Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại Trường Đại học Dược Hà Nội trên quan điểm phát triển con người (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM PHƢƠNG NGỌC

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TẠI ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI
TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI
Chuyên ngành: Phát triển con người
Mã số:

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. ĐỖ HOÀI NAM

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Đỗ Hoài Nam. Các số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực tại Đại học Dược Hà Nội trên quan điểm phát triển con người” có
nguồn gốc rõ ràng, hồn tồn trung thực và không trùng lặp với đề tài khác trong
cùng lĩnh vực. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu
nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Hà Nội, ngày



tháng

năm 2017

Học viên

PHẠM PHƢƠNG NGỌC


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON
NGƢỜI ........................................................................................................................... 9
1.1. Các khái niệm cơ bản ............................................................................................... 9
1.2. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trên quan điểm phát triển con
người....................................................................................................................... 18
1.3. Nội dung và phương pháp đánh giá chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Dược
trên quan điểm phát triển con người ...................................................................... 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
TẠI ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON
NGƢỜI ......................................................................................................................... 37
2.1. Khái quát về Đại học Dược Hà Nội ...................................................................... 37
2.2. Thực trạng chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Dược .......................................... 41
2.3. Đánh giá chung về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực tại Đại học Dược Hà
Nội trên quan điểm phát triển con người .............................................................. 55
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TẠI ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI TRONG
GIAI ĐOẠN 2016-2020 TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI ....... 57

3.1. Đòi hỏi của Phát triển con người và ngành Dược trong giai đoạn 2016-2020 ..... 57
3.2. Một số giải pháp chủ yếu ....................................................................................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 72


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BS
BVĐK
CBYT
CCVC
CNH
CNTT
CTĐT
ĐH
ĐHDHN
DS
GDP
GS
GV
HĐH
HDI
KHCN
KNT
KTV
KT-XH
KX/KHXH
NCKH
NLĐ
NNL

NXB
PGS
PTCN
SV
TS
ThS
UNDP
VASS
WHO

Bác sỹ
Bệnh viện đa khoa
Cán bộ y tế
Cơng chức viên chức
Cơng nghiệp hóa
Cơng nghệ thơng tin
Chương trình đào tạo
Đại học
Đại học Dược Hà Nội
Dược sỹ
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm nội địa
Giáo sư
Giảng viên
Hiện đại hóa
Human Development Index
s
t tri n con n
i
Khoa học công nghệ

Khu nội trú
Kỹ thuật viên
Kinh tế, xã hội
Ký hiệu tên đề tài nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học
Người lao động
Nguồn nhân lực
Nhà xuất bản
Phó giáo sư
Phát triển con người
Sinh viên
Tiến sỹ
Thạc sỹ
United Nations Development Programme
ơn trìn
t tri n của Liên hợp qu c
Vietnam Academy of Social Sciences
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
World Health Organization
Tổ chức Y tế Thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định con người và NNL là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước,
phát triển giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con
người, là nền tảng của chiến lược PTCN. PTCN là một trong các mục tiêu quan trọng
nhất của phát triển kinh tế xã hội và đó cũng là phương tiện tốt nhất để thúc đẩy sự
phát triển, không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà cịn cả trên tồn thế giới.

NNL và chất lượng NNL là một trong những vấn đề cốt lõi của sự nghiệp
phát triển KT-XH ở mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, đối với các
nước đang phát triển, giải quyết vấn đề này đang là yêu cầu được đặt ra hết sức bức
xúc, vì nó vừa mang tính thời sự, vừa mang tính chiến lược xuyên suốt quá trình
phát triển KT-XH của mỗi nước.
Mỗi một giai đoạn lịch sử, trình độ phát triển địi hỏi một NNL phù hợp.
Trong xu thế kinh tế tri thức và toàn cầu hóa, NNL có sức khỏe, học vấn, trình độ
chun môn kỹ thuật cao được coi là một điều kiện để tăng trưởng nhanh, rút ngắn
khoảng cách tụt hậu. Con người được xem là nguồn lực căn bản có tính quyết định
của mọi thời đại, đóng vai trị quan trọng đối với sự thành công của một quốc gia,
ngành hay lĩnh vực nói chung và một tổ chức nói riêng. UNDP coi con người là
trung tâm của sự phát triển KT-XH. Thừa nhận con người là nguồn lực vô tận, là
nhân tố quyết định, là mục tiêu của sự phát triển, UNDP phê phán những quan điểm
ít nhiều phiến diện như coi phát triển đơn thuần chỉ là phát triển kinh tế hay kỹ
nghệ; coi tăng trưởng kinh tế đồng nghĩa với phát triển; chú trọng phát triển nhưng
vơ tình hoặc cố lãng quên vai trò động lực PTCN; xem con người chỉ như là công
cụ, là phương tiện của sự phát triển, v.v... Tư tưởng đề cao con người của UNDP
cịn giúp cảnh báo các chính phủ tránh thái độ bằng mọi giá nhằm đến tăng trưởng
kinh tế, định hướng cho các kế hoạch xã hội đừng quên mục tiêu PTCN và bảo vệ
mơi trường, trong đó con người cần phải được coi là trung tâm của sự phát triển.
Nét chủ đạo của triết lý con người chiếm vị thế trung tâm trong sự phát triển của
UNDP được hiểu rất cụ thể. Trung tâm, nghĩa là con người đóng vai trò quyết định
1


ở cả “đầu vào”, ở cả “đầu ra” và trong tồn bộ q trình phát triển. Ở “đầu vào”
nhân tố quyết định sự phát triển là vốn con người, tiềm năng con người. Ở “đầu ra”,
mục tiêu của sự phát triển là chất lượng sống, PTCN, hạnh phúc con người. Trong
suốt quá trình phát triển, nhân tố quyết định là NNL, là nguồn lao động, con người
là động lực của sự phát triển.

Cùng với những chuyển đổi to lớn và sâu sắc của nền kinh tế và xã hội đất
nước ta, ngành Y tế không chỉ thụ hưởng những thành tựu chung của đất nước mà
còn tạo ra những dấu ấn sâu đậm trong lĩnh vực đào tạo NNL y tế nói chung và
nhân lực dược nói riêng, nhằm thực hiện chiến lược bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân. Việt Nam trở thành nước có số BS và DS trên đầu dân cao hơn
nhiều nước có mức thu nhập trung bình cao hơn Việt Nam.
Trong thập kỷ qua, có sự thay đổi to lớn trong việc hành nghề dược trên tồn
thế giới. Do đó, nhu cầu về đào tạo và sử dụng nhân lực dược không ngừng gia tăng
bởi số lượng thuốc mới, nhu cầu chăm sóc sức khoẻ người dân ngày một cao. Nhân
lực dược là xương sống của ngành dược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, việc
đào tạo và sử dụng nhân lực dược phải đáp ứng nhu cầu của hiện tại và tương lai vì
sự phát triển liên tục của ngành nghề.
Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày
10/01/2014 đã nêu rõ: “Phát triển ngành Dược theo hướng chuyên môn hóa, hiện
đại hóa, có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới; phát
triển hệ thống phân phối, cung ứng thuốc hiện đại, chuyên nghiệp và tiêu chuẩn
hóa” [30]. Đây là nhiệm vụ vơ cùng quan trọng và để thực hiện được nhiệm vụ trên
thì ngành Dược phải quan tâm xây dựng NNL cho mình vì con người là nguồn tài
nguyên quý báu quyết định sự phát triển của một ngành hoặc một lĩnh vực.
Trường ĐHDHN có sứ mạng đi tiên phong trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ
Dược cho ngành y tế Việt Nam đặc biệt là đào tạo đội ngũ chuyên gia có trình độ
cao ngang tầm khu vực và thế giới. Trường là một trong những trung tâm hàng đầu
của cả nước về nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, là đầu mối
giao lưu quốc tế trong lĩnh vực đào tạo và NCKH của ngành Dược. Trường
2


ĐHDHN tiền thân từ Trường thuốc Đông Dương thành lập năm 1902. Năm 1961,
Trường được tách ra từ Trường ĐH Y Dược thành Trường ĐH Dược khoa và nay là

Trường ĐHDHN.
Tính đến tháng 6/2016, Trường ĐHDHN đã đào tạo được hơn 14.200 DS,
2685 DS chuyên khoa cấp I và cấp II, 1083 ThS dược học và 131 TS dược học.
Trong số đó có nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo của ngành y tế, của các
trường ĐH Y - Dược và các Viện, Bệnh viện, cơ sở y tế trong cả nước. Hiện nay đội
ngũ GV của nhà trường có 03 GS và 22 PGS.
Mục tiêu phát triển của Trường ĐHDHN là: “Xây dựn Tr
D ợc Hà Nội thành một tr

ng Đại học

ng trọn đi m qu c gia, một trun tâm đào tạo cán bộ

và nghiên cứu về D ợc của cả n ớc, ngang tầm với c c n ớc trong khu vực vào
2020 và thế giới vào 2030”, cụ thể, về lĩnh vực đào tạo là Đào tạo NNL có trình độ
ĐH, sau ĐH và các trình độ khác đáp ứng nhu cầu của xã hội và phù hợp với chiến
lược phát triển ngành Dược cả về số lượng và chất lượng; Đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ GV của trường ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng yêu
cầu đào tạo GV cho các cơ sở đào tạo trong nước và các nước bạn Lào và
Campuchia; Đa dạng hóa loại hình đào tạo, ngành nghề đào tạo, kết hợp đào tạo với
NCKH góp phần xây dựng và phát triển ngành Dược theo hướng CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế; Tăng cường quan hệ, hợp tác và liên kết quốc tế trong đào tạo [9].
Đất nước trong thời kỳ phát triển và hội nhập đang đặt ra nhiều yêu cầu mới
về chất lượng của đội ngũ nhân lực ngành y tế nói chung, ngành dược nói riêng.
Một câu hỏi được đặt ra là: Để đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp phát triển
của đất nước và của ngành, trường ĐHDHN cần có những thay đổi như thế nào?
Trên quan điểm PTCN, lấy con người là trung tâm, Trường ĐHDHN nên làm gì để
nâng cao khả năng lựa chọn và nắm bắt cơ hội cho NNL dược mà mình đào tạo?
Vì vậy, học viên chọn đề tài “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực tại Trường Đại học Dược Hà Nội trên quan điểm

phát triển con người” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phát triển NNL đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều
khía cạnh khác nhau, trong đó cũng có đề cập đến khía cạnh PTCN. Có nhiều
nghiên cứu nước ngồi và cả ở Việt Nam về NNL. Có thể nêu ra một số cơng trình
tiêu biểu như sau:
“Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH”, Phạm Minh Hạc (chủ
biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 1996; “Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ
nhân lực trong điều kiện mới”, Nguyễn Minh Đường (chủ biên);... Nói chung đây là
những nghiên cứu xã hội học thuộc Chương trình KHCN cấp Nhà nước KX-07:
“Con người Việt Nam – mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” do
GS.VS. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm với sự tham gia của gần 300 nhà khoa học
thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau.
Tác giả Nguyễn Phú Trọng (2000) với đề tài NCKH cấp Nhà nước
KHXH.05.03 “Luận chứng khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”. Đã đúc kết và đưa ra
những quan điểm, sự định hướng trong việc sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đề tài
là tài liệu để tham khảo hữu ích đối với cán bộ là cơng chức trong đơn vị hành chính
sự nghiệp.
Tác giả Phạm Cơng Nhất (2008), “Nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu
cầu đổi mới và hội nhập kinh tế”, Tạp chí Cộng sản số 786. Trên cơ sở phân tích rõ
thực trạng NNL Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, về số lượng và chất lượng. Tác
giả đã nhấn mạnh chất lượng NNL nước ta còn nhiều bất cập và hạn chế do: thu
nhập bình quân đầu người thấp, vấn đề quy hoạch và phát triển NNL cịn kém, từ
đó, tác giả đưa ra các giải pháp để phát triển và nâng cao chất lượng NNL đáp ứng

yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tác giả Vũ Bá Thể (2005), “Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Cuốn sách tiếp cận theo quan hệ kinh tế quốc tế, tập trung phân tích và làm rõ cơ sở
lý luận liên quan đến NNL; kinh nghiệm phát triển NNL của một số nước tiên tiến
4


trên thế giới; đánh giá thực trạng NNL nước ta cả về quy mô, tốc độ, chất lượng
NNL và rút ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong phát
triển NNL; đề xuất các giải pháp nhằm phát triển NNL của Việt Nam trong thời
gian tới.
Tác giả Lê Thị Hồng Điệp (2005): “Phát triển NNL chất lượng cao để hình
thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam”, luận án TS kinh tế chính trị, Trung tâm đào
tạo bồi dưỡng GV lý luận chính trị, ĐH Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu lý
luận về phát triển NNL chất lượng cao thông qua những phân tích nội dung, tiêu chí
và những yếu tố tác động tới quá trình phát triển lực lượng này; Qua đó, đề xuất
một số giải pháp phát triển NNL chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở
Việt Nam trong tương lai.
“Phát triển nguồn nhần lực giáo dục ĐH Việt Nam” do TS. Đỗ Minh Cương,
PGS. TS. Nguyễn Thị Loan chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Cuốn
sách làm rõ quan điểm, định hướng chiến lược và giải pháp chủ yếu cho việc phát
triển năng lực giáo dục bậc cao ở nước ta trong thời kỳ mới.
“Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài” do PGS. TS Nghiêm Đình Vỳ và TS
Nguyễn Đắc Hưng chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Cuốn sách đã
giới thiệu khái quát về lịch sử giáo dục Việt Nam, những cơ hội, thách thức và
nhiệm vụ đặt ra đối với giáo dục Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Từ đó, các tác giả đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng tài năng và NNL cho đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH.
Ngồi ra cịn có những ấn phẩm đề cập đến kinh nghiệm về quản lý và phát
triển NNL của một số nước có ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam như “Phát triển

NNL – kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996 của Trần Văn Tùng - Lê Ái Lâm... Đặc biệt là chương trình khoa học cấp
Nhà nước KHXH-05 “Nghiên cứu văn hóa, con người, NNL đầu thế kỷ XXI”
(11/2003), gồm những cơng trình đáng chú ý như: “Ảnh hưởng của tiến bộ khoa
học, kỹ thuật và công nghệ đến việc nghiên cứu và PTCN và NNL những năm đầu
thế kỷ XXI” của TSKH Lương Việt Hải; “Phát triển NNL Việt Nam đầu thế kỷ
XXI” của TS. Nguyễn Hữu Dũng…
5


Từ q trình nghiên cứu các cơng trình khoa học của các tác giả cho thấy NNL
có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của đơn vị nói riêng và
đất nước nói chung. Các nghiên cứu đều khẳng định yêu cầu phát triển đào tạo NNL
và ý nghĩa của việc nhận thức đúng đắn các chính sách phát triển đào tạo NNL.
Các nghiên cứu, tác phẩm, bài viết khoa học trên đã đề cập đến thực trạng
chất lượng NNL Việt Nam nhất là trong lĩnh vực đào tạo NNL trong CNH, HĐH ở
nước ta. Hầu hết các cơng trình nghiên cứu này đã tập trung nghiên cứu các phương
diện khác nhau của sự phát triển đào tạo NNL của Việt Nam và đề xuất những giải
pháp để đào tạo NNL, từ giáo dục – đào tạo đến giải quyết việc làm, đổi mới cơ
chế, chính sách nhằm nâng cao chất lượng NNL ở nước ta. Cũng có một số cơng
trình nghiên cứu về NNL y tế nói chung và của ngành Dược nói riêng. Hiện nay, số
cơng trình nghiên cứu về thực trạng nhân lực dược khá ít, hầu hết các nghiên cứu
chủ yếu hướng tới NNL y tế nói chung trong đó có đề cập nhân lực dược. Các báo
cáo tổng kết của Bộ Y tế, Cục Quản lý Dược có đánh giá thực trạng nhân lực dược
và mới đưa ra chỉ số nhân lực dược nói chung [3], [4], [10].
Các nghiên cứu phần nào chỉ ra các điểm mạnh, yếu trong chất lượng NNL y
tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu không đề cập nhiều đến chất lượng đào tạo NNL,
cũng như chưa có nghiên cứu nào về chất lượng đào tạo NNL trên quan điểm
PTCN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn thực trạng chất lượng đào
tạo NNL dược trên quan điểm PTCN, Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nâng cao chất lượng đào tạo NNL cho Trường ĐHDHN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:


Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về NNL, nâng cao chất lượng

đào tạo NNL, chỉ tiêu đánh giá và những yếu tố ảnh hưởng trên quan điểm PTCN.


Phân tích thực trạng đào tạo NNL Trường ĐHDHN so với nhu cầu thực

tế và mục tiêu phát triển của trường; nguyên nhân tác động đến thực trạng đó.

6




Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo

NNL tại nhà trường trên quan điểm PTCN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề chất lượng đào tạo NNL tại Trường ĐHDHN trên quan
điểm PTCN
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Trường ĐHDHN

- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu và sử dụng dữ liệu trong giai
đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 để minh họa, đánh giá và phân tích trong q trình
nghiên cứu, từ đó đưa ra các giải pháp cho giai đoạn 2016-2020
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp luận:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu các tài liệu
về phát triển con người của Việt Nam và UNDP để nghiên cứu, phân tích tổng hợp
tài liệu, hệ thống hóa, khái qt hóa các nguồn tài liệu lý luận và thực tiễn có liên
quan đến mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và PTCN, nhất là trong ngành Dược.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn lựa chọn phương pháp tiếp cận, nghiên cứu dưới góc độ phát triển
con người, sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
chuyên gia, phương pháp tiếp cận hệ thống.
Ngoài ra, luận văn sử dụng số liệu của Tổng cục Thống kê, số liệu của các
cơng trình, dự án, bài viết trên các sách, báo, tạp chí, báo cáo của Trường đăng trên
website và các tài liệu có liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


Góp phần làm rõ khái niệm, vai trò và sự cần thiết phải nâng cao chất

lượng NNL trên quan điểm PTCN; Làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản về cách
tiếp cận trên quan điểm PTCN như các đặc điểm đặc trưng, các yếu tố liên quan…


Trên quan điểm PTCN, phân tích thực trạng chất lượng đào tạo NNL hiện

nay tại trường ĐHDHN
7





Góp phần làm rõ những nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng đào

tạo NNL và đề xuất giải pháp cơ bản có tính định hướng nâng cao chất lượng đào
tạo NNL tại trường ĐHDHN.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực trên quan điểm phát triển con người
Chương 2: Thực trạng chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại Đại học Dược
Hà Nội trên quan điểm phát triển con người
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực của trường Đại học Dược Hà Nội trong giai đoạn 2016-2020 trên
quan điểm phát triển con người

8


Chƣơng 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Phát triển con người
PTCN là mục tiêu cuối cùng của mọi sự phát triển. Bởi lẽ đó, vấn đề về sự
PTCN đã được quan tâm từ rất sớm. Nhà triết học cổ đại Aristot cho rằng sự giàu có
khơng phải là tài sản mà con người tìm kiếm; những tài sản đó chỉ hữu dụng để con
người tìm kiếm những thứ khác. Immanuel Kant thì cho rằng chính con người là
mục tiêu chứ họ không phải là phương tiện để đạt được các mục tiêu khác. Một số

nhà kinh tế học sau này như Adam Smith, Karl Marx cũng đi theo quan điểm coi
con người là mục tiêu thực sự của tất cả mọi hoạt động.
PTCN trong tư tưởng của Karl Marx không phải thuần túy đảm bảo các yếu
tố tự nhiên, mà cịn phát triển tồn bộ các giá trị tinh thần khác, hay nói cách khác,
phát triển các lực lượng mang bản chất người. PTCN là sự phát triển những năng
lực, phẩm chất người, năng lực cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và năng lực làm
chủ bản thân mình. Thơng qua đó, con người thực hiện giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng và phát triển mình để trở thành con người tự do.
Ở Việt Nam, PTCN cũng từ lâu đã được biết tới như là một khái niệm rất cơ
bản trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" nổi tiếng. Nhưng khái niệm PTCN như
hiện tại đang được sử dụng phổ biến ở các quốc gia thành viên của tổ chức Liên
hiệp quốc, thì chỉ mới xuất hiện cùng với Báo cáo PTCN năm 1990 với tun ngơn
đầy ấn tượng của nó: “Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia
đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con
người được hưởng cuộc sống dài lâu, khoẻ mạnh và sáng tạo. Chân lý giản đơn
nhưng đầy sức mạnh này rất hay bị người ta quên mất trong lúc theo đuổi của cải
vật chất và tài chính” [45].

9


Quan điểm về PTCN của UNDP đưa ra trong báo cáo PTCN năm 1990 gồm:
1), là quá trình tăng cường năng lực cho sự lựa chọn của con người. 2), là sự mở rộng
các cơ hội lựa chọn cho mọi người. Khái niệm này có thể được giải thích như sau:
- PTCN là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn của từng người và của từng
cộng đồng. Ở đâu con người có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn, thì ở đó điều kiện
PTCN sẽ tốt hơn.
- PTCN là quá trình tăng cường các năng lực lựa chọn cho từng người và
từng cộng đồng. Ở đâu con người có năng lực lựa chọn cao hơn, thì ở đó trình độ
PTCN cũng cao hơn. Các năng lực của con người cần được tăng cường bao gồm

các năng lực sinh thể (mà trước hết là sức khỏe) và các năng lực tinh thần (mà trước
hết là tri thức). Các cơ hội cho hoạt động của con người cần được mở rộng bao gồm
các hoạt động lao động và nghỉ ngơi. Mở rộng các hoạt động được hiểu theo nghĩa
là con người có khả năng sử dụng ngày càng tốt hơn năng lực sinh thể và năng lực
tinh thần của mình trong cơng việc và trong nghỉ ngơi.
- Q trình mở rộng cơ hội và tăng cường năng lực lựa chọn chính là môi
trường làm cho khả năng sáng tạo, sống khỏe mạnh, được học hành và trường thọ...
của con người tăng lên.
Như vậy, tư tưởng về sự mở rộng các lựa chọn cho mọi người có hạt nhân
hợp lý của nó. Như đã được UNDP giải thích, PTCN khơng phải là phương tiện mà
là mục tiêu của sự phát triển. Nhằm mục tiêu đó, chất lượng sống của con người
(cái khơng hề trừu tượng mà có thể đo đếm được) được xem như tương đương
với hạnh phúc hay cũng chính là hạnh phúc. Con người trong quan niệm này chiếm
vị thế trung tâm của sự phát triển KT-XH.
Ngoài ra, UNDP cũng chỉ ra ba thành tố cơ bản trong PTCN, đó là: của con
người, cho con người và bởi con người. Tuy nhiên, sự phát triển này phải đến với
các thế hệ tương lai.
Như vậy, có thể thấy quan niệm PTCN của UNDP phản ánh một cách khá
bao quát những vấn đề về năng lực tự nhiên và năng lực xã hội của con người, quan
niệm cũng nhấn mạnh cần phải mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa
chọn cho mỗi người theo ba tiêu chí: một cuộc sống có đời sống vật chất đầy đủ, có
10


học vấn, khỏe mạnh và trường thọ. Với quan niệm này, UNDP đã xây dựng một
khái niệm mới về PTCN một cách khá chi tiết, trong đó, con người được coi là
thước đo đánh giá sự tiến bộ xã hội và là mục tiêu tối thượng mà mỗi quốc gia, cộng
đồng hướng tới.
Khái niệm PTCN về cơ bản theo triết lí phát triển vì con người nhưng có
nhiều sự biến đổi qua thời gian. Các vấn đề đặt ra trong việc tìm hiểu về khái niệm

này có thể là việc tìm ra mối liên hệ giữa khái niệm PTCN với các khái niệm khác
như: quyền con người, an ninh con người, mục tiêu thiên niên kỉ, mối quan hệ giữa
PTCN và tăng trưởng kinh tế, hay PTCN và hạnh phúc.
Năm 2010, sau khi cải tiến phương pháp tính tốn về các chỉ số PTCN,
UNDP định nghĩa lại: “PTCN là việc mở rộng quyền tự do của con người được
sống lâu, sống khỏe mạnh và sáng tạo; tiến tới đạt được những mục đích khác nhau
trong cuộc sống mà họ có lý do để coi trọng; và tham gia tích cực vào việc hình
thành nên một sự phát triển bình đẳng và bền vững trên một hành tinh chung. Con
người vừa là đối tượng hưởng lợi vừa là tác nhân thúc đẩy PTCN, dù với tư cách cá
nhân hay tư cách nhóm người” [46]. Theo quan niệm này, sự PTCN bao gồm các
yếu tố: sự thịnh vượng, trao quyền, tính chủ thể và công bằng. “Quan điểm này
nhấn mạnh tới việc lấy con người làm trung tâm và sự tự do của con người” [46].
Con người không phải là đối tượng thụ động mà là những chủ thể của chính q
trình phát triển. PTCN phải bao gồm trao quyền cho con người, để họ là tác nhân có
trách nhiệm và đổi mới chính mình trong q trình phát triển. “PTCN giúp con
người có thể tự giúp được chính họ” [46]. Con người là trung tâm của sự phát triển
KT-XH, lấy PTCN làm mục tiêu, làm tiêu chí cho sự phát triển xã hội mà UNDP
đưa ra, đang trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc đối với các chính phủ trong
việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, mơi trường, xã hội và
phát triển chính con người.
Quan điểm này nhấn mạnh tới việc lấy con người làm trung tâm và sự tự do
của con người. PTCN được xem là phát triển vì con người, bởi con người và cho
con người. PTCN trao quyền cho con người, để họ là tác nhân có trách nhiệm và tự
đổi mới trong quá trình phát triển. Bởi vì theo quan điểm này, con người không phải
11


là những đối tượng thụ động mà là chủ thể năng động. PTCN giúp con người có thể
tự giúp được chính họ. PTCN tập trung vào những tự do thiết yếu của con người ở
mọi cấp độ: tạo khả năng cho con người làm chủ cuộc sống trường thọ và khỏe

mạnh, có kiến thức, để có thể hưởng thụ một cuộc sống thích đáng và để tạo cuộc
sống riêng theo cách của mỗi người.
Ở Việt Nam, vấn đề con người đã được quan tâm từ khá lâu, tuy nhiên trong
mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước, việc quan tâm đến con người được thể hiện một
cách khác nhau. Đại hội VI (1986) được coi là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử
nước ta, mở ra một thời kỳ phát triển mới. Tại đại hội này, nhân tố con người được
khẳng định trong tiến trình phát triển KT-XH và mục tiêu của phát triển vì con
người được thể hiện trong khẩu hiệu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng
bằng, văn minh”. Chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã mang lại cho mỗi
người dân nhiều cơ hội trong phát triển và tạo ra môi trường khuyến khích tính chủ
động của mỗi cá nhân. Đến Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII (1991), vai trị
của con người trong phát triển KT-XH tiếp tục được khẳng định, các mục tiêu phát
triển được gắn liền với nhân tố con người và vì con người. “Mục tiêu của chính sách
xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của
nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hịa giữa phát triển kinh tế với sự
phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là tiền đề để thực
hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực phát triển
kinh tế”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng
yêu cầu về con người và NNL là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ
CNH, HĐH”, đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển
biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ;
nâng cao chất lượng NNL với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ
cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước
phát triển kinh tế tri thức”. Lần đầu tiên trong văn kiện chính thức, Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ IX đã khẳng định phải nâng cao đáng kể chỉ số PTCN (HDI).

12



Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong chiến
lược phát triển đất nước thời kỳ CNH, HĐH. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
(2006) đã thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục
và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển NNL có chất lượng cao. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm PTCN và
NNL từ các Đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó
Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh NNL, nhất
là NNL chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là
khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh NNL nước ta hiện nay khi hội nhập quốc
tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học, công nghệ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm năng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Về định hướng PTCN, Đại hội lần thứ XII khẳng
định “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục
tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; tạo
môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng
tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp
luật”. Đây là quan điểm cốt lõi mà Đảng ta luôn nhất quán, mang tính định hướng
chiến lược trong xây dựng, PTCN Việt Nam trong bối cảnh phát triển mới.
Đảng ta khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ “do nhân dân lao động
làm chủ”. Vì vậy, phương hướng và mục tiêu lớn nhất của chính sách xã hội là
“phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi
ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Đây là quan điểm phát
triển mang tính hài hịa kết hợp giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, trong đó
tạo ra một mơi trường xã hội cơng bằng và bình đẳng cho mọi người.

13


Vấn đề PTCN cho tới nay vẫn luôn được đặt trong chương trình nghị sự của
hầu hết các quốc gia trên thế giới. PTCN phải thường xuyên đặt con người làm
trung tâm, lấy mục tiêu của phát triển là mở rộng tất cả những lựa chọn và nâng cao
năng lực đón bắt cơ hội phát triển của con người, nhắm tới việc bồi đắp khả năng
con người thông qua đầu tư vào con người và việc sử dụng những khả năng đó cho
phát triển vì con người, của con người và do con người. PTCN có các nội dung cơ
bản là công bằng, bền vững, hiệu quả, trao quyền và tham gia.
1.1.2. Các khái niệm về nguồn nhân lực
1.1.2.1. Nguồn nhân lực
"Nguồn lực con người" hay "Nguồn nhân lực” là khái niệm được hình thành
trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là
động lực của sự phát triển: Các cơng trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
gần đây đề cập đến khái niệm NNL với các góc độ khác nhau.
NNL là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mơ, loại hình, chức
năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát triển của tổ
chức cùng với sự phát triển KT-XH của quốc gia, khu vực, thế giới. Cách hiểu này
về NNL xuất phát từ quan niệm coi NNL là nguồn lực với các yếu tố vật chất, tinh
thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung của tổ chức.
NNL là tổng thể các yếu tố bên trong và bên ngoài của mỗi cá nhân bảo đảm
nguồn sáng tạo cùng các nội dung khác cho sự thành công, đạt được mục tiêu của tổ
chức. Bất cứ tổ chức nào cũng được tạo thành bởi các thành viên là con người hay
NNL đó của một tổ chức bao gồm tất cả những NLĐ làm việc trong tổ chức đó.
Nhân lực là nguồn lực của mỗi con người mà nguồn lực này bao gồm thể lực
và trí lực. Thể lực chỉ là sức khoẻ của thân thể nó phụ thuộc vào sức vóc, tình trạng
sức khoẻ của từng con người, mức sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ làm việc
và nghỉ ngơi, chế độ y tế. Thể lực con người còn tùy thuộc và tuổi tác, thời gian
cơng tác, giới tính. Trí lực chỉ sức suy nghĩ, sự hiểu biết, sự tiếp thu kiến thức, tài

năng, năng khiếu cũng như quan điểm, lòng tin nhân cách… của từng con người.

14


Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc: “NNL là trình độ lành nghề, là kiến
thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để
phát triển KT-XH trong một cộng đồng" [48, tr.3].
Theo GS.VS. Phạm Minh Hạc: “NNL là tổng thể các tiềm năng lao động
của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các
mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là
những NLĐ có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng
được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH”. [16, tr.269].
Theo quan điểm của PGS.TS. Trần Xuân Cầu và PGS.TS. Mai Quốc Chánh
thì: “NNL là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng huy
động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất va tinh thần cho xã hội trong
hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông
qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng, chất lượng con người
có đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội” [11, tr.13].
NNL là tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương,
một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân
cách) và tính năng động xã hội của con người thuộc các nhóm đó, nhờ tính thống
nhất mà nguồn lực con người biến thành nguồn vốn con người đáp ứng yêu cầu phát
triển.
NNL, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao gồm các yếu tố cấu
thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng
động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hoá.
Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn
thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà cịn bao gồm sức mạnh của thể chất,

trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra
hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
1.1.2.2. Nguồn nhân lực y tế
NNL trong lĩnh vực y tế có thể được định nghĩa là tổng thể đội ngũ nhân viên
lâm sàng và phi lâm sàng ở các vị trí cơng việc cần thiết khác nhau chịu trách nhiệm
15


can thiệp sức khỏe cá nhân và cộng đồng dân cư. NNL là yếu tố quan trọng nhất của
đầu vào hệ thống sức khỏe, hiệu quả và những lợi ích mà hệ thống có thể cung cấp
phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức, kỹ năng và động lực của những cá nhân chịu
trách nhiệm về cung cấp dịch vụ y tế [44, tr. 75].
Năm 2006, WHO đã đưa ra định nghĩa: “Nhân lực y tế bao gồm tất cả những
người tham gia chủ yếu vào các hoạt động nhằm nâng cao sức khỏe”. Theo đó, nhân
lực y tế bao gồm những người cung cấp dịch vụ y tế, người làm công tác quản lý y
tế và cả nhân viên giúp việc mà không trực tiếp cung cấp các dịch vụ y tế. Nó bao
gồm CBYT chính thức và CBYT khơng chính thức (như tình nguyện viên xã hội,
những người CSSK gia đình, lang y...); kể cả những người làm việc trong ngành y
tế và trong các ngành khác (như quân đội, trường học hay các doanh nghiệp) [49].
Nhân lực y tế không chỉ là cán bộ chuyên môn y dược mà gồm cả đội ngũ kỹ
sư, cử nhân, kỹ thuật viên và công nhân lành nghề đang tham gia phục vụ công tác y
tế ở tất cả các tuyến từ trung ương đến tuyến y tế cơ sở. Khi nói về NNL y tế cần
chú ý đến cả hai khu vực: y tế tư nhân và y tế công lập. Phát triển NNL y tế vừa
nằm trong tổng thể phát triển hệ thống y tế vừa nằm trong chiến lược phát triển
nguồn lực con người của đất nước. Phát triển NNL y tế phải đi trước nhu cầu xã hội
dựa trên những dự báo về nhu cầu cũng như khả năng tài chính và kỹ thuật cung
ứng cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
+ Các loại hình nhân lực ngành Y tế:
Trước đây, cán bộ ngành y tế chủ yếu là BS, DS, Y tá Trung học, Sơ học
nhưng hiện nay các loại hình nhân lực y tế đa dạng hơn, chuyên sâu hơn:

Bậc ĐH của ngành y tế gồm các đối tượng chính như: BS đa khoa, BS
chuyên khoa, BSĐH, Cử nhân Điều dưỡng, Cử nhân Hộ sinh, Cử nhân Kỹ thuật y
học thuộc các chuyên ngành (Xét nghiệm, Chẩn đốn hình ảnh....), Cử nhân Y tế
cơng cộng.
Bậc Sau ĐH có TS, ThS, Chun khoa I, Chuyên khoa II (cả y và dược), BS
nội trú.
Bậc Cao đẳng có các đối tượng chính là Điều dưỡng Cao đẳng, Hộ sinh Cao
đẳng, Kỹ thuật viên Cao đẳng thuộc các chuyên ngành khác nhau.
16


Bậc Trung học có Điều dưỡng viên, Y sỹ Đa khoa, Y sĩ Y học cổ truyền, Y
sĩ Y học dự phòng, Hộ sinh Trung học, Kỹ thuật viên Trung học các loại, BS Trung
học.
Dưới bậc Trung học là Sơ học bao gồm điều dưỡng Sơ học, Hộ sinh sơ học,
Dược tá, công nhân kỹ thuật y tế.
1.1.2.3. Nguồn nhân lực d ợc
Nhân lực dược là một bộ phận của nhân lực y tế, là những người được đào
tạo kiến thức cơ bản về dược, làm việc trong các cơ sở liên quan đến sản xuất, đảm
bảo chất lượng, cung ứng, phân phối và tư vấn hướng dẫn sử dụng thuốc.
Nhân lực dược là những người có kiến thức chuyên môn cơ bản về bào chế,
sản xuất, đảm bảo chất lượng, cung ứng, tư vấn sử dụng thuốc, mỹ phẩm và thực
phẩm chức năng, bao gồm: DS (tốt nghiệp ĐH trở lên), Cao đẳng dược, Trung cấp
dược/KTV dược và dược tá [5].
1.1.3. Đào tạo nguồn nhân lực y tế
Đào tạo là hoạt động làm cho con người trở thành người có năng lực theo
những tiêu chuẩn nhất định. Đào tạo được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp
cho NLĐ có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính
là q trình học tập làm cho NLĐ nắm vững hơn về công việc của mình, là những
hoạt động học tập để nâng cao trình độ, kỹ năng của NLĐ để thực hiện nhiệm vụ

lao động của mình có hiệu quả hơn. Đào tạo là hoạt động phát triển NNL, là tổng
thể các hoạt động có tổ chức diễn ra trong khoảng thời gian xác định nhằm làm thay
đổi hành vi nghề nghiệp của NLĐ.
Đào tạo NNL y tế là sự trang bị, phát triển có hệ thống những kiến thức, kỹ
năng mà mỗi cá nhân cần có để thực hiện đúng một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể
nhất định, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành. Theo Từ điển Bách khoa Việt
Nam, đào tạo NNL là quá trình tác động đến con người nhằm làm cho con người
lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống, chuẩn
bị cho con người thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao
động nhất định, góp phần của mình vào sự phát triển KT-XH, duy trì và phát triển
xã hội. Về cơ bản, đào tạo NNL là việc giảng dạy và học tập ở nhà trường gắn với
17


việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho đối tượng được đào tạo, để hình thành cho đối
tượng giáo dục đào tạo những phẩm chất, năng lực cần thiết, đáp ứng những nhu
cầu phát triển xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể, thúc đẩy xã hội phát triển. Mục tiêu
đào tạo NNL là nhằm sử dụng tối đa NNL hiện có và nâng cao tính chun nghiệp,
tính hiệu quả của tổ chức thông qua việc giúp NLĐ hiểu rõ hơn về công việc, nắm
vững hơn về nghề nghiệp của mình và thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình một
cách tự giác hơn với thái độ tốt hơn, cũng như nâng cao khả năng thích ứng của họ
với các công việc trong tương lai.
Đào tạo NNL y tế phải tuân thủ những yêu cầu trên và cụ thể hóa cho phù
hợp với những đặc thù của ngành.
Tuy nhiên, mỗi một lĩnh vực chuyên ngành khác nhau, trong mỗi giai đoạn
phát triển khác nhau, thì mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo NNL y tế lại có
sự khác nhau. Từ sự phân tích trên, có thể quan niệm rằng: Đào tạo NNL y tế là một
quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức của các chủ thể nhằm hình thành và
phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo về y dược cùng thái độ, tình
cảm… con người để phát triển và hồn thiện trình độ chun mơn, nghiệp vụ, kinh

nghiệm và nhân cách cho mỗi NLĐ làm việc trong ngành y tế, tạo tiền đề cho họ có
thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả trong các cơ sở y tế công
và tư, trong các cơ quan quản lý,…, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước đặt
ra cho ngành y tế dưới tác động của hội nhập quốc tế.
1.2. Nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực trên quan điểm phát triển
con ngƣời
1.2.1. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
Trong lĩnh vực đào tạo, chất lượng đào tạo có đặc trưng sản phẩm là “Con
người lao động”, có thể hiểu là kết quả (đầu ra) của quá trình đào tạo và được thể
hiện cụ thể ở các phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực
hành nghề của người tốt nghiệp, tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng ngành
đào tạo trong hệ thống đào tạo đại học. Nâng cao chất lượng đào tạo chính là làm
cho sản phẩm của q trình đào tạo có giá trị cao thể hiện qua tri thức sâu, kỹ năng
và kỹ xảo nghề nghiệp tốt, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
18


Chất lượng đào tạo NNL là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Nguyên nhân
bắt nguồn từ nội hàm phức tạp của khái niệm “Chất lượng” với sự trừu tượng và
tính đa diện, đa chiều của khái niệm này. Ví dụ, đối với cán bộ giảng dạy và SV thì
ưu tiên của khái niệm chất lượng phải là ở quá trình đào tạo, là cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ cho q trình giảng dạy và học tập. Cịn đối với những người sử dụng
lao động, ưu tiên về chất lượng của họ lại ở đầu ra, tức là ở trình độ, năng lực và
kiến thức của SV khi ra trường... Do vậy khơng thể nói đến chất lượng như một
khái niệm nhất thể, chất lượng cần được xác định kèm theo mục tiêu hay ý nghĩa
của nó. Điều này đặt ra một yêu cầu phải xây dựng một hệ thống rõ ràng, mạch lạc
các tiêu chí với những chỉ số được lượng hóa, nêu rõ các phương thức đảm bảo chất
lượng và quản lý chất lượng sẽ được sử dụng trong và ngoài giáo dục ĐH với xu
hướng tiếp cận dần với chuẩn của khu vực và thế giới. Nói chung, khái niệm chất
lượng được xem là “khó nắm bắt” và “khó có sức thuyết phục”.

Chất lượng đào tạo NNL phải nằm trong một tiến trình làm biến đổi người
học trong đó việc học của SV phải được sự quan tâm sâu sát và trợ giúp từ các khâu
giảng dạy, đánh giá cũng như tất cả những yếu tố khác trong trường (cơ sở vật chất,
môi truờng, tác phong làm việc đối với SV, …). Việc giảng dạy phải làm sao thật sự
kích thích khả năng ham hiểu biết, tìm tịi sáng tạo để làm thỏa mãn bản thân sinh
viên về những điều chưa biết. Cách đánh giá không phải để kết thúc môn học hay
chỉ để quyết định sinh viên đậu rớt một môn học mà nên là một kênh nhận xét để
sinh viên hiểu năng lực và kiến thức của mình ở mơn đó đã đạt đến mức nào, có nên
tiếp tục các khóa học có liên quan không hay nên học lại và nếu học lại thì cần bổ
sung nhưng khoảng trống tri thức nào. Tương tự các yếu tố khác trong trường tạo
tiền đề để việc học tập của sinh viên được diễn ra thuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất.
Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, chất lượng đào tạo NNL dịch
chuyển từ đảm bảo chất lượng tiến dần sang chất lượng thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng và thông qua khách hàng (được hiểu theo nghĩa rộng nhất chính là những
người sử dụng sản phẩm đào tạo). Điều này làm thay đổi quan điểm về chất lượng
đào tạo NNL trong đó vấn đề thỏa mãn nhu cầu, kì vọng của khách hàng được quan
tâm hàng đầu.
19


Chất lượng NNL y tế là trạng thái nhất định của NNL y và dược thể hiện mối
quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của NNL y tế. Chất lượng
NNL không những chỉ là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế nói chung và
ngành y tế nói riêng, mà cịn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển của đời sống
văn hóa và xã hội của đất nước và của người dân trong lĩnh vực y tế và chăm sóc
sức khỏe cộng đồng. Chất lượng NNL cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư
cách không chỉ làm một nguồn lực của sự phát triển, mà còn thể hiện mức độ văn
minh của một xã hội nhất định.
Tâm lực, trí lực liên quan đến vốn xã hội - đạo đức nghề nghiệp. Đào tạo y
dược chỉ có kiến thức mà khơng chú ý đến đạo đức thì chắc chắn sẽ tác động xấu

đến chất lượng NNL của ngành y tế. Trên quan điểm PTCN, cán bộ ngành y tế phải
được đào tạo toàn diện.
Cũng như ngành Y, điều quan trọng nhất trong đào tạo của ngành Dược là
yếu tố con người, đó chính là đội ngũ các DS làm GV sư phạm khơng chỉ giàu kinh
nghiệm, mà cịn phải nhiệt huyết giảng dạy, đặc biệt đối tượng trực tiếp về con
người. Ngoài ra, người được tuyển chọn vào học các trường dược phải là những
người có đủ trí tuệ và tình u thương đồng loại, phải có đủ sức khỏe để vượt qua
được nhiều áp lực của học tập vất vả, khối lượng kiến thức nhiều và phải thật cẩn
thật, tỉ mỉ và trung thực. Thực hành trong phịng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất dược
phẩm, hiệu thuốc, bệnh viện và khu nuôi trồng dược liệu là điều kiện không thể
thiếu đối với đào tạo dược. Nếu làm tốt được quy trình đào tạo ngành dược thì sản
phẩm đào tạo của Trường Dược sau này mới có thể trở thành cán bộ dược giỏi
chun mơn, có đạo đức nghề nghiệp để chăm sóc sức khỏe con người được.
Ngành Dược còn được chia ra thành nhiều lĩnh vực: sản xuất, bảo quản, kinh
doanh phân phối thuốc, đảm bảo chất lượng thuốc, hướng dẫn sử dụng thuốc....
Người học ngành Dược phân thành làm 3 cấp: ĐH, Cao đẳng và Trung cấp. Tùy
vào năng lực mà có thể đảm nhiệm vào rất nhiều cơng việc trong vịng đời của một
chế phẩm thuốc như: nghiên cứu thuốc mới, bào chế thuốc, kinh doanh phân phối
thuốc, quản lý nghiệp vụ dược hay khâu cuối cùng là kiểm nghiệm thuốc trước khi
cung ứng ra thị trường.
20


NNL Dược phải bao quát được những lĩnh vực trên và phát triển NNL Dược
phải kết nối chúng thành một hệ thống gắn bó hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau cùng
phát triển theo hướng toàn diện, chuyên nghiệp, hiện đại và nhân văn.
1.2.2. Quan điểm phát triển con người về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nâng cao chất lượng NNL ngành y tế chính là sự tăng cường toàn diện sức
mạnh và kỹ năng hoạt động sáng tạo của năng lực thể chất và năng lực tinh thần của
lực lượng lao động làm việc trong ngành lên đến một trình độ nhất định, để lực

lượng này có thể hoàn thành được nhiệm vụ của ngành y tế nhằm góp phần phát
triển KT-XH trong một giai đoạn phát triển của đất nước. Do đó, chất lượng NNL
chính là động lực trực tiếp cho sự phát triển toàn diện của toàn ngành.
Nâng cao chất lượng NNL của ngành y tế là tạo ra tiềm năng sáng tạo,
chuyên nghiệp và hiện đại của những con người làm việc trong lĩnh vực y và dược
thông qua đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng và đào tạo lại, chăm sóc sức khỏe về thể
lực và tinh thần, khai thác tối đa tiềm năng đó trong các hoạt động lao động thơng
qua việc tuyển dụng, sử dụng, tạo điều kiện về môi trường làm việc (phương tiện
lao động có hiệu quả và các chế độ chính sách hợp lý,…) mơi trường văn hóa, xã
hội kích thích động cơ, thái độ làm việc của NLĐ, để họ mang hết sức mình hồn
thành các chức trách, nhiệm vụ được giao.
Từ những luận điểm trên có thể hiểu, "Nâng cao chất lượng NNL trong
ngành y tế chính là nâng cao mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của NLĐ trên các
phương diện: thể lực, trí lực và tâm lực,… nhằm đạt được mục tiêu chung của
ngành”.
Với cách tiếp cận con người là mục tiêu của sự phát triển chứ không phải chỉ
là một nhân tố của sản xuất, các nhà kinh tế hiện đại đã có khái niệm PTCN là sự
mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn của con người nhằm hưởng
thụ một cuộc sống hạnh phúc, bền vững. Theo cách tiếp cận này, PTCN không chỉ
là sự gia tăng về thu nhập và của cải vật chất mà quan trọng nhất là sự mở rộng các
khả năng của con người, tạo cho con người có cơ hội tiếp cận tới nền giáo dục tốt
hơn, các dịch vụ y tế tốt hơn, có chỗ ở tiện nghi hơn, có việc làm có ý nghĩa hơn,…
PTCN cịn là tăng cường năng lực, trước hết là nâng cao kiến thức, kỹ năng, kinh
21


×