghiên cứu KMUX trong gia đình cũng chưa được đặt ra trong nghiên cứu
được các tác giả đi trước. Điều này là hoàn toàn có thể giải thích được, bởi vì, như
tôi đã nói, những nội dung nghiên cứu có liên quan đến KMUX trong gia đình, phần
lớn được tách ra từ các nghiên cứu về biến đổi gia đình nói chung, cụ thể là các
nghiên cứu liên quan đến biến đổi chức năng, cấu trúc, các mối quan hệ gia đình.
Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu riêng về biến đổi KMUX trong gia
đình. Do đó, việc lựa chọn và vận dụng các lý thuyết để tiến hành nghiên cứu về
KMUX trong gia đình là nhiệm vụ tiếp theo của đề tài này.

7


Như trên đã nói, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu riêng về biến đổi
KMUX trong gia đình. Trong tổng quan này, KMUX trong gia đình được tôi chắt
lọc từ nhiều nghiên cứu đơn lẻ thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau như tâm lý
học, dân tộc học, nhân học, luật học, văn hóa học, xã hội học... Đây là những tư liệu
rất quý giá. Tuy nhiên, đó chỉ là tập hợp những tư liệu có tính chất tham khảo. Vì
thế, trên cơ sở tiếp thu các kết quả nghiên cứu đã có, đề tài có nhiệm vụ cung cấp
một sự hiểu biết tương đối có hệ thống về KMUX trong gia đình Việt Nam. Nhiệm
vụ này, đòi hỏi đề tài phải làm rõ, nói cách khác là phải hệ thống hóa được một số

đặc điểm quan trọng của KMUX trong gia đình Việt Nam truyền thống làm cơ sở
xuất phát điểm để chỉ ra sự vận hành và biến đổi của KMUX trong gia đình Việt
Nam hiện đại dưới tác động của những biến đổi kinh tế xã hội, của quá trình CNH,
HĐH và HNQT.
Về phương pháp nghiên cứu, một số tác giả dựa trên sự chiêm nghiệm của
bản thân cung cấp cho người đọc những tri thức chung (như Phan Kế Bính, Đào
Duy Anh, Toan Ánh,...). Một số tác giả dựa trên các các quan sát thực tế cũng như
các sự kiện lích sử, phong tục tập quán quan sát được, đưa ra những nhận định có
tính chất định tính, không chú trọng về mặt định lượng (như Từ Chi, Trần Quốc
Vượng, Insun Yu...). Sự thiếu vắng cách tiếp cận định lượng không khỏi gây khó
khăn cho người đọc trong việc nhận thức về mức độ phổ biến hay không phổ biến
của hiện tượng cũng như sự khác biệt giữa các nhóm xã hội về hiện tượng được
nghiên cứu. Trong những thập kỷ gần đây, ở nước ta đã có nhiều nghiên cứu thực
nghiệm về mặt định lượng nhưng cũng chưa có công trình nghiên cứu thực nghiệm
nào riêng về KMUX trong gia đình.
Từ thực tế trình bày trên đây, tôi đề xuất nghiên cứu đề tài Biến đổi khuôn mẫu
ứng xử trong gia đình người Việt. Nghiên cứu này là sự tiếp nối kết quả nghiên cứu
của các tác giả đi trước, bổ sung và mở rộng kết quả nghiên cứu đã có. Cách tiếp
cận của tôi là dựa trên ngiên cứu xã hội học thực nghiệm. Nghiên cứu tập trung vào
hai hợp phần chủ yếu là KMUX giữa vợ và chồng và KMUX giữa các thế hệ qua
nghiên cứu chọn mẫu tại một xã và một phường của tỉnh Thái Bình,chúng tôi hy
vọng sẽ cung cấp một sự hiểu biết tương đối có hệ thống về chủ đề KMUX trong
gia đình của người Việt.

8


Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận

2.1.1. Một số khái niệm làm việc
2.1.1.1. Khái niệm gia đình, gia đình Việt Nam truyền thống
Gia đình
Gia đình Việt Nam truyền thống
2.1.1.2. Khái niệm ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, khuôn mẫu ứng xử trong gia
đình
Ứng xử
Khuôn mẫu ứng xử
Khuôn mẫu ứng xử trong gia đình
2.1.2. Thao tác hóa Khái niệm “Khuôn mẫu ứng xử trong gia đình”
Biến đổi xã hội
Biến đổi khuôn mẫu ứng xử
Biến đổi KMUX trong gia đình
2.2. Các cách tiếp cận lý thuyết của đề tài
Để triển khai đề tài, tác giả dựa vào hai lý thuyết: lý thuyết biến đổi và tiếp
biến văn hóa và lý thuyết hiện đại hóa.
2.2.1. Lý thuyết biến đổi và tiếp biến văn hóa
2.2.2. Lý thuyết hiện đại hóa (Modernization theory)
2.2.3. Lý thuyết cấu trúc – chức năng
2.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
2.3.1.Phương pháp luận
Luận án vận dụng và sử dụng hệ thống các khái niệm công cụ và các nguyên
lý cơ bản của lý thuyết hiện đại hóa, lý thuyết tiếp biến và biến đổi xã hội, lý thuyết
cấu trúc chức năng trong bối cảnh xã hội và gia đình đang thay đổi nhanh chóng.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu
2.3.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn
2.3.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu
9



2.3.2.3. Phương pháp thảo luận nhóm
2.3.2.4. Phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi
2.3.2.4.1.. Chuẩn bị bảng hỏi
2.3.2.4.2. Chọn mẫu khảo sát
2.2.4..2. Thu thập, xử lý và phân tích số liệu
2.4. Sơ lược vài nét về địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành khảo sát tại xã An Cầu (Huyện Quỳnh Phụ - Tỉnh
Thái Bình). Xã có 04 thôn là thôn Tư Cương; Trung Châu Đông, Trung Châu Tây,
và thôn Lương Cầu. Tổng số dân của xã hiện nay là 5725 người.

10


Chương 3
KHUÔN MẪU ỨNG XỬ TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM
TRUYỀN THỐNG
3.1.Sự hình thành khuôn mẫu ứng xử trong gia đình Việt Nam truyền
thống
Khuôn mẫu ứng xử trong gia đình Việt Nam truyền thống có thể được hiểu là
hệ thống các khuôn mẫu chi phối hành vi ứng xử giữa các thành viên trong gia
đình truyền thống trước đây. Đó là cách ứng xử giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và
con cái, giữa các anh chị em với nhau, giữa con cháu với ông bà, tổ tiên, giữa gia
đình với họ hàng, làng xóm và xã hội. Những cách ứng xử này được mọi thành
viên trong gia đình coi là đúng, được lặp đi lặp lại nhiều lần, và được trao truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, lâu dần trở thành phong tục, tập quán. Những phong
tục, tập quán này thấm sâu vào từng tế bào gia đình, trở thành truyền thống văn
hóa. Các thành viên và các thế hệ trong gia đình tiếp thu truyền thống văn hóa đó
một cách tự nhiên, tự nguyện và coi đó là thước đo cho các ứng xử của mình.
3.2. Những biểu hiện của khuôn mẫu ứng xử trong gia đình Việt Nam
truyền thống

Dựa vào những nguồn tư liệu có được, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên
cứu trong việc trình khái quát về những biểu hiện của KMUX trong gia đình Việt
Nam truyền thống ở hai nội dung chính, đó là KMUX trong các mối quan hệ giữa
vợ và chồng và KMUX trong quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình.
3.2.1. Khuôn mẫu ứng xử giữa vợ và chồng
KMUX vợ chồng được thể hiện ở các lĩnh vực: đời sống tâm lý tình cảm,
phân công lao động và quyền lực trong gia đình.
3.2.1.1. Khuôn mẫu ứng xử vợ chồng trong đời sống tâm lý tình cảm
Các khía cạnh chủ yếu trong đời sống tâm lý tình cảm vợ chồng gồm có:
giao tiếp vợ chồng, tình cảm và sự chung thủy vợ chồng.
3.2.1.2. Khuôn mẫu ứng xử vợ chồng trong phân công lao động
Phân công lao động giữa vợ và chồng hay phân công lao động theo giới trong
gia đình được coi là hình thức phân công lao động đầu tiên của lịch sử phân công
lao động xã hội.
11


3.2.1.3. Khuôn mẫu ứng xử vợ chồng trong quan hệ quyền lực
Nếu như quan hệ quyền lực giữa vợ và chồng trước hết dựa vào vai trò kinh
tế của người vợ và người chồng trong gia đình, thì trong gia đình Việt Nam truyền
thống, phụ nữ có vai trò đáng kể trong kinh tế. Phụ nữ không chỉ ngang bằng với
chồng trong sản xuất là lúa gạo mà còn là người tạo ra một phần rất lớn thu nhập
bằng tiền mặt của gia đình.
3.2.2. Khuôn mẫu ứng xử giữa các thế hệ trong gia đình
Nếu như quan hệ vợ chồng là mối quan hệ theo chiều ngang thì quan hệ giữa
các thế hệ là quan hệ theo chiều dọc. Trong gia đình truyền thống, quan hệ theo
chiều dọc là mối quan hệ hết sức cơ bản của gia đình. Quan hệ theo chiều dọc chi
phối quan hệ theo chiều ngang. Mối quan hệ giữa các thế hệ lại có thể được phân
chia thành hai loại khác nhau, đó là quan hệ giữa cha mẹ với con cái chưa trưởng
thành và quan hệ giữa con cháu với người cao tuổi. Mỗi loại quan hệ này đều có đặc

điểm riêng và chứa trong đó những KMUX đặc thù.
3.2.2.1. Khuôn mẫu ứng xử giữa cha mẹ và con cái chưa trưởng thành
Ở Việt Nam, dù muốn hay không văn hóa Nho giáo có ảnh hưởng đến việc
hình thành KMUX giữa cha mẹ và con cái. Đó là khuôn mẫu “trên ra lệnh, dưới
phục tùng”, con cái phải tuyệt đối vâng lời cha mẹ.
3.2.2.2. Khuôn mẫu ứng xử giữa con cháu với người cao tuổi
Cơ sở xã hội hình thành KMUX giữa con cháu với người cao tuổi trong gia
đình Việt Nam truyền thống là việc đề cao đạo hiếu, lòng biết ơn của con cháu đối
với công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, ông bà.

12


Tiểu kết chương 3
Những phân tích trên đây cho thấy, KMUX trong gia đình Việt Nam truyền
thống được hình thành dựa trên hai cơ sở xã hội quan trọng. Đó là nền văn minh
nông nghiệp lúa nước cổ truyền lấy gia đình làm đơn vị sản xuất và ảnh hưởng của
văn hóa Nho giáo. Nền văn minh nông nghiệp lúa nước cổ truyền tồn tại từ rất lâu
đời trong lịch sử hình thành nên những giá trị và KMUX của văn hóa bản địa.
Trong quá trình tiếp xúc văn hóa, đặc biệt là tiếp xúc với văn hóa Nho giáo, gia
đình Việt Nam truyền thống đã tiếp nhận nhiều giá trị và KMUX do Nho giáo
mang đến nhưng có nhiều cải biến và chọn lọc cho phù hợp với phương thức sản
xuất và phong tục của người Việt.
Trong mối quan hệ vợ chồng, có nhiều KMUX dành cho phụ nữ hơn là nam
giới trong giao tiếp ứng xử do ảnh hưởng văn hóa Nho giáo. Nhưng trong phân
công lao động, khuôn mẫu hợp tác chiếm ưu thế hơn so với khuôn mẫu phu xướng
phụ tùy. Còn trong quan hệ quyền lực, khuôn mẫu “chia quyền” và “chung quyền”
thể hiện rõ trong thực tiễn đời sống so với khuôn mẫu “độc quyền” của người
chống theo văn hóa Nho giáo.
Gia đình Việt Nam truyền thống được gắn kết một cách bền chặt là do tình

nghĩa và trách nhiệm giữa các thành viên. Trong mô hình gia đình truyền thống,
mọi thành viên trong gia đình đều đón nhận và thụ hưởng sự hy sinh của phụ nữ...
Ngay cả vấn đề quan hệ tình dục, người vợ cũng luôn phải chịu sự bất công, luôn ở
trạng thái bị động và cam chịu. Tính ưu việt của gia đình truyền thống đặc biệt
trong mối quan hệ vợ chồng chính là sự chung thuỷ, sự hoà thuận gia đình.
Trong quan hệ cha mẹ với con cái chưa trưởng thành, một số KMUX của văn
hóa Nho giáo được tiếp nhận khá rõ nét như “trên ra lệnh, dưới phục tùng”, “tôn ti
trật tự” trong gia đình. Tuy nhiên, một số KMUX khác của Nho giáo như “trọng
nam khinh nữ” (coi trọng con trai hơn con gái), “quyền nối dõi và thừa kế gia sản
chỉ dành cho con trai” đã không còn giữ nguyên giá trị và không thực tế trong
trong gia đình Việt Nam truyền thống.
Trong mối quan hệ giữa con cháu với người cao tuổi, sự tương tác giữa các
thế hệ là rất nổi trội thể hiện ở hai khuôn mẫu “kính trên nhường dưới” và “cha từ

13


con hiếu”. Đây có thể coi là những KMUX mang nhiều đặc trưng của văn hóa bản
địa và chịu ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo nhiều hơn là văn hóa Nho giáo.
Những đặc điểm trên đây về KMUX trong gia đình Việt Nam truyền thống là
cơ sở tham chiếu để tìm hiểu sự biến đổi KMUX trong gia đình Việt Nam hiện
nay.

14


Chương 4
XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI KHUÔN MẪU ỨNG XỬ GIỮA VỢ VÀ
CHỒNG
TRONG GIA ĐÌNH

4.1. Xu hướng biến đổi khuôn mẫu ứng xử trong đời sống tâm lý tình cảm
vợ chồng
Khuôn mẫu ứng xử trong đời sống tâm lý – tình cảm vợ chồng được biểu hiện
thông qua 3 khía cạnh chủ yếu: (1) giao tiếp vợ chồng, (2) tình yêu vợ chồng, (3)
sự chung thủy và đời sống tình dục vợ chồng.
4.1.1. Xu hướng biến đổi khuôn mẫu ứng xử trong giao tiếp vợ chồng
Giao tiếp là một phần quan trọng để đánh giá ứng xử của vợ chồng trong gia
đình. Thông qua giao tiếp vợ và chồng có thể chia sẻ những vui buồn, những khó
khăn trong cuộc sống. Sự chia sẻ đó giúp gắn kết tình nghĩa vợ chồng được tốt hơn,
người ta chỉ có thể hiểu nhau khi được chia sẻ, biết về mong muốn và sở thích của
nhau.
4.1.2. Xu hướng biến đổi khuôn mẫu ứng xử trong tình yêu vợ chồng
Cụ thể khi so sánh các nhóm xã hội cho thấy, sau 5 năm chung sống, phần lớn
cho rằng tình yêu sau kết hôn giảm đi, có sự khác biệt giữa nam và nữ, nhóm nam
giới có 36,4%, tỷ lệ này còn nhiều hơn ở nhóm nữ giới (63,6%), nhóm học vấn và
nhóm nghề của người trả lời
4.1.3. Xu hướng biến đổi khuôn mẫu ứng xử về sự chung thủy và đời sống
tình dục vợ chồng
Về sự chung thủy vợ chồng:
Điều đáng ghi nhận là không có sự khác biệt lớn giữa các nhóm xã hội về các
ứng xử trong đời sống tình dục vợ chồng theo học vấn và nhóm nghề. Những khuôn
mẫu vốn đã có trong truyền thống như người chồng thường là người chủ động với
mức độ “thường xuyên” khá cao và khá đồng đều ở tất cả các nhóm xã hội
4.2. Xu hướng biến đổi khuôn mẫu ứng xử vợ chồng trong phân công lao
động
Phân công lao động là sự phân chia lao động để sản xuất ra một hay nhiều sản
phẩm nào đó mà phải qua nhiều chi tiết, nhiều công đoạn cần nhiều người thực
15



hiện. Có hai loại phân công lao động, đó là: Thứ nhất, phân công lao động cá biệt là
chuyên môn hóa từng công đoạn của quá trình sản xuất trong từng công ty, xí
nghiệp, cơ sở.... Thứ hai, phân công lao động xã hội là chuyên môn hóa từng ngành
nghề trong xã hội để tạo ra sản phẩm...Như vậy, phân công lao động giữa vợ và
chồng là phân công lao động xã hội chia theo từng ngành nghề, nhưng nội trợ, chăm
sóc con cái lại không được coi là một nghề hoặc bị gọi là công việc không được trả
lương.
4.3. Xu hướng biến đổi khuôn mẫu ứng xử quyền lực vợ chồng trong gia
đình
Quyền lực là một vấn đề được nghiên cứu từ xa xưa trong lịch sử phát triển
của loài người nhưng cho tới nay vẫn còn là một vấn đề đang được tranh cãi.
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án sẽ góp phần kiểm nghiệm các lý thuyết
và bổ sung cho các kết quả nghiên cứu về khuôn mẫu ứng xử quyền lực vợ chồng
trong gia đình. Hiện nay quyền quyết định giữa vợ và chồng đã có nhiều thay đổi so
với gia đình Việt Nam truyền thống. Trong gia đình việc trao đổi bàn bạc để đi đến
quyết định những vấn đề quan trọng của gia đình được cả hai vợ chồng cùng chia
sẻ. Phần lớn người dân cho rằng, các vấn đề như mua sắm tài sản( 86,8%), việc sản
xuất kinh doanh( 74,5), công việc của con cái (94,6%)và việc chi tiêu đều do cả hai
cùng bàn bạc (65,7%) và đưa ra quyết định chiếm tỉ lệ cao. Tuy nhiên việc chi tiêu
trong gia đình thì người vợ lại chiếm ưu thế.

16


Tiểu kết chương 4
Từ mô tả, phân tích sự vận hành khuôn mẫu ứng xử vợ chồng ở cả ba thế hệ
trên các lĩnh vực tâm lý - tình cảm, phân công lao động và quyền lực trong gia đình
(trường hợp xã An Cầu, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), có thể nêu lên mấy
nhận xét sau đây:
Nhìn chung, các khuôn mẫu ứng xử vợ chồng trong gia đình hiện nay vẫn tiếp

nối khuôn mẫu ứng xử của gia đình truyền thống. Sự nghiêng về các khuôn mẫu
truyền thống phản ánh đặc điểm của một xã hội nông nghiệp mới ở buổi đầu của
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi mà các khuôn mẫu mới còn chưa thực sự
đi vào cuộc sống, chưa được chấp nhận rộng rãi bởi nhiều người và các thế hệ khác
nhau. Đặc điểm này bảo đảm cho tính liên tục của văn hóa gia đình, tránh được
những khủng hoảng gia đình trong quá trình chuyển đổi do những đứt đoạn về văn
hóa, giúp cho gia đình lưu giữ được những nét đặc sắc của văn hóa gia đình đã hình
thành từ rất lâu đời trong lịch sử. Mặt khác nó cũng cho thấy đời sống của các hộ
gia đình nông thôn vẫn chưa có những thay đổi căn bản. Mức sống thấp, thu nhập
bấp bênh, không ổn định và nhiều rủi ro về sinh kế khiến cho người nông dân vẫn
đặt ưu tiên các giá trị sinh tồn cao hơn các giá trị nâng cao chất lượng cuộc sống.
Điều đó đồng nghĩa với việc ưu tiên các giá trị và khuôn mẫu ứng xử của gia đình
truyền thống.
Mặc dù tính tương đồng nhiều hơn, nhưng kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
rõ xu hướng biến đổi của các khuôn mẫu ứng xử vợ chồng trong gia đình. Đó là xu
hướng chia sẻ và bình đẳng giữa người vợ và người chồng trong mọi lĩnh vực của
đời sống gia đình thay vì chỉ đề cao vai trò của người đàn ông, người chồng như
trong gia đình truyền thống trước đây. Điều này bắt nguồn từ những thay đổi của
mối quan hệ giới trong gia đình diễn ra dưới tác động của những biến đổi kinh tế xã
hội, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Người
phụ nữ nông thôn ngày nay có trình độ học vấn và tham gia hoạt động kinh tế - xã
hội không thua kém gì nam giới. Điều đó làm thay đổi địa vị của phụ nữ trong gia
đình, nâng cao bình đẳng giới trong gia đình và hình thành những khuôn mẫu ứng
xử mới giữa vợ và chồng trong gia đình.

17


Sự biến đổi khuôn mẫu ứng xử vợ chồng được thể hiện rõ hơn khi so sánh
giữa các nhóm xã hội. Trong khi thế hệ lớn tuổi và trung niên có xu hướng lưu giữ

nhiều hơn các khuôn mẫu ứng xử truyền thống, thì thế hệ trẻ, một mặt vẫn tiếp nối
các khuôn mẫu truyền thống, mặt khác xác lập các khuôn mẫu ứng xử vợ chồng
mới phù hợp với xu hướng bình đẳng giới của thời đại. Ở đây, luận điểm lý thuyết
biến đổi giá trị giữa các thế hệ về những lớp người sinh sau có sự chuyển dịch dần
dần từ các giá trị “duy vật” - nhấn mạnh an ninh vật chất và kinh tế là trên hết, sang
các ưu tiên các giá trị “hậu duy vật” - nhấn mạnh sự tự thể hiện và chất lượng cuộc
sống đã được chứng minh là đúng.

18


Chương 5
XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI KHUÔN MẪU ỨNG XỬ GIỮA CÁC THẾ HỆ
TRONG GIA ĐÌNH
Trong tâm thức của người Việt, vốn quí giá nhất của cha mẹ chính là con cái. Cha
mẹ phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tư cách con từ tấm bé đến khi
trưởng thành. Vì vậy, quan hệ giữa cha mẹ và con cái rất thiêng liêng, bao hàm mối
quan hệ sinh thành, dưỡng dục, là sự nối tiếp giữa hai thế hệ “Cha truyền, con nối”.
5.1. Biến đổi khuôn mẫu ứng xử giữa cha mẹ và con cái
Hiếu thảo là một đạo lý sâu xa trong mô hình gia đình truyền thống thể hiện
mối quan hệ chiều dọc giữa cha mẹ và con cái, ông bà và con cháu. Để phát huy
truyền thống tốt đẹp của địa phương, tại xã An Cầu, mỗi thôn đều xây dựng quy
ước, hương ước nhằm giữ được thuần phong mỹ tục tốt đẹp trong công cuộc xây
dựng, bảo vệ tổ quốc, giữ gìn bản sắc của quê hương thực hiện tốt chủ trương
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước.
5.2.Biến đổi khuôn mẫu ứng xử giữa con cháu với người cao tuổi
Quan hệ ông bà – cháu là mối quan hệ có tính chất tiếp nối về huyết thống.
Bên cạnh sự thương yêu, kỳ vọng, những khác biệt về tuổi tác, quan niệm sống, đặc
điểm tâm sinh lý của lứa tuổi tạo nên giữa thế hệ ông bà với thế hệ con cháu có
những khác biệt nhất định. Hoàn cảnh sống cũng tác động đối với quan hệ ông bà

và con cháu. Xu hướng tách hộ, hình thành gia đình hạt nhân ngày càng mạnh và
ông bà thường ở riêng nên ít tiếp cận với con cháu. Điều này làm hạn chế sự chăm
sóc về tinh thần, hỗ trợ giáo dục lớp con cháu của ông bà. Ngược lại sự chăm sóc
đối với ông bà của con cháu, đặc biệt là sự nâng đỡ về tinh thần cũng hạn chế. Về
đạo lý, việc chăm sóc phụng dưỡng ông bà, cha mẹ là bổn phận, trách nhiệm của
con cháu.
kết quả nghiên cứu ở trên có thể thấy, khuôn mẫu ứng xử giữa cá cha mẹ và
con cái, ông bà và con cháu hiện nay đang có sự chuyển biến từ truyền thống sang
hiện đại, sự đối xử của cha mẹ - con cái, ông bà với con cháu có phần bình đẳng
hơn. Tuy nhiên do khoảng cách về lứa tuổi và sự khác biệt về điều kiện kinh tế xã
hội nên giữa cha mẹ - con cái, ông bà với các cháu đôi khi không có cùng quan
điểm, dẫn đến những bất đồng trong cách sống. Điều này cho thấy nếp nghĩ từ bao
19


đời nay có sự thay đổi theo chiều hướng bình đẳng hơn, nhưng nó không phải nhanh
chóng mất đi mà ở có sự tiếp nối giữa các thế hệ về các giá trị khuôn mẫu ứng xử
trong gia đình từ truyền thống sang hiện đại.
Tiểu kết chương 5
Khuôn mẫu ứng xử giữa các thế hệ trong gia đình hiện nay có những đặc
điểm của văn hóa truyền thống của ứng xử trọng tình nghĩa và bình đẳng qua cách
thức dạy dỗ, chăm sóc và chia sẻ giữa các thành viên trong gia đình.
Ứng xử giữa cha mẹ và con cái trong gia đình vừa có yếu tố tâm lý tình cảm
theo truyền thống, vừa mang tính dân chủ bình đẳng trong ứng xử. Cha mẹ thường
xuyên giáo dục dậy dỗ con cháu trong cuộc sống hàng ngày, cách thức dậy dỗ cũng
có những thay đổi trong gia đình truyền thống, không còn mang tính áp đặt, ép buộc
con cái nghe theo mà theo hướng dân chủ, tôn trọng ý kiến và bình đẳng hơn
Ứng xử giữa ông bà và con cháu vẫn mang đậm tính truyền thống, các giá trị
về khuôn mẫu “kính trên nhường dưới” vẫn được dậy dỗ trong các gia đình và
được đồng thuận của các thế hệ. Tuy nhiên, do sự biến đổi về điều kiện kinh tế xã

hội,sự khác biệt về khoảng cách lứa tuổi và hoàn cảnh sống nên đôi khi ông bà và
con cháu không có cùng chung quan điểm sống, ông bà muốn con cháu vâng lời,
muốn ở cùng con cháu ( gia đình 3 thế hệ) nhưng con cháu lại muốn ở riêng...
Nhìn chung khuôn mẫu ứng xử giữa các thế hệ trong gia đình vẫn tồn tại
những khuôn mẫu ứng xử từ gia đình truyền thống như tôn trọng các giá trị “ hiếu
kính với cha mẹ, ông bà”, “ Kính trên nhường dưới”...Bên cạnh đó cũng xuất hiện
những khuôn mẫu ứng xử mới như tôn trọng ý kiến của các thành viên trong gia
đình, ứng xử dựa trên quyền bình đẳng, dân chủ của tất cả các thành viên trong gia
đình phù hợp với sự biến đổi về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và biến đổi văn
hóa, có sự tiếp nối từ truyền thống sang hiện đại...

20


PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Khuôn mẫu ứng xử trong gia đình người Việt đã được xem xét từ những góc
nhìn rất cơ bản, đó là góc nhìn tâm lý - tình cảm, phân công lao động và quyền lực.
Từ các kết quả nghiên cứu đã trình bày, có thể nêu lên một số nhận xét sau đây:
1.1. Sự vận hành của khuôn mẫu ứng xử gia đình cho thấy tính liên tục và
những biến đổi của văn hóa ứng xử gia đình. Nhiều khuôn mẫu ứng xử từ trong
truyền thống vẫn tiếp tục được duy trì trong gia đình hiện đại (như kính trên nhường
dưới, cha từ con hiếu, vợ chồng nhường nhịn lẫn nhau…). Kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy, tính tương đồng nhiều hơn là sự khác biệt về ứng xử giữa các nhóm xã
hội. Mặc dù vậy, kết quả nghiên cứu cũng đã ghi nhận những biến đổi về khuôn
mẫu ứng xử gia đình đang diễn ra, đó là việc loại bỏ hoặc cải tạo các khuôn mẫu lạc
hậu, không còn phù hợp với gia đình hiện đại (như phu xướng phụ tùy - chồng nói
vợ phải nghe lời, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, vợ luôn phải nhường nhịn chồng dù
đúng hay sai…) và tiếp thu, xây dựng những khuôn mẫu ứng xử mới (như vợ chồng
cùng quyết định các công việc quan trọng, cha mẹ lắng nghe và tôn trọng ý kiến của

con cái, vợ chồng tặng hoa, tặng quà cho nhau vào các ngày lễ, ngày tết, kỷ niệm
ngày sinh nhật, ngày cưới…).
1.2. Tại sao khuôn mẫu ứng xử trong gia đình lại có tính liên tục và sự biến
đổi? Trước hết, cần phải thấy rằng, tính liên tục của khuôn mẫu ứng xử phản ánh
tính liên tục của văn hóa gia đình. Ở đây có thể nhận thấy, nhiều khuôn mẫu và giá
trị tốt đẹp của gia đình truyền thống đang được giữ gìn và phát huy trong gia đình
hiện đại. Điều này tránh cho gia đình rơi vào tình trạng bị đứt đoạn về văn hóa, rối
loạn về giá trị, chuẩn mực. Mặt khác, việc bảo lưu các khuôn mẫu ứng xử truyền
thống cũng cho thấy, Việt Nam là một xã hội quá độ đang trong quá trình chuyển
đổi từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong xã hội quá độ đó, nhiều khuôn mẫu ứng xử mới đã và đang hình thành nhưng
còn chưa được các thành viên và các thế hệ trong gia đình chấp nhận rộng rãi. Sự
tương đồng chiếm ưu thế so với sự khác biệt trong văn hóa ứng xử giữa các nhóm
xã hội chứng tỏ rằng, phân tầng nghề nghiệp và phân hóa giảu nghèo diễn ra trong
21


quá trình hiện đại hóa ở nước ta còn chưa đủ mạnh làm cơ sở cho việc hình thành
những lối sống và văn hóa riêng của các nhóm xã hội khác nhau. Biến đổi kinh tế xã hội ở nước ta diễn ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhâp
kinh tế và giao lưu văn hóa quốc tế cùng với những luật pháp, chính sách mới của
nhà nước về gia đình và bình đẳng giới chính là những nhân tố có tác động mạnh
mẽ đến sự biến đổi gia đình nói chung và khuôn mẫu ứng xử gia đình nói riêng.
1.3. Những kết quả nghiên cứu của đề tài chứng minh những giả thuyết được
chúng tôi nêu ra trong phần mở đầu của luận án là chính xác. Kết quả nghiên cứu
cũng cho phép chúng tôi khẳng định được tính đúng đắn của lý thuyết hiện đại hóa
và lý thuyết biến đổi và tiếp biến văn hóa trong thực tiễn của Việt Nam (trường hợp
xã An Cầu, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình). Tác động của hiện đại hóa đã giúp
cho gia đình Việt Nam thay đổi những khuôn mẫu ứng xử cũ, xây dựng những
khuôn mẫu ứng xử mới phù hợp với cuộc sống thực tiễn luôn vận động và biến đổi.
Chỉ có một điểm khác biệt là hiện đại hóa không tác động tức thì đến biến đổi văn

hóa ứng xử gia đình mà diễn ra dần dần và trong nhiều trường hợp, các khuôn mẫu
ứng xử trong gia đình truyền thống vẫn tỏ ra có sức sống bền bỉ bất chấp những
thay đổi về kinh tế - xã hội. Tiếp biến văn hóa là một quá trình xảy ra do kết quả
của sự tiếp xúc giữa hai hoặc nhiều nhóm văn hóa và những cá nhân thành viên của
những nhóm văn hóa đó. Chúng ta còn chưa có những nghiên cứu về tác động và
liệu có sự tác động của văn hóa Việt Nam đến các nền văn hóa khác, nhất là những
nền văn hóa lớn như Trung Quốc, Nhật bản, Pháp, Mỹ… hay không. Còn trên thực
tế, trong tiếp biến văn hóa, có thể nhận thấy, văn hóa Việt Nam chịu tác động nhiều
hơn là gây tác động.
1.4. Hệ quả xã hội của sự biến đổi khuôn mẫu ứng xử của gia đình Việt Nam
hiện nay bao gồm cả những tác động tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực là giúp
cho gia đình Việt Nam đổỉ mới văn hóa, giải phóng khỏi những định kiến, những
khuôn mẫu ứng xử lạc hậu, xây dựng những phương thức ứng xử mới phù hợp với
cuộc sống thực tiễn luôn vận động và biến đổi, nâng cao chất lượng cuộc sống gia
đình, góp phần vào việc xây dựng một hạ tầng văn hóa mới ở Việt Nam. Tuy nhiên,
việc tiếp thu thiếu chọn lọc những khuôn mẫu ứng xử mới cũng có nguy cơ dẫn đến
những rối loạn trong cách ứng xử giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa
22


×