Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN độc lập, tự CHỦ, SÁNG tạo của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM TRONG xác ĐỊNH ĐƯỜNG lối CHỐNG mỹ, cứu nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.2 KB, 20 trang )

1

ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TRONG
XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
==========================

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã kết thúc thắng lợi giải
phóng miền Bắc, nhân dân ta lại phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống đế
quốc Mỹ xâm lược. Cuộc chiến tranh thần thánh lần thứ hai là cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại cuộc chiến tranh xâm lược thực
dân kiểu mới của đế quốc Mỹ tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế,
quân sự mạnh nhất phe đế quốc với chính sách xâm lược và thống trị
vừa tàn bạo, vừa thâm độc xảo quyệt. Nhân dân ta tiến hành cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc chống đế quốc Mỹ trong điều kiện mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam: miền Bắc được giải phóng đang
từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội trở thành hậu phương lớn của cách
mạng miền Nam, cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, nhưng cũng
có mặt phức tạp do nảy sinh cuộc đấu tranh gay gắt về đường lối quan
điểm trong nội bộ phong trào cộng sản quốc tế, đặc biệt do sự xuất hiện
của chủ nghĩa cơ hội xét lại trong một số nước xã hội chủ nghĩa.
Bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân ta đã
từng trải qua những chặng đường đấu tranh gian khổ, ác liệt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với một đường lối chính trị đúng đắn,
sáng tạo khoa học, nhân dân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Thắng
lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước kết thúc quá
trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm
dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra


2



bước ngoặt vĩ đại thiết lập quyền làm chủ của nhân dân trên toàn bộ đất
nước, đưa cả nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó do nhiều
nguyên nhân. Trong đó và trước hết là tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo
của Đảng trong xác định đường lối chống Mỹ cứu nước. Đó cũng thể
hiện tư duy sắc bén và năng lực lãnh đạo của Đảng trước mọi tình thế và
giành thắng lợi.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong việc nhận định, đánh
giá đúng kẻ thù của dân tộc từ rất sớm.
Ngay từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chưa kết thúc,
ngày 22/2/1954, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị: “Ra sức phá tan mưu đồ đẩy
mạnh chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp - Mỹ” 1. Trên cơ sở phân
tích những hành động của Mỹ “từ chỗ giúp tiền, vũ khí và kế hoạch cho
thực dân Pháp, tiến đến chỗ trực tiếp can thiệp một cách trắng trợn chiến
tranh Đông Dương’, Đảng ta đã nhận định: “Dã tâm của đế quốc Mỹ là
một mặt giúp Pháp hòng cứu vãn tình thế lúng túng hiện thời, mặt khác
lợi dụng lúc Pháp đang gặp khó khăn mà lấn dần quyền lợi của Pháp ở
Đông Dương”2.
Từ nhận định trên, Đảng ta chỉ rõ một trong những công tác trước
mắt của cách mạng Việt Nam là đẩy mạnh việc tuyên truyền chống Mỹ
can thiệp vào chiến trường Đông Dương, kịp thời vạch rõ mưu mô và
hành động xâm lược của Mỹ, khắc phục tư tưởng hoà bình nhất là sau
Hội nghị bốn ngoại trưởng ở Béc lin đã công bố quyết định sẽ họp một
hội nghị vào tháng 4 năm 1954, để tìm cách giải quyết hoà bình về vấn
đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương .
1
2

ĐCSVN, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, tr. 29.
ĐCSVN, Văn kiện Đảng, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 30.



3

Trước sự can thiệp ngày càng sâu của đế quốc Mỹ vào chiến tranh của
thực dân Pháp ở Đông Dương đặc biệt là khi Mỹ đưa một số phi công Mỹ
lái máy bay tiếp cứu cho Pháp ở Điện Biên Phủ và cử O - Daniel làm trưởng
đoàn cố vấn quân sự Mỹ ở Đông Dương. Trước những vấn đề đó, ngày
7/4/1954 Ban Bí thư đã ra chỉ thị về đẩy mạnh tuyên truyền vạch rõ mưu mô
can thiệp Mỹ, tăng cường quyết tâm kháng chiến. Chỉ thị nêu rõ: “Cần vạch
rõ tội ác của bọn can thiệp Mỹ, nhưng không làm cho nhân dân sợ Mỹ” 3.
Ngay sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, Đảng ta đã chỉ rõ: “ Ta đã
thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ, song cuộc đấu tranh ái quốc để
thực hiện độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình của nhân dân ta còn nhiều
gian khổ, gay go. Đúng như nhận định của Đảng ta, sau khi Hội nghị
Giơnevơ bàn về kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam. trong số 9
đoàn dự hội nghị Giơnevơ, có 8 đoàn tham gia ký vào hiệp định. Đây là sự
chuẩn bị trước cho việc Mỹ không thực hiện Hiệp định sau này. Âm mưu
của Mỹ can thiệp vào Đông Dương đã lộ rõ, Mỹ đang tìm mọi cách để hất
cẳng Pháp để độc chiếm Việt Nam, Căm Pu Chia và Lào biến nhân dân ba
nước thành nô lệ của Mỹ”. Do vậy hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của
nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân
dân Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ. Bất kỳ
người nào, nước nào không thân Mỹ đều có thể làm mặt trận thống nhất
(dù là tạm thời) với ta”4.
Đúng như mọi nhận định, đánh giá của Đảng ta, đế quốc Mỹ đã can
thiệp trắng trợn vào ba nước Đông Dương, đặc biệt là ở miền Nam Việt
3
4


Sđd, tr 76.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 7, tr. 319.


4

Nam. Mỹ và tay sai chống lại Hiệp định Giơnevơ, dựng lên chính quyền
bù nhìn tiếp tay cho Mỹ thực hiện mưu đồ: biến miền Nam Việt Nam
thành căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tiến công miền Bắc và các
nước XHCN.
Thực tế lịch sử đã cho ta thấy, bằng tiền bạc vũ khí, trang bị hiện
đại và đội ngũ cố vấn lành nghề, dựa vào hệ thống ấp chiến lược, dựa
vào nguỵ quân, nguỵ quyền, chúng đã thực hiện nhiều kế hoạch, sách
lược, thủ đoạn hết sức thâm độc và dã man đối với nhân dân ta, hòng áp
đặt chế độ thực dân mới trên đất nước ta. Từ kế hoạch “Ai xen Hao” hay
chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam
hoá chiến tranh” kể cả chúng trực tiếp đem quân viễn chinh và các nước
chư hầu vào chiến trường miền Nam Việt Nam tham chiến, hay chúng
dùng không quân, hải quân đánh phá dữ dội miền Bắc, thực hiện bước
leo thang chiến tranh. Tất cả những hành động đó đều không nằm ngoài
dự báo của Đảng ta ngay khi Hiệp định Giơnevơ vừa được ký kết, khi
kháng chiến chống Pháp chưa giành được thắng lợi.
Trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đã giành
được thắng lợi hoàn toàn đã chứng minh được tính đúng đắn, sáng tạo,
độc lập, tự chủ của Đảng ta trong việc xác định sớm và chính xác kẻ thù
của dân tộc ta. Đây là một yếu tố quan trọng để tạo nên sự thống nhất về
nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, nó
chi phối đến quá trình xác định nhiệm vụ, phương pháp đấu tranh, thể
hiện tinh thần chủ động, sáng tạo trong việc chuẩn bị cả tinh thần và lực

lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc đi đến thắng lợi.


5

Độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng được thể hiện ở những dự
kiến, phán đoán chính xác về những khả năng, tình huống sẽ diễn ra
trong quá trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Ngoài việc xác định đúng kẻ thù của dân tộc, Đảng ta còn dự kiến,
phán đoán những khả năng tình huống sẽ xảy ra là một trong những ưu
điểm cơ bản của Đảng ta, là cơ sở để Đảng ta xác định chủ trương, chiến
lược và sách lược chỉ đạo cách mạng, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ
đến thắng lợi. Một trong những nội dung quan trọng về khả năng dự
kiến, phán đoán khả năng xảy ra tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
(khoá II) năm 1959. Nghị quyết lịch sử này, đã từng bước phán đoán âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù, đánh giá đúng so sánh thế và lực giữa ta và
địch, đặc biệt là tình hình lúc bấy giờ, sau khi thất bại trong chính sách
thực dân mới không dùng đến chiến tranh, Mỹ - Diệm điên cuồng đàn áp
khủng bố trắng nhằm ngăn chặn dòng thác cách mạng. Chúng công khai
tuyên bố “đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh”. Ngày 6/5/1959
Mỹ - Diệm ra đạo luật phát xít 10/9. Toà án quân sự đặc biệt có quyền
đưa thẳng người bị bắt ra xét xử và có quyền bắn tại chỗ. Theo con số
ước tính, đến năm 1959 ở miền Nam có 466.000 người bị bắt, 400.000 bị
tù đầy, 68.0000 bị giết hại.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta chỉ rõ: “Con đường phát triển cơ bản
của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân
dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con
đường đó lấy sức mạnh của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực
lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc phong kiến, dựng
lên chính quyền cách mạng của nhân dân” 5. Đây là phương thức mở đầu

5

ĐCSVN, Văn kiện Đảng, tập 20, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 82, 83.


6

cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, đáp ứng nguyện
vọng của quần chúng bị áp bức, phù hợp với xu thế chung của thế giới
lúc đó. Vấn đề nhấn mạnh ở đây là Đảng ta đã nhận rõ mưu đồ của đế
quốc Mỹ và dự kiến khả năng tình hình sẽ xảy ra, từ đó có chủ trương,
biện pháp chỉ đạo cách mạng cho phù hợp và giành thắng lợi.
Hội nghị dự báo: Đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho
nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền
Nam, có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ và
thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:
- Cứu nước là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân.
- Không phải một lúc ta đánh đổ ngay chế độ Mỹ - Diệm. Vì vậy,
cần đánh lui từng bước, tranh từng thắng lợi về phía mình. Chuẩn bị lực
lượng khi thời cơ đến.
- Cách mạng miền Nam nhất định thắng lợi, vì Đảng ta và nhân dân
ta có đủ sức khắc phục khó khăn.
- Chỉ cần nhân dân ta đoàn kết một lòng, trước hết là đoàn kết toàn
Đảng, thì mọi khả năng sẽ vượt qua.
Nghị quyết 15 và những dự báo đúng của Đảng có ý nghĩa lịch sử to
lớn, đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, đã xoay chuyển tình
thế, dẫn đến cuộc “Đồng khởi” oanh liệt của toàn miền Nam năm 1960.
Tính đến cuối năm 1960, cao trào “Đồng khởi” của nhân dân miền Nam đã
căn bản làm tan rã cơ cấu chính quyền địch ở đại bộ phận cơ sở. Thế trận

của địch ở miền Nam bị đảo lộn, từ chỗ tập trung lực lượng hô hào “Bắc
tiến” chúng phải dồn về chống đỡ với cách mạng miền Nam. Phong trào


7

“Đồng khởi” trên thực tế đã chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn
lực lượng, sang thế tấn công, giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Ai Xen
hao, đẩy chính quyền Mỹ vào tình thế bế tắc, mở ra bước ngoặt của cách
mạng miền Nam, góp phần bảo vệ và củng cố miền Bắc.
Thắng lợi đó, chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên
bị lung lay tận gốc, đế quốc Mỹ đã bị động phải thay đổi chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”. Chính nhờ dự báo đúng tình hình, Đảng ta đã
chuẩn bị mọi lực lượng, thế trận cho cách mạng miền Nam: Từ việc
thành lập mặt trận giải phóng miền Nam (20/12/1961) đến việc thành lập
Trung ương Cục miền Nam (10/1961) và từng bước xây dựng lực lượng
3 thứ quân trên chiến trường miền Nam. Do đó, khi quân viễn chinh Mỹ
và chư hầu trực tiếp tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” xâm lược
Việt Nam với vũ khí trang bị hiện đại nhất lúc bấy giời (trừ vũ khí hạt
nhân). Nhờ có những dự kiến đúng Đảng và nhân dân ta không bị động
mà ở thế chủ động sẵn sàng đập tan chiến lược “chiến tranh cục bộ” của
đế quốc Mỹ.
Trận “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 là một trong những dự
kiến, phán đoán chính xác điển hình tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ngày 20/10/1972, phía Mỹ chấp nhận những điều căn bản của dự
thảo hiệp định và thoả thuận lệnh ký kết. Nhưng ngay sau đó, Mỹ lật
lọng, với lý do “khó khăn từ phía chính quyền Sài Gòn” đòi ta phải sửa
nhiều khoản đã thoả thuận. Âm mưu của Tổng thống Nich Xơn là muốn
đánh thêm một đòn quân sự nữa sau bầu cử Tổng thống ở Mỹ để ép ta

phải nhượng bộ và tranh thủ thời gian viện trợ cho quân nguỵ Sài Gòn.


8

Ngay sau khi Mỹ có thái độ tráo trở, Bộ Chính trị chỉ rõ: Sau khi vượt
qua tuyển cử, Ních Xơn sẽ tăng cường hành động quân sự; quân và nhân
dân cả nước phải kiên trì đẩy mạnh kháng chiến, đánh thắng âm mưu
kéo dài và kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của đế quốc Mỹ; miền Bắc
có nhiều vụ đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở mức độ cao,
đặc biệt là bằng máy bay B52. Từ cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dự kiến: “Sớm muộn đế quốc Mỹ sẽ đưa B52 đánh ra Hà Nội trước
khi chúng chịu thua trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam” 6. Đến
đầu năm 1968, khi đến thăm bộ dội phòng không - không quân Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm, càng
tốt. Nhớ là trước khi thua Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã huỷ diệt Bình
Nhưỡng ở Việt Nam Mỹ nhất định thua. Nhưng nó chịu thua sau khi
thua trên bầu trời Hà Nội”7. Những dự kiến, dự báo sáng suốt của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi đường cho quân và nhân dân ta trong nhiệm
vụ đánh thắng máy bay B 52. Quán triệt tinh thần ấy quân và nhân dân ta
ráo riết chuẩn bị chiến đấu, tăng cường công tác phòng không nhân dân,
hoàn chỉnh các phương án đánh địch, đồng thời đánh trả các cuộc đánh
phá quyết liệt của máy bay Mỹ từ vĩ tuyến 20 trở vào.
Đúng như dự kiến, dự báo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ
đêm 18 đến ngày 30/12/1972, trong vòng 12 ngày đêm đế quốc Mỹ đã
sử dụng 729 lượt B52 và 1.900 lượt máy bay cường kích tập trung đánh
phá Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, thả khối lượng bom có sức công
phá bằng 5 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản hồi tháng
8/1945.
6

7

Phóng thế Tài: Hồi ký, Tạp chí Lịch sử quân sự, tháng 12/1987.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, H. 2001.


9

Nhờ có dự kiến, dự báo đúng quân và dân miền Bắc đã chủ động,
kiên cường, mưu trí, tái tạo đã giáng cho địch những đòn đích đáng từ
trận đầu và đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược bằng máy
bay B52 của Mỹ, 81 máy bay hiện đại, trong đó có 34 B52 và 5 F11 bị
bắn rơi; 43 giặc lái bị bắt sống. Riêng hà Nội bắn rơi 23 B52, phần lớn là
bắn rơi tại chỗ. Thắng lợi đó đã buộc đế quốc Mỹ phải ký kết hiệp định
Pari rút hết quân viễn chinh Mỹ và chư hầu về nước, đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, góp phần quan
trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong đề ra đường lối chỉ
đạo và phương pháp cách mạng đúng đắn
Trước âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ là muốn biến miền Nam
Việt Nam thành căn cứ quân sự làm bàn đạp để tấn công các nước xã hội
chủ nghĩa. Chúng áp đặt chính sách thực dân mới. Trách nhiệm lịch sử đặt
lên vai Đảng lao động Việt Nam là phải tìm ra đáp số cho bài toán về con
đường giải phóng miền Nam và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc trong điều kiện Mỹ thay chân Pháp thống trị miền Nam. Từ
độc lập, tự chủ, sáng tạo trong xác định kẻ thù đến dự kiến, dự báo khoa
học của Đảng. Đảng còn độc lập, tự chủ, sáng tạo đề ra đường lối chỉ đạo
và phương pháp cách mạng đúng đắn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước và giành thắng lợi.
Ngay từ khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (1954), Mỹ đã dựng

lên bộ máy nguỵ quyền phát xít Ngô Đình Diệm và bộ máy nguỵ quân
làm tay sai cho chúng, chúng vừa chống phá hiệp định vừa thi hành
chính sách “tố cộng”, “diệt cộng” đàn áp, khủng bố lực lượng cách mạng


10

Việt Nam. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 6 (7/1954), lần thứ 7 (3/1955) và lần thứ 8 (1855), Đảng ta đã xác
định kẻ thù trực tiếp là đế quốc Mỹ và quyết định chuyển cách mạng
miền Nam từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị đòi thi hành
hiệp định. Đến năm 1956 khi Mỹ - Diệm tổ chức tổng tuyển cử riêng rẽ,
Bộ chính trị chủ trương đấu tranh chính trị tiến tới đấu tranh chính trị kết
hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ. Đây là bước tìm tòi đầu tiên về phương
pháp đấu tranh cách mạng ở miền Nam. Đến năm 1958, khi Mỹ - Diệm
điên cuồng đàn áp, khủng bố nhân dân ta với chính sách tàn bạo chưa
từng có, buộc nhân dân miền Nam phải đấu tranh sống còn với địch.
Trước tình hình đó Nghị quyết Trung ương 15 (khoá II) tháng 1/1959 đã
nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là giải phóng khỏi ách thống
trị của đế quốc, phong kiến. Nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn
thống trị Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc, dân
chủ giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập
và dân chủ, tích cực bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Nghị quyết còn chỉ rõ con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền
Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, phương pháp đấu
tranh là phải bằng bạo lực cách mạng. Hội nghị dự báo: Đế quốc Mỹ là
tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi
nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu
tranh vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
Nghị quyết Trung ương 15 đã đáp ứng được yêu cầu bức thiết của

cách mạng miền Nam và nguyện vọng thiết tha của đồng bào, cán bộ,
chiến sỹ miền Nam. Do đó, nghị quyết dã có tác dụng rất lớn trong việc


11

tổ chức nhân dân miền Nam, nổi dậy tạo nên phòng trào đồng khỏi rộng
khắp. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã phá vỡ từng mảng lớn hệ
thống chính quyền địch ở nông thôn, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt
từ giữ gìn lực lượng chuyển lên thế tiến công liên tục. Thắng lợi đó đã
khẳng định tính đúng đắn của đường lối chiến lược và sự chỉ đạo chiến
lược của Đảng trong bước đầu chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta.
Thắng lợi của phong trào đồng khởi của nhân dân ta ở miền Nam đã
đẩy chính quyền Sài Gòn vào thời kỳ khủng hoảng triền miên. Chiến
lược “chiến tranh đơn phương” của Ai xen Hao đã bị phá sản, trước tình
hình đó, Mỹ đã đề ra chiến lược “chiến tranh đặc biệt” là một trong ba
loại chiến tranh trong chiến lược “phản ứng linh hoạt” của Mỹ thay cho
chiến lược “trả đũa ồ ạt”, trong khi phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới đang phát triển làm sụp đổ từng mảng của hệ thống thuộc địa.
Mục đích của “chiến tranh đặc biệt” là chống lại phong trào giải phóng
dân tộc. Công cụ để tiến hành chiến tranh là lực lượng quân sự người
bản xứ do Mỹ trang bị và chỉ huy, tiền bạc, vũ khí, trang bị của Mỹ là
công cụ chủ yếu của “chiến tranh đặc biệt” hay nói cách khác là “dùng
người Việt trị người Việt” với vũ khí, đô la và cố vấn chỉ huy Mỹ. Đồng
thời Mỹ còn muốn dùng miền Nam làm nơi thí nghiệm cuộc chiến tranh
để áp đặt phong trào giải phóng dân tộc, đe doạ các nước mới giành
được độc lập dân tộc, bắt các nước đó phải chấp nhận chính sách thực
dân mới của chúng. Để kịp thời chỉ đạo cách mạng miền Nam, đồng thời
chủ động đánh bại âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của địch, tháng 1 năm
1961 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã nhận định: Thời kỳ tạm ổn định

của chế độ Mỹ - Diệm đã qua, và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp


12

nghiêm trọng của chúng đã bắt đầu. Nhân dân miền Nam từ thế bị kìm
kẹp đã vùng lên đấu tranh và tạo thành một phong trào cách mạng mạnh
mẽ, các hình thái du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện.
Cuộc tổng khủng hoảng toàn diện của chế độ Mỹ - Diệm sẽ diễn ra.
Cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của nhân dân có thể bùng nổ, lật
đổ chế độ chính quyền Mỹ - Diệm giải phóng miền Nam.
Bộ Chính trị dự kiến khả năng đế quốc Mỹ có thể can thiệp bằng
cách đưa quân vào miền Nam với quy mô nào đó, ta cần theo dõi và
chuẩn bị đề phòng. Bộ Chính trị quyết định đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh
chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu
tranh chính trị, tiến công địch cả bằng chính trị và quân sự. Phải ra sức
xây dựng lực lượng chính trị và quân sự, xây dựng và mở rộng căn cứ
địa, tạo điều kiện và nắm vững mọi thời cơ để đánh đổ chính quyền Mỹ Diệm giải phóng miền Nam.
Tháng 2/1962, Bộ Chính trị ra nghị quyết về nhiệm vụ trước mắt
của cách mạng miền Nam: Đẩy mạnh đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị, củng cố và mở rộng căn cứ địa, giành và giữ thế chủ động, tích
cực xây dựng về lực lượng về mọi mặt, nhất là lực lượng vũ trang tập
trung của miền Nam, đẩy mạnh tác chiến tập trung, tích cực xây dựng bộ
đội địa phương, dân quân tự vệ làm lực lượng hỗ trợ cho đấu tranh chính
trị ở cơ sở, phá cho kỳ được “ấp chiến lược” coi đây là công tác cấp
bách, đồng thời là nhiệm vụ lâu dài, đẩy cách mạng miền Nam tiến lên
một bước mới. Kế hoạch quân sự năm 1962 là phá cho kỳ được “chương
trình bình địch” 18 tháng của Mỹ - Diệm.



13

Như vậy, từ nhận định, đánh giá và dự kiến chính xác tình hình của
địch, Đảng ta đã có chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng, vì vậy đã
nhanh chóng thấm vào các tầng lớp nhân dân, chỉ đạo hướng dẫn và biến
thành hành động chống Mỹ cứu nước của quần chúng nhân dân, những
cuộc khởi nghĩa từng phần đã phát triển nhanh chóng thành cuộc chiến
tranh cách mạng, vừa đấu tranh chính trị, vừa đấu tranh quân sự, kết hợp
đánh địch ở rừng núi, nông thôn, đồng bằng với phong trào đấu tranh
của quần chúng ở đô thị. Kế hoạch lập “ấp chiến lược” của Mỹ - Diệm
ngay từ đầu đã bị chống trả quyết liệt. Một số ấp đã bị phá ngay từ đầu
mới thành lập, một số ấp đã biến thành làng chiến đấu ta sau hai năm
tiến hành chiến tranh đặc biệt. Kế hoạch Xtalay - Taylo bị thất bại thảm
hại.
Đầu năm 1965 cuộc “chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ tiến hành chống
lại nhân dân ta ở miền Nam đã phát triển lên đến đỉnh cao và đứng trước
nguy cơ thất bại hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, Mỹ đã ồ ạt đem quân
viễn chinh và chư hầu cùng với vũ khí, chuyển sang chiến lược “chiến
tranh cục bộ” ở miền Nam, đồng thời chúng dùng không quân, hải quân
gây chiến đánh phá miền Bắc. Trước những hành động leo thang chiến
tranh của đế quốc Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã triệu tập
Hội nghị lần thứ 11 (3/1965) và 12 (12/1965). Đảng ta đã nhận định: đó
vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, tính chất và mục tiêu
chính trị của nó không có gì thay đổi. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh này
diễn ra ác liệt hơn, vì từ chỗ hoàn toàn dựa vào quân đội Sài Gòn, nay
thêm cả quân viễn chinh Mỹ và chư hầu, với số quân đông, trang bị hiện
đại hơn nhiều. Nhưng Mỹ đã mở rộng chiến tranh xâm lược trong thế bị


14


động, thế thua, theo một chiến lược đầy những mâu thuẫn. Đó là mâu
thuẫn giữa mục đích chiến tranh là nhằm cứu vãn chế độ thực dân mới
với biện pháp xâm lược dựa theo lối thực dân cũ. Chúng tuy được trang
bị hiện đại, nhưng tinh thần chiến đấu lại kém do ở thế thua, thế thất bại
và do tính phi nghĩa của cuộc chiến tranh. Tình hình đó không cho phép
bọn xâm lược sử dụng theo ý muốn tiềm lực kinh tế, lực lượng quân sự
của Mỹ, vả lại, hoạt động tăng cường chiến tranh xâm lược miền Nam,
mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ đã làm cho mâu thuẫn
vốn có từ trước giữa nhân dân ta ở hai miền với đế quốc Mỹ và tay sai
càng thêm sâu sắc, càng bồi cao ngọn lửa căm thù và gắn bó chặt chẽ
nhân dân hai miền trong chiến đấu. Trong khi đó, cách mạng miền Nam
đang ở thế thắng, cách mạng XHCN ở miền Bắc đạt được nhiều thành
tựu to lớn và đã thực sự trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng
cả nước, hậu phương lớn mạnh của nhân dân ta ngày càng được sự đồng
tình ủng hộ của các nước XHCN anh em và của nhân dân yêu chuộng
hoà bình thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Từ sự phân tích đó, Trung
ương Đảng đi đến kết luận: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam
hàng chục vạn quân Mỹ và chư hầu, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và
dịch vẫn không thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác
liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục
giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh
bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch.
Hội nghị hạ quyết tâm chiến lược: động viên lực lượng cả nước,
kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất
kỳ tình huống nào, phương châm chiến lược chung vẫn là đánh lâu dài,


15


dựa vào sức mình là chính. Tuy nhiên trong hoàn cảnh lúc đó, Hội nghị
cũng dự báo một khả năng khác: Trên cơ sở quán triệt và vận dụng
phương châm đánh lâu dài, cần phải cố gắng cao độ, tập trung lực lượng
cả hai miền để tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong một
thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và 12 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá III) có tầm quan trọng trong việc đánh bại chiến lược “chiến
tranh cục bộ” của Mỹ.
Tháng 1/1968 Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá III) thông qua nghị quyết Bộ chính trị 12/1967, Hội nghị
nhận định: Điểm cơ bản của tình hình vẫn là ta đang ở thế thắng, thế chủ
động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn; xu thế
của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng
ngự một cách bị động hơn trước.
Hội nghị hạ quyết tâm chiến lược: Chuyển cuộc chiến tranh cách
mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ tiến
công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định. Để thực hiện quyết tâm đó,
phải động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên một bước phát triển
cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành
thắng lợi quyết định. Mục tiêu chiến lược là đập tan ý chí xâm lược của
Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động
chiến tranh đối với miền Bắc.
Quán triệt và thực hiện quyết tâm chiến lược, đêm 30 ngày
31/1/1968 (tức đêm giao thừa và đêm mồng 1 tết), cuộc tổng tiến công


16

và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra trên khắp chiến trường với hướng chính

là các đô thị, trung tâm quân sự, chính trị của Mỹ - nguỵ quân và dân ta
đã đồng loạt tiến công nổi dậy, giáng cho Mỹ nguỵ một đòn nặng nề
choáng váng làm đảo lộn thế trận chiến lược của địch, ý chí xâm lược
của chúng lung lay. Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị phá sản,
buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc và chấp nhận
đàm phán với ta ở Pari và công khai từ bỏ ý đồ giành thắng lợi về quân
sự bằng leo thang chiến tranh, thừa nhận bị phá sản chiến lược “chiến
tranh cục bộ”.
Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt
Nam, nước Mỹ lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng cả về kinh tế,
chính trị. Tình hình đó thúc ép Mỹ phải điều chỉnh chiến lược để tiếp tục
thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới, ở Việt Nam, chúng đề ra chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh”, thực chất là dùng người Việt trị người Việt.
Chúng tiến hành các chiến dịch bình địch, hành quân càn quét, dồn dân,
dập ấp kìm kẹp và tìm cách tiêu diệt lực lượng ta. Để củng cố tinh thần
quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Hội nghị Trung
ương 18 (khoá III) tháng 1/1970, đánh giá cục diện kháng chiến, đề ra
phương hướng và giải pháp đưa cuộc kháng chiến tiến lên. Hội nghị
khẳng định những thắng lợi đã đạt được trong hai năm 1968 - 1969, vạch
rõ khuyết điểm của sự chỉ đạo là chưa đánh giá đầy đủ, kịp thời âm mưu
mới của địch, chậm đề ra chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, dẫn đến
nhiều thiệt hại, khó khăn. Hội nghị nhấn mạnh phải nhận rõ tính chất lâu
dài, gay go phức tạp của cuộc đấu tranh, kiên trì khắc phục và xây dựng
lực lượng chiến đấu, tiến tới giành thắng lợi quyết định.


17

Hội nghị chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các thành
thị, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn,

mở rộng vùng giải phóng.
Hội nghị Trung ương lần thứ 18 đánh dấu sự chuyển hướng quan
trọng về chỉ đạo chiến lược của Đảng. Hội nghị đã tạo ra sự nhất trí, tin
tưởng và quyết tâm mới trong toàn Đảng, toàn quân và dân ta, đã đấu
tranh quyết liệt trên cả ba mặt trận, phối hợp chặt chẽ chiến trường 3
nước Đông Dương, buộc địch phải chấm dứt chiến tranh, ngồi vào bàn
đàm phán với ta trên thế thúc.
Sau Hiệp định Pari, mặc dù Mỹ đã nhận thất bại, nhưng chúng
không từ bỏ âm mưu kéo dài chiến tranh, chúng gấp rút xây dựng lực
lượng nguỵ quân, tiến hành “lấn chiếm”, “bình định” cố gắng giành lại
quyền chủ động trên chiến trường. Tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21
Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp tại Hà Nội và ra nghị quyết
thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ
của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới.
Hội nghị nhận định: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta là một cuộc đọ sức điển hình, là tiêu điểm của một đấu tranh
vô cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng thế giới, là cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc mang tính thời đại sâu
sắc. Hiệp định Rari đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân ta, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ,
làm thất bại một bước quan trọng học thuyết Nich Xơn. Hội nghị bàn về
nhiệm vụ, kế hoạch đánh địch, rút ra bài học kinh nghiệm sau 18 năm


18

kháng chiến chống Mỹ, xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền
Nam trong giai đoạn mới. Chuẩn bị tiến tới giải phóng miền Nam.
Tháng 10/1974 Bộ Chính trị dự đoán thời cơ sẽ đến trong 2 năm 1975
và 1976, Đảng chủ trương mở rộng tấn công bất ngờ để đến năm 1976 mở

cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Tháng 1/1975, khi thấy rõ tình hình so sánh lực lượng trên chiến
trường có lợi cho ta, Bộ Chính trị nhận định: Nếu thời cơ đến vào năm
1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975. Đúng
như dự kiến của Đảng cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào mùa xuân năm
1975 của quân dân ta đã diễn ra và trận kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta hoàn toàn thắng lợi.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
ta đã chứng minh: Đảng ta đã phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, sáng tạo đề ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng
tạo.
Chủ động chuẩn bị cả thế và lực cho cách mạng. Đó là cách lý giải
đầy cách thuyết phục vì sao Việt Nam có thể đủ bản lĩnh để đánh Mỹ và
thắng Mỹ.
Từ những thắng lợi to lớn đó, đã chứng minh rằng trong lúc khó khăn
phức tạp nhất của tình hình, đặc biệt là khi mang quân ồ ạt tiến công trực tiếp
ở miền Nam, có nhiều ý kiến khác nhau, có nơi tỏ ra tâm lý hoang mang, dao
động, tâm lý sợ Mỹ, không muốn ta đánh Mỹ “sợ đốm lửa nhỏ sẽ thiêu cháy
cả khu rừng”, sợ chiến tranh Việt Nam sẽ lan ra chiến tranh thế giới thứ ba; có
người cho rằng ta chấp nhận giao chiến với Mỹ chẳng khác nào “cưỡi trên


19

lương hổ”...Một số người khuyên ta kiềm chế, cho thời cơ...Tình hình đó đặt
ra cho Đảng ta phải phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
xác định đường lối lãnh đạo đúng đắn, phương châm chỉ đạo phù hợp làm
nên chiến thắng quan trọng tạo tiền đề cho thắng lợi của cách mạng năm
1975.

Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng được phát huy tác dụng tốt
khi Đảng dự báo khả năng phát triển của tình hình, đề ra đường lối đúng
đắn, giành thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao
là chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, giành thắng lợi hoàn toàn ở miền
Nam thống nhất đất nước. Cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta
đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu, vô giá. Một trong những
bài học đó là tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trước những
bước ngoặt của cách mạng đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp và giành
thắng lợi to lớn. Bài học ấy, được Đảng ta vận dụng ngay từ thời kỳ
Đảng ta đề ra đường lối đổi mới (12/1986). Trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Đảng ta luôn luôn chủ động bám sát sao thực tiễn diễn
biến tình hình trong nước và trên thế giới, chỉ ra những thuận lợi và khó
khăn, bước đi phù hợp và giành được những thành tựu to lớn. Thành tựu
đó được Đảng ta tổng kết 21 năm thực hiện đường lối đổi mới vừa qua
(1986 - 2006) đã khẳng định đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo cách mạng Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Ngày nay, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng một nước kém phát triển trước năm 2010 để tạo nền tảng đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện


20

đại. Trong những chặng đường tiếp theo này, tình hình thế giới tiếp tục
phát triển với những biến động phức tạp. Bên cạnh những thời cơ và
thuận lợi, đất nước ta phải đối mặt với không ít thách thức, khó khăn.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra gay gắt và quyết
liệt. Các thế lực thù địch đã và đang triển khai tích cực hơn, quyết liệt hơn,

chiến lược “Diễn biến hoà bình”. Những nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra qua
các kỳ Đại hội trong thời kỳ đổi mới vẫn còn tồn tại, mầm mống những
nguy cơ mới đã xuất hiện hoặc tiềm ẩn, độc lập dân tộc, hoà bình và ổn
định luôn bị các thế lực thù địch chống phá. Tình trạng suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn
ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn và có hiệu quả. Những biểu hiện ra
rời mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa chưa được khắc phục.
Những thực trạng ấy, đặt ra cho Đảng ta có cách đánh giá, nhìn nhận,
dự báo, dự kiến chính xác từ đó đề ra đường lối, chủ trương, những giải
pháp phù hợp đưa cách mạng nước ta gianh được những thắng lợi to lớn
với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong sáng chiến chống Mỹ, cứu
nước được Đảng ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong suốt quá trình
hoạch định đường lối và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới. Đảng ta luôn
luôn kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nắm vững và
vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là một biểu hiện sinh động cụ thể của tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay.



×