Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO vấn đề dân tộc và GIAI cấp, độc lập dân tộc và CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.17 KB, 18 trang )

1

VấN Đề DÂN TộC Và GIAI CấP, Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội
Trải qua thực tiễn hơn 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân
ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đưa cách mạng Việt
Nam không ngừng phát triển đi lên hoà mình vào quỹ đạo chung của cách
mạng thế giới. Những thành tựu mà nhân dân ta đạt được mà nhân dân ta đạt
được đều bắt nguồn từ đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng. Để có
được đường lối đúng đắn đó là do Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo
những quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn cụ thể của cách mạng Việt Nam kịp thời đề ra đường lối
lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng. Đặc biệt
trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân với tư duy đúng đắn, sáng tạo,
Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ sự
nghiệp cách mạng nước ta. Do đó Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta nhanh chóng
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiếp tục lãnh đạo, chỉ
đạo nhân dân ta giành thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong giai đoạn cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nước ta hiện nay những thành tựu đạt được; hơn bao giờ hết
luôn khẳng định vai trò to lớn của Đảng- đội tiền phong của giai cấp công
nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích và quyền lợi của giai cấp công nhân và
toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân tố cơ bản hàng đầu bảm đảm quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Vấn đề dân tộc và giai cấp, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt
Nam từ khi có Đảng. Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, là quá trình Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường quan điểm của



2
giai cấp công nhân giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo vấn đề dân tộc và
giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đưa sự nghiệp cách mạng nước ta
vượt qua bao khó khăn thử thách và cuối cùng đi đến thắng lợi hoàn toàn
trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cũng như trong sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện nay.
Đúng vậy thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó. Nửa thế
kỷ XIX, đế quốc Pháp sang cướp nước ta. Trong lúc giai cấp phong kiến quỳ
gối đầu hàng, nhân dân ta không chịu khuất phục, nhất định không chịu làm nô
lệ, đã anh dũng cầm vũ khí chống lại bọn cướp nước và bán bè lũ tay sai bán
nước. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra không khi nào dứt. Thời kỳ
này ở nước ta có các phong trào đấu tranh tiêu biểu như phong trào Cần
Vương (1883 - 1896), theo ngọn cờ phong kiến nhằm giải phóng dân tộc
nhưng cuối cùng bị thất bại. Đồng thời, còn có nhiều cuộc nổi dậy của nông
dân yêu nước, tiêu biểu là phong trào khởi nghĩa nông dân chống Pháp ở
Yên Thế (1887 - 1913) và các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân
chủ tư sản như: phong trào Đông Du (1906 - 1908) do cụ Phan Bội Châu đề
xướng; phong trào canh tân đất nước theo xu hướng dân chủ tư sản do cụ
Phan Chu Trinh lãnh đạo.. vv… rốt cuộc các phong trào đều bị thất bại đẫm
máu. Nguyên nhân chủ yếu của sự thất bại là do thiếu một đường lối đúng đắn
và giai cấp tiên tiến để lãnh đạo phong trào.
Có thể nói từ những năm 20 thế kỷ XIX, phong trào giải phóng dân tộc ở
nước ta có một chuyển biến rất mới. Do quá trình khai thác thuộc địa của đế
quốc Pháp, các giai cấp vô sản, tiểu tư sản rồi tư sản ra đời. Một phong trào
giải phóng dân tộc dâng lên mạnh mẽ, không những cả về bề rộng mà cả chiều
sâu, với nhiều màu sắc chính trị khác nhau, với những dấu ấn giai cấp rõ rệt.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là: song song với các phong trào theo lập
trường tư sản và tiểu tư sản diễn ra một cách rời rạc ở cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ và căn bản có tính chất cải lương, một phong trào cách mạng cứu
nước của công nông theo xu hướng vô sản ngày càng phát triển sâu rộng và đi

tới thống nhất. Cuối cùng năm 1930 đánh dấu một bước ngoặt quyết định với
những sự kiện tiêu biểu. Trước hết thất bại của Việt Nam Quốc dân đảng trong


3
cuộc bạo động Yên Bái làm bộc lộ một cách đầy đủ nhất, hoàn toàn nhất, triệt
để nhất sự bất lực của giai cấp tư sản và tầng lớp tiêu tư sản trong vai trò lãnh
đạo cách mạng giải phóng dân tộc. Trong khi đó, hai sự kiện cực kỳ trọng đại
đánh dấu sự toàn thắng của lập trường cứu nước của giai cấp vô sản: một là, sự
ra đời của Đảng ta trên cơ sở thống nhất các tổ chức cộng sản Đông Dương;
hai là, liền ngay đó một phong trào cách mạng sâu rộng chưa từng thấy nổi lên
trong toàn quốc mà đỉnh cao là cuộc nổi dậy long trời lở đất của công, nông
Nghệ- Tĩnh. Đó thực sự là cột mốc phân chia thời đại trong lịch sử cứu nước
của dân tộc Việt Nam, trong vận mệnh dân tộc Việt Nam.
Như vậy, qua một thời kỳ dài kể từ cuối thế kỷ XIX, đến đây lịch sử đã
làm xong một việc lớn: nó đã lần lượt khảo nghiệm đủ các chương trình cứu
nước khác nhau và cuối cùng dứt khoát nói lên tiếng nói quyết định của mình:
trong tất cả các giai cấp và tầng lớp, chỉ một mình giai cấp vô sản là có khả
năng nắm ngọn cờ độc lập, ngọn cờ giải phóng dân tộc. Quyết định khách quan
ấy của lịch sử là sự chứng minh hùng hồn một chân lý lớn của chủ nghĩa MácLênin, khoa học cách mạng của thời đại ngày nay. Người Việt Nam đầu tiên
nắm được chân lý ấy là lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc, một lãnh tụ vĩ đại sáng lập
và rèn luyện Đảng ta, người thầy bất diệt của cách mạng Việt Nam. Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”1 và “ Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”2; chính khẳng định đó đã mở ra một hướng đi mới,
nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn
bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa
cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự
nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư

tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng. Vì vậy con đường phát triển tất
yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tâp Tập 3. Nxb CTQG.H.1995, tr1.
Hồ Chí Minh, Toàn tâp Tập 9. Nxb CTQG.H.1996, tr314


4
chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “ Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”3.
Đặc biệt trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, lãnh tụ Nguyễn
Aí Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc.
Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã
nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động
“chính quốc” với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa. Đó là
chủ nghĩa sô vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi đối với dân tộc bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (12/1920), lãnh tụ
Nguyễn Aí Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng
ở các nước thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ
nhị quốc tế, theo đuôi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của
các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài
viết, lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác- Lênin, phê bình một
cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng
sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc
tế Cộng sản, trong đó điều 8 quy định các Đảng Cộng sản chính quốc phải ủng

hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc;
nhưng trên thực tế hoạt động này rất ít do không nhận thức đúng tầm quan
trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong:
“Chính cương vắn tắt” do lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc khởi thảo đã khẳng định “
“Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”4. Như vậy là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
với lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền
3
4

Hồ Chí Minh, Toàn tâp Tập 12. Nxb CTQG.H.1996, tr 305
Hồ Chí Minh, Toàn tâp Tập 3. Nxb CTQG.H.1995, tr 1


5
với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân
nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ
thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được
giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân- điều đó phù hợp với xu thế
thời đại và lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi
tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải cái gì khác mà là mục tiêu
dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; tức là, cách mạng xã hội chủ nghĩa là bước kế tiếp ngay sau khi
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cách mạng này
không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của
lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc cũng như của Đảng ta; chỉ có hoàn thành cách mạng

giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội và chỉ có cách
mạng xã hội chủ nghĩa mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng
dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp
nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Mặt khác qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn
bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và khảo sát kinh nghiệm các nước khác.
lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng
đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin; đó chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng trong các giai đoạn lịch sử cách mạng mới. Bởi lẽ,
cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để
nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô
sản. Cuộc cách mạng đó phải dựa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên
minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Lãnh tụ
Nguyễn Aí Quốc cũng như Đảng ta nhận thức rất rõ vấn đề đó, nếu chỉ dựa


6
vào lực lượng riêng của giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là
hoàn toàn không đủ mà chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức
mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch. Mặt khác cuộc đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn trong nội bộ dân tộc( mâu thuẫn địa chủ- nông dân, mâu thuẫn tư sản- vô
sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
với thế lực đế quốc xâm lược; ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề
dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết: “Nếu không giải quyết được dân tộc,
không đòi được độc lập tư do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được”5; “ Chính lập trường và lợi ích giai cấp công
nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc” 6; ở đây rõ ràng giai cấp được
biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp

công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố
chứng minh.
Hơn nữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính
quốc, như “hai cánh của một con chim”, phải thực hiện sự liên minh giữa vô
sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng với thắng lợi. Cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách
mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể là phải chủ động tiến lên giành thắng lợi,
thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách
mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo
của lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của lãnh tụ
Nguyễn Aí Quốc không được một số người, trong đó có một số người của
Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận. Mặt khác điểm chú ý là, sau khi giải
phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc
vừa phải giải phóng vừa phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong bước quá
độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình

5
6

Văn kiện Đảng. Tập3 Nxb. Sự thật.H.1970, tr48
Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật.H. 1991 tr128.


7
và đặc điểm của đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước
đi, biện pháp của các nước khác.
Vì sao sự nghiệp giải phóng dân tộc lại chỉ có được khi gắn liền với cách
mạng vô sản, với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản? mấu chốt của vấn đề
là ở chỗ: dân tộc bao giờ cũng gắn với giai cấp. Thực tiễn cho thấy vào những
thế kỷ XVI, XVII, XVIII., dân tộc gắn với giai cấp tư sản. Lúc đó, giai cấp tư

sản đại biểu cho phương thức sản xuất mới- phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa là phương thức sản xuất duy nhất lúc bấy giờ là giai cấp đang lên, giai
cấp đang ở trung tâm thời đại, giai cấp duy nhất có khả năng giương ngọn cờ
chống phong kiến. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp tư sản chống phong
kiến lúc đó mang hình thức một phong trào dân tộc. Thắng lợi của phong trào
dân tộc lúc bấy giờ thực chất là thắng lợi của chủ nghĩa dân tộc tư sản. Đó là
thắng lợi của giai cấp tư sản, thắng lợi của giai cấp tư sản, thắng lợi của chủ
nghĩa tư bản.
Đến thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, tình hình khác hẳn. Chủ nghĩa tư bản đã
đi vào giai đoạn tột cùng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trở nên lỗi
thời lạc hậu. Những mâu thuẫn đối kháng bên trong phương thức sản xuất tư
bản tất yếu đưa nó đến sự diệt vong. Phương thức sản xuất mới thay thế nó chỉ
có thể là phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Người đại biểu cho phương
thức sản xuất mới này chính là giai cấp vô sản. Do đó, giai cấp vô sản bước lên
vũ đài lịch sử với tư cách là giai cấp trung tâm thời đại mới. Dân tộc từ đây
gắn liền với giai cấp vô sản, do giai cấp vô sản đại biểu. Ngày nay, chỉ có giai
cấp vô sản là giai cấp duy nhất có khả năng giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc, ngọn cờ độc lập và chủ quyền dân tộc.
Như vậy, những sự kiện quyết định của năm 1930 như sự ra đời của
Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào Xô viết- Nghệ Tĩnh đã mở đầu sự
bắt gặp giữa giữa cách mạng Việt Nam với chân lý thời đại mới, đưa sự tiến
hoá của dân tộc ta vào chính giữa dòng thời đại. Có sức mạnh không gì ngăn
cản nổi của quy luật lịch sử có tính chất thế giới- giai cấp vô sản Việt Nam với
Đảng Cộng sản tiền phong của mình, nhờ đó, ngay từ đầu đã độc quyền nắm
được và không ngừng giương cao ngọn cờ dân tộc, ngọn cờ giải phóng dân tộc.
Ngọn cờ ấy- vì lẽ trong tay giai cấp công nhân - nó là ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.


8

Khi cả nước tiến hành một nhiệm vụ chiến lược cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn
này thể hiện dưới dạng chủ nghĩa xã hội chưa phải là mục tiêu trực tiếp. Nhiệm
vụ trực tiếp là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, còn chủ nghĩa xã hội mới
là triển vọng tiến lên. Nhưng chính ngay sự lựa chọn đó về con đường phát
triển đã thật sự có ý nghĩa vạch thời đại lịch sử cách mạng Việt Nam. Trên
mức độ lớn, sự lựa chọn ấy tự nó đã quyết định trước tính đúng đắn của toàn
bộ đường lối chiến lược và sách lược của Đảng. Sự lựa chọn như vậy về con
đường phát triển cách mạng, trước hết, quyết định những động lực cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân. Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của Đảng
chỉ rõ : “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân
là hai độc lực chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới
thắng lợi được” .
Mọi vấn đề cơ bản về đường lối và phương pháp cách mạng trong giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đều được Đảng xem xét và giải
quyết đúng đắn: một mặt, không lẫn lộn với cách mạng xã hội chủ nghĩa;
nhưng mặt khác, không bao giờ và không một ly tách rời triển vọng cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Trong chỉ đạo chiến lược, đó là một tiền đề cơ bản thấm
nhuần sâu sắc lý luận về cách mạng không ngừng, đem lại tính triệt để cách
mạng và tính khoa học cho toàn bộ hoạt động của Đảng trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Lý luận của V.I.Lênin về sự chuyển biến cách mạng dân
chủ tư sản thành cách mạng xã hội chủ nghĩa tìm thấy ở cách mạng Việt Nam
là một điển hình về sự vận dụng sáng tạo đó.
Cùng một lúc từ tháng 7 năm 1954 đến 30 tháng 4 năm 1975 Đảng ta đã
lãnh đạo làm hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là một đặc điểm lớn của cách
mạng Việt Nam, một hình thái rất độc đáo kết hợp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong cách mạng Việt Nam.
Trong khi xác định mỗi miền có chiến lược cách mạng riêng, Nghị quyết
Đại hội III ( 9/1960) của Đảng chỉ rõ: cả hai chiến lược đó nhằm vào giải quyết

một mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai. Vì vậy, hai chiến lược cách mạng ở hai miền có quan hệ
mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Trong mối
quan hệ đó cách mạng miền Nam có tác dụng “ Giải quyết trực tiếp” đối với sự


9
nghiệp giải phóng miền Nam, còn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có
tác dụng “ Quyết định nhất” đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt
Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Như vậy, sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn
này có hình thái biểu hiện khác trước. Kháng chiến chống Pháp cũng diễn ra
dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ nghĩa xã hội lúc
đó còn là một triển vọng tiến lên sau này. Thắng lợi vĩ đại của kháng chiến
chống Pháp là miền Bắc được giải phóng và chuyển sang làm cách mạng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kháng chiến chống Mỹ vẫn ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhưng lúc này chủ nghĩa xã hội còn là
một tương lai mà thực tế đã được bắt tay làm trên nửa phần đất nước với
những thành tựu quan trọng bước đầu. Để đánh và thắng đế quốc Pháp, chủ
nghĩa xã hội lúc đó mới là động lực lý tưởng cũng đủ. Còn để đánh thắng đế
quốc Mỹ phải có chủ nghĩa xã hội không những tác động như một sức mạnh lý
tưởng mà cả như một sức mạnh tổ chức- vật chất, sức mạnh của một chế độ xã
hội.
Khi cả nước độc lập thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự kết
hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội đạt trình độ cao hơn, nhưng thực sự
chưa đạt tới mức đầy đủ, trọn vẹn, hoàn toàn. Trước đây khi cả nước làm một
chiến lược dân tộc dân chủ, sự kết hợp ấy tuy có nhưng dù sao vẫn mới ở tầm
lý luận, nhiệm vụ giành độc lập dân tộc vẫn nổi bật lên. Ngay cả khi thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược, tuy miền Bắc đã bắt tay vào làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa, nhưng vì đất nước còn bị chia cắt, miền Nam còn đau thương, bản

thân miền Bắc cũng hai lần bị chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, thì giải phóng
miền Nam giành độc lập dân tộc vẫn là nhiệm vụ nổi lên hàng đầu.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành thì độc lập dân tộc có cơ hội
gắn liền với nhau khăng khít hơn trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước,
tạo tiền đề và điều kiện để dân tộc ta qua đó trở thành dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở và điều kiện bảo đảm triệt để cho độc lập dân tộc,
cho con đường phát triển tiến bộ và phồn vinh của dân tộc.
Trong tình hình hiện nay phải nhận thức sâu sắc vấn đề dân tộc và giai
cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một luận điểm hết sức quan
trọng trong Cương lĩnh của Đảng năm 1991 chỉ rõ: “ Để thực hiện mục tiêu


10
dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là
phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế kém phát triển”. Lợi ích dân tộc đòi hỏi
như vậy; lợi ích giai cấp công nhân càng đòi hỏi như vậy; ở đây lợi ích giai cấp
và lợi ích dân tộc hoàn toàn thống nhất với nhau. Có thể nào chú trọng lợi ích
giai cấp mà xem nhẹ lợi ích dân tộc hoặc ngược lại? Đất nước nếu không được
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không thoát khỏi cảnh nghèo nàn và lạc hậu thì
cả lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp đều không thể thực hiện được mà chỉ làm
mồi cho những tham vọng đế quốc, thực dân kiểu mới.
Vấn đề giữa dân tộc và giai cấp trong lịch sử hiện đại nước ta đã diễn ra
không đơn giản và thực tiễn đã đem lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh
nghiệm phong phú. Năm 1930, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản( khi đó
còn chưa nắm được cách mạng thuộc địa), Đảng ta chỉ thiên về giai cấp, coi
nhẹ dân tộc. Lúc đó nhấn mạnh giai cấp có sự cần thiết khách quan nhằm chủ
nghĩa dân tộc cải lương tư sản, nhưng với đường lối hẹp hòi, “ tả” khuynh,
không mở rộng được mặt trận phản đế. Khuyết điểm này được thực tiễn sớm
sửa chữa và từ năm 1934- 1935, sự chỉ đạo chiến lược của Đảng đã điều chỉnh

dần để tạo ra cao trào cách mạng 1936 - 1939 với Mặt trận Dân chủ thống
nhất Đông Dương trong đó có sự kết hợp khéo và rất hiệu quả giai cấp và dân
tộc.
Nguy cơ chiến tranh và chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng chuyển
dần sự chỉ đạo chiến lược cách mạng sang nhấn mạnh hơn hiểm hoạ dân tộc.
Cho đến năm 1941 khi Nhật vào Đông Dương, dân tộc lâm vào cảnh “ một cổ
ba tròng”. Khi đó chủ tịch Hồ Chí Minh đã về nước chuẩn bị Hội nghị Trung
ương 8, Người tuyên bố một câu bất hủ, có giá trị cương lĩnh: “ khi dân tộc
chưa được giải phóng thì quyền lợi của bộ phận, của giai cấp vạn năm cũng
không đòi lại được”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sản phẩm tuyệt vời hiếm có của
nghệ thuật kết hợp giai cấp với dân tộc. Mấy năm sau cách mạng Tháng Tám
đầy rẫy thù trong giặc ngoài, nhưng với sách lược khôn khéo và sáng suốt của
Đảng ta dưới sự chỉ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh “ thêm bạn bớt thù” về
giai cấp và dân tộc, cách mạng đã dẹp được nguy cơ “ ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta rất
vững vàng và lão luyện trong chỉ đạo chiến lược và sách lược thực hiện mối


11
quan hệ giai cấp, dân tộc, dân tộc và quốc tế, nhờ đó kháng chiến giành thắng
lợi hoàn toàn.
Trong tình hình hiện nay vấn đề dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết.Trong điều
kiện toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu nhằm mục
tiêu đến năm 2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển và đến
năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Không
như thế thì thực chất nước ta chưa có nền kinh tế độc lập tự chủ mà vẫn là kinh
tế gia công, lắp ráp, lệ thuộc bên ngoài. Kinh tế như thế thì chính trị và đối
ngoại khó bề giữ được tư thế hoàn toàn bình đẳng và độc lập.

Trên lĩnh vực văn hoá trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, phải hết sức
tinh tế coi trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giai cấp - dân tộc, độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một mặt, phải mở cửa ra ngoài, hấp thụ cho được
mọi tinh hoa văn hoá thế giới. Mặt khác phải ra sức giữa gìn phát huy làm giàu
tối đa các giá trị văn hoá dân tộc. Chỉ như thế mới hội nhập văn hoá thế giới có
hiệu quả, vừa không tự đánh mất mình, vừa hấp thu được nhiều giá trị văn hoá
nhân loại để xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
và góp phần làm giàu văn hoá thế giới.
Trên vấn đề giai cấp - dân tộc, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lúc này
cần tránh những khuynh hướng gì? có khuynh hướng khá phổ biến là coi nhẹ
vấn đề giai cấp, coi nhẹ lập trường quan điểm giai cấp. Trong khi đó lại có
quan điểm không thấy hết tầm quan trọng của nhân tố dân tộc. Cả hai khuynh
hướng ấy đều có hại cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Phải thừa nhận vấn đề giai cấp ít được nói đến, ít được nhắc nhở, giáo dục
là khuyết điểm từ nhiều năm nay. Có quan điểm thậm trí phê phán chủ nghĩa
Mác trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản đã tuyệt đối hoá vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Nhận thức và việc làm của chúng ta có gì sai trên vấn đề này thì
phải sửa, rút kinh nghiệm, nhưng quay lại phê phán chủ nghĩa Mác như vậy,có
lẽ hiểu học thuyết Mác trên vấn đề giai cấp chưa đến nơi. Cần nhận thức lại
cho đúng lý luận của C. Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhận thức lại
cho đúng không được “ hữu”, không “tả” vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ỏ nước ta. Không thể phủ nhận trong
thời kỳ quá độ còn tồn tại các giai cấp và đấu tranh giai cấp, có điều đấu tranh


12
giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện mới. Bởi do kết quả quá
trình đổi mới, đã diễn ra những biến đổi lớn trong đời sống kinh tế – xã hội,
trong cơ cấu giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp.

Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội chủ yếu là
mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác
lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động thống nhất với lợi ích
toàn thể dân tộc dưới mục tiêu chung là độc lập dân tộc cà xã hội chủ nghĩa,
dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Nội dung chủ yếu
của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, đấu tranh ngăn chặn nhưng tư
tưởng và hành động cản trở sự nghiệp đó, đấu tranh làm thất bại âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch.
Còn về vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc có khuynh hướng gì đặt ra? Trước
hết, đó là sự coi nhẹ vấn đề dân tộc, yếu tố dân tộc trong cách mạng nước ta,
nhấn mạng một chiều nhân tố giai cấp do vậy dễ đi đến chủ nghĩa dân tộc, về
mặt thế giới quan, trái với lập trường giai cấp, với chủ nghĩa quốc tế vô sản
vốn là bản chất chủ nghĩa Mác- Lênin. Cần tránh khuynh hướng coi nhẹ lợi ích
dân tộc, đặc điểm dân tộc, truyền thống dân tộc, chủ quyền quốc gia.. trong
điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, khuynh hướng này không thấy bản chất của
toàn cầu hoá, đem hoà tan cả dân tộc mình, cả lợi ích giai cấp vào toàn cầu hoá
tư bản chủ nghĩa. Đó là do hiểu toàn cầu hoá một cách chung chung, trừu
tượng, tách khỏi nội dung giai cấp, xã hội – kinh tế của quá trình toàn cầu hoá
trong thực tế. Thật ngây thơ trong điều kiện hiện nay mà nghĩ đến một “ chủ
nghĩa thế giới”, một “ làng toàn cầu” trong đó ai cũng sống sung sướng, ai
cũng giàu có, hạnh phúc, “ người với người là bạn là anh em”
Từ những điểm trình bày trên không phải để đi đến chối bỏ hội nhập thế
giới, mà cốt để đặt hội nhập trên một cơ sở lý luận chính trị đúng đắn, khoa
học. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế lớn của lịch sử. Nó là tất yếu khách
quan bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của cách
khoa học công nghệ hiện đại, của phân công lao động quốc tế, của kinh tế thị
trường. Ngày nay không một quốc gia nào có thể phát triển, thậm trí có thể tồn

tại một cách cô lập, biệt lập như một ốc đảo. Điều quan trọng là ở chỗ những


13
nước nhỏ, yếu, muốn tồn tại và phát triển mà không bị lệ thuộc và nô dịch bởi
chủ nghĩa thực dân kiểu mới thì phải có chính trị độc lập tự chủ, phấn đấu có
kinh tế độc lập tự chủ. Cần nhận diện đầy đủ và chính xác thực chất các quan
hệ kinh tế và chính trị thế giới hiện nay cho đến tận bản chất sâu xa của quá
trình vận động và phát triển thế giới trong thời đại chúng ta với tất cả những
mâu thuẫn, những mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau trong điều kiện so
sánh lực lượng ở thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, để từ đó có đường lối đa
phương hoá, đa dạng hoá thích hợp trong quan hệ đối ngoại. Cho nên, không
phải quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra dưới sự chi phối của chủ nghĩa tư bản
mà ta khước từ hội nhập. Đương nhiên hội nhập phải trên lập trường, nguyên
tắc quan điểm của Đảng ta là độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa, hội nhập mà
quyết không hoà tan.


14
2. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930 - 1975).
2.1. Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH là định hướng đúng đắn cho
nhân dân Việt Nam tiến hành đấu tranh giành chính quyền và kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1930 - 1954).
Ngay sau khi ra đời, trong Chính cương, Sách lược vắn tắt (Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam) đã khẳng định cách mạng Việt Nam
trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sau đó tiến lên CNXH. Kể
từ đó về sau các chủ trương, đường lối của Đảng đều trung thành và từng
bước chỉ đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trên.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam thời kỳ 1930 - 1954 đã chứng

minh trong khi thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến giành độc
lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, Đảng luôn gắn với phương hướng phát
triển đi lên CNXH. Đặt cách mạng dân tộc dân chủ trong mối quan hệ biện
chứng với cách mạng XHCN. Nó là tiền đề, điều kiện để tiến thẳng lên
CNXH, không qua thời kỳ phát triển TBCN. Đường lối đó hoàn toàn phù
hợp với xu thế vận động của thời đại là độc lập dân tộc gắn với CNXH.
Đồng thời, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của đông đảo quần chúng.
Biểu hiện trực tiếp, sinh động của đường lối giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH trong thời kỳ 1930 - 1954 ở Việt Nam là việc Đảng
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và phong
kiến, thực hiện mục tiêu dân tộc và dân chủ trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (3-2-1930) chỉ rõ: Mục tiêu chiến
lược trong cách mạng dân tộc dân chủ là giành độc lập dân tộc và ruộng đất
cho nông dân, nhưng để thực hiện được mục tiêu đó, trước hết phải tập
trung lực lượng toàn dân tộc chống đế quốc và tay sai, giải phóng dân tộc.
Đây là đường lối đúng đắn, sáng tạo đã kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc và
giai cấp, kết hợp giải quyết nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ dân chủ rất khoa
học. Nhưng sau đó, chúng ta chưa quán triệt và thực hiện đầy đủ tư tưởng
chiến lược nêu trong Cương lĩnh, có phần coi nhẹ yếu tố dân tộc, đề cao vấn
đề giai cấp và đấu tranh giai cấp.


15
Khắc phục hạn chế trên, trong những năm 1939 - 1945, tại các Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 6, 7,8 (1939, 1940, 1941) đã phát triển đường lối
giải quyết hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến do Cương lĩnh đầu
tiên đề ra, bằng việc giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc và coi đó là
nhiệm vụ chủ yếu cấp bách trong giai đoạn bấy giờ; đồng thời kết hợp với
nhiệm vụ chống phong kiến theo từng bước, nhằm phân hoá kẻ thù, tập

trung lực lượng giải quyết nhiệm vụ chủ yếu. Với đường lối đúng đắn, đã cổ
vũ mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, nhất tề vùng lên tiến hành khởi nghĩa
vũ trang giành chính quyền thắng lợi vào Tháng 8-1945.
Trải qua thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đại hội II
của Đảng cộng sản Đông Dương tiếp tục bổ sung phát triển hoàn chỉnh
đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ. Trong đó thành công nổi bật ở việc
xác định nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong kháng chiến và kiến quốc,
chống thực dân Pháp xâm lược. Về vấn đề này, Đảng đã đi đến kết luận:
phải tiến hành đồng thời chống đế quốc và phong kiến nhằm mục tiêu giành
độc lập dân tộc và ruộng đất cho nông dân; song trước hết phải đặt nhiệm vụ
chống đế quốc tay sai lên hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến phải làm
từng bước, có kế hoạch, phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Đến đây, Đảng
giải quyết nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và dân chủ trên
lập trường giai cấp công nhân. Nhờ vậy, đã huy động được lực lượng đông
đảo toàn dân tộc tích cực tham gia và đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến
chống thực dân Pháp giành thắng lợi to lớn vào đầu năm 1954. Buộc thực
dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ công nhận chủ quyền, độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
2.2. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, tiến hành đồng
thời hai chiến lược: cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miềm Nam
và cách mạng XHCN ở miền Bắc (1954-1975).
Sau khi thực dân Pháp thất bại, đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, xâm
lược và thống trị nhân dân ta ở miền Nam.
Ở nước ta lúc này, đất nước bị tạm thời chia làm hai miền, với hai chế
độ chính trị đối lập. Chủ trương của Đảng tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược: chiến lược cách mạng XHCN ở miền Bắc và chiến lược cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Tuy hai nhiệm vụ chiến lược
trên có vị trí, vai trò, nhiệm vụ riêng phù hợp với yêu cầu của mỗi miền,



16
nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ tác động hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau.
Cách mạng XHCN miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất của sự nghiệp cách
mạng chung cả nước và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cách
mạng miền Nam giữ vai trò trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai, đồng
thời góp phần bảo vệ thành quả XHCN ở miền Bắc. Mục tiêu độc lâp dân
tộc và CNXH hoà quyện vào nhau, hỗ trợ nhau tạo động lực to lớn thúc đẩy
cách mạng Việt Nam phát triển không ngừng.
Đường lối đúng đắn của Đảng đã cổ vũ tinh thần quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược, tinh thần thi đua lao động sản xuất xây dựng CNXH của
nhân dân cả nước làm cho thế và lực của cách mạng tăng lên, liên tiếp giành
được những thắng lợi to lớn trên cả hai miền, hai lĩnh vực sản xuất và chiến
đấu, góp phần quyết định đánh thắng các chiến lược chiến tranh tàn bạo của
đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước vào mùa xuân 1975.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, thắng lợi của cách mạng Việt Nam
thời kỳ 1954 - 1975 được bắt nguồn từ đường lối giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH. Cũng chính từ đường lối đúng đắn đó, đã giúp cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động
quyết tâm đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Đồng thời, còn tranh thủ
được sự giúp đỡ của phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là sự giúp đỡ
của các nước XHCN anh em, đã phát huy được sức mạnh dân tộc kết hợp
với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, đánh thắng đế
quốc Mỹ, giải phóng miền Nam đưa cả nước tiến lên CNXH.
3. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH trong thời kỳ cả
nước quá độ lên CNXH và trong sự nghiệp đổi mới (1975-2001).
Sau thắng lợi mùa xuân 1975, nhân dân ta bắt tay vào công cuộc hàn
gắn vết thương chiến tranh, lao động sáng tạo xây dựng đất nước, bởi những
mục tiêu của độc lập dân tộc và CNXH vẫn còn phải tiếp tục phấn đấu thực
hiện mới bảo đảm cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Qua 10 năm (1975-1985) tiến hành cách mạng XHCN trên phạm vi cả

nước, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc XHCN. Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta còn mắc phải một số sai lầm,
khuyết điểm làm hạn chế thắng lợi của cách mạng. Nhưng những yếu kém
đó tuyệt nhiên không phải do bản chất của CNXH gây nên.


17
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật nói rõ sự
thật, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, trên nền tảng giữ vững định hướng XHCN và những nguyên
tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Với đường lối đổi mới của Đảng,
cách mạng nước ta phát triển không ngừng và liên tiếp giành được nhiều
thắng lợi to lớn, đời sống nhân dân ngày càng cải thiện rõ rệt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) tiếp tục khẳng
định đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn. Đồng thời, Đại hội
VII còn bổ sung, phát triển lý luận xây dựng CNXH ở Việt Nam trong điều
kiện mới, rút ra những kinh nghiệm bước đầu về tiến hành công cuộc đổi
mới, trong đó có kinh nghiệm quan trọng "phải giữ vững định hướng XHCN
trong quá trình đổi mới" (1).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) tiến hành tổng
kết 10 năm đổi mới. Một lần nữa Đảng ta tiếp tục khẳng định bài học "Giữ
vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới" (2) ngày
càng có giá trị đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Phát huy thành quả của 10 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng (2001) được tiến hành trong không khí cả dân tộc tin tưởng
vào Đảng, vững bước tiến vào thế kỷ XXI dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH. Đại hội đề ra những quyết sách lớn, vạch ra chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội 2001-2010… nhằm làm cho CNXH ở nước ta ngày càng phát
huy tác dụng hơn nữa và trở thành hiện thực sinh động trong mọi lĩnh vực
đời sống của nhân dân. Đại hội IX của Đảng khẳng định những bài học đổi

mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá
trị lớn. Đồng thời Đại hội xác định những bài học chủ yếu của 15 năm đổi
mới (1996-2000), trong đó nhấn mạnh bài học hàng đầu là: "Trong quá trình
đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" (3).
Như vậy, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH là nguồn gốc
dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó là vấn đề thuộc về
nguyên tắc chiến lược bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đúng hướng, đúng
quy luật thời đại, bảo đảm cho nhân dân ta có được cuộc sống ấm no, tự do,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.52
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.70.
(3) Văn kiện Đaị hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 19.
(1)
(2)


18
hạnh phúc. Từ đó đòi hỏi chúng ta phải phân tích sâu sắc tình hình thế giới,
trong nước để vận dụng có hiệu quả bài học nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH vào giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
Những nội dung cần nắm vững để tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và CNXH trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở Việt Nam.
Một là, Tiếp tục kiên định con đường đi lên CNXH mà Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.
Hai là, Phấn đấu thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Ba là, Xây dựng CNXH phải tuân thủ các quy luật phổ biến của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời còn biết kế thừa và phát triển
triển truyền thống dân tộc, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam.
Bốn là, Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực của cộng đồng dân tộc, đồng

thời biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.



×