Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại các cơ sở mầm non tư thục phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHUẤT THỊ THANH HIỀN

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC GIÁO DỤC TRẺ
TẠI CÁCCƠ SỞ MẦM NON TƯ THỤC
PHƯỜNG KHƯƠNG ĐÌNH, QUẬN THANH XUÂN,
HÀ NỘI
Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số

: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ HUỆ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

KHUẤT THỊ THANH HIỀN



LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thành luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Quản lý giáo dục với đề tài “ Quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại các
cơ sở giáo dục mầm non tư thục phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội
”ngoài sự cố gắng của bản thân, em đã nhận được sự giúp đỡ, những lời động viên
từ gia đình, thầy cô và bạn bè.
Với tình cảm chân thành, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- PGS. TS Nguyễn Thị Huệ là người trực tiếp hướng dẫn khoa học, chỉ bảo
tận tình và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu, và hoàn thành luận văn.
- Lãnh đạo Khoa Tâm lí – Giáo dục, Học viện Khoa học xã hội( thuộc Viện
Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam), các thầy cô giáo đã giảng dạy cho em trong
suốt hai năm học vừa qua, cung cấp cho tôi những kiến thức bổ ích để ứng dụng vào
đề tài của mình.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn Lãnh đạo UBND Phường Khương Đình, Phòng
GD&ĐT Quận Thanh Xuân, Cán bộ quản lý và giáo viên các cơ sở mầm non tư
thục Phường Khương Đình cùng bạn bè, người thân đã tạo điều kiện cả về thời gian,
vật chất, tinh thần cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, mặc dù bản thân
em đã luôn cố gắng nhưng chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Kính mong được sự góp ý, chỉ dẫn của các Thầy cô giáo, các nhà khoa học và các
bạn đồng nghiệp để luận văn này có giá trị thực tiễn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà nội, ngày 27 tháng 2 năm 2017
Tác giả luận văn

Khuất Thị Thanh Hiền


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ

13

mầm non
1.1

Môt số khái niệm công cụ

13

1.2

Một số loại hình cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập, vị trí và

19

vai trò của quản lý cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập
1.3

Đặc trưng của công tác quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ

20

mầm non
1.4


Các yếu tố ảnh hưởng đến việc quản lý hoạt động chăm sóc giáo

24

dục trẻ mầm non tư thục
1.5

Nội dung quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại cơ sở giáo

27

dục mầm non tư thụccó hiệu quả
Chương 2. Thực trạng quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại các

30

cơ sở mầm non tư thục thuộc địa bàn phường Khương
Đình, quận Thanh Xuân, Hà nội
2.1

Một số nét về kinh tế xã hội và giáo dục của phường Khương Đình,

30

quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
2.2

Kết quả về giáo dục và đào tạo của phường Khương Đình, quận


32

Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
2.3

Thực trạng về hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo

32

dục mầm non tư thụcPhường Khương Đình
2.4

Thực trạng công tác quản lí hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong

36

các cơ sở mầm non tư thụctại Phường Khương Đình
2.5

Nhận xét chung về thực trạng quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ

43

trong các cơ sở giáo dục mầm non tư thục tại phường Khương Đình
Chương 3. Một số biện pháp quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ
tại các cơ sở mầm non tư thục tại phường Khương Đình,
quận Thanh Xuân, Hà Nội

50



3.1

Một số tắc xây dựng biện pháp

3.2

Một số biện pháp quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại các

50

cơ sở giáo dục mầm non tư thụcphường Khương Đình, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội

51

3.3

Mối quan hệ giữa các biệp pháp

59

3.4

Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp

60

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ


65

TÀI LIỆU THAM KHẢO

68


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CBGVNV

: Cán bộ giáo viên nhân viên

CS-GD

: Chăm sóc giáo dục

BGDĐT

: Bộ Giáo dục và Đào tạo

GD

: Giáo dục

GD&ĐT

: Giáo dục và Đào tạo

GDMN


: Giáo dục mầm non

GD MNNCL

: Giáo dục mầm non ngoài công lập

GV

: Giáo viên

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KH

: Kế hoạch

KT-XH-ANQP

: Kinh tế - xã hội - An ninh quốc phòng

MN

: Mầm non

QL

: Quản lý


THCS

: Trung học cơ sở

TTLT

: Thông tư liên tịch

UBND

: Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
2.1 Thực trạng hoạt động chăm sóc trẻ

33

2.2 Thực trạng thực hiện chương trình GDMN

34

2.3 Mức độ lập kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ tại các

36

cơ sở mầm non tư thục Phường Khương Đình Quận Thanh Xuân
2.4 Thực trạng quản lý hoạt động chăm sóc trẻ tại các


38

cơ sở mầm non tư thụcPhường Khương Đình
2.5 Thực trạng quản lý thực hiện chương trình giáo dục
BẢNG

40

trẻ
2.6 Thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra phân loại

42

giáo viên, nhân viên trong hoạt động chăm sóc giáo
dục tại các cơ sở mầm non tư thụcPhường Khương
Đình
3.1 Kết quả khảo sát giảng viên về “tính cần thiết” của

60

các biện pháp
3.2 Kết quả khảo sát giảng viên về “tính cần khả thi”

62

của các biện pháp
3.1
SƠ ĐỒ

Mối quan hệ giữa các biện pháp quản lý hoạt động

chăm sóc giáo dục trẻ tại các cơ sở mầm non tư thục

59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Giáo dục làquốc sách hàng đầu” để xây dựng và phát triển đất nước. Công
tác giáo dục luôn là mối quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì lẽ
đó,Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy
sự nghiệp giáo dục phát triển.
Xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối
giáo dục, một con đường quan trọng để phát triển giáo dục nước ta. Xã hội hóa giáo
dục nhằm mục tiêu huy động sự tham gia của toàn xã hội vào phát triển sự nghiệp
giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, làm cho mọi người, mọi tổ
chức đều được đóng góp để phát triển giáo dục cũng như được hưởng thụ những
thành quả giáo dục ngày càng cao.
Hiện nay, nhà nước thống nhất quản lý giáo dục trên quy mô quốc gia, gồm
02 khu vực: công lập và ngoài công lập. Việc đa dạng hóa các loại hình giáo dục,
phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục ngoài công lập với hai hình thức dân lập và
tư thục, mở rộng liên kết, hợp tác với nước ngoài và phát triển hợp lý cơ sở giáo dục
do nước ngoài đầu tư 100% vốn. Quyền sở hữu của các cơ sở giáo dục ngoài công
lập được xác định theo bộ Luật Dân sự.
Thực tế cho thấy vai trò của khu vực giáo dục ngoài công lập, đặc biệt là
mạng lưới các trường tư thục đang ngày càng thể hiện rõ vai trò của mình, đặc biệt
là trong giáo dục mầm non.
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt
nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, ngôn ngữ, tình cảm xã hội và thẩm
mỹ của trẻ em trước 6 tuổi. Những kĩ năng mà trẻ lĩnh hội được qua các chương
trình giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của

trẻ. Do vậy, phát triển giáo dục mầm non là trách nhiệm của các cấp, các ngành và
của toàn xã hội.
Trong những năm qua, với các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà
nước về phát triển GDMN, chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ngày càng được nâng
cao, quy mô GDMN ngày càng tăng, mạng lưới trường lớp mầm non ngày càng

1


phát triển rộng khắp trong cả nước. Loại hình giáo dục mầm non tư thục có xu thế
bùng nổ mạnh mẽ.
GDMN là bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân, "GDMN thực hiện việc
nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi"[33], tạo sự
khởi đầu cho sự phát triển toàn diện của trẻ, khơi dậy sự ham hiểu biết, hứng thú
trong việc học tập, đặt nền tảng cho những cấp học tiếp theo và cho việc học tập
suốt đời. GDMN có một vị trí quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực, phát triển trí tuệ con người, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài.
Công tác quản lý cơ sở GDMN nói chung và quản lý cơ sở GDMẦM NON
TƯ THỤC, cụ thể là cơ sở GDMN tư thục nói riêng đóng vai trò rất quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, nhưng trên thực tế vấn đề này chưa được
quan tâm đúng mức trên bình diện cả vĩ mô lẫn vi mô. Một số cơ sở GDMẦM NON
TƯ THỤC ở nước ta hiện nay, cũng như ở một số nước trên thế giới có mô hình
quản lý hiệu quả cần được đúc rút thành các bài học kinh nghiệm để áp dụng rộng
rãi trong các cơ sở GDMẦM NON TƯ THỤC ở nước ta. Trong những năm gần đây
mạng lưới trường lớp mầm non, đặc biệt là các cơ sở GDMẦM NON TƯ THỤC
được phát triển rộng khắp trong cả nước, quy mô phát triển ngày càng tăng. Cùng
với sự phát triển chung của đất nước, GDMẦM NON TƯ THỤC trên địa bàn quận
Thanh Xuân nói chung, phường Khương Đình nói riêng cũng không ngừng phát
triển cả về số lượng và chất lượng.
Mặc dù công tác quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại các cơ sở NCL

trong những năm gần đây đang được coi trọng và mang lại nhiều kết quả tích cực,
song trên địa bàn cả nước nói chung và quận Thanh Xuân nói riêng, hoạt động của
các cơ sở mầm non tư thục vẫn còn tồn tại nhiều bất cập như: Tình trạng số lượng
nhóm lớp tăng nhanh nhưng không theo quy hoạch, phát triển nhỏ lẻ, manh mún
nằm xen kẽ trong khu dân cư, do đó các nhóm lớp này không ổn định về số lượng,
chất lượng giáo dục. Việc quản lí gặp nhiều khó khăn, công tác quản lý các cơ sở
mầm non tư thục chưa theo kịp sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của loại hình
này. Đội ngũ giáo viên của các cơ sở tư thục hầu hết là người ngoại tỉnh nên thiếu
ổn định. Chất lượng chăm sóc sức khỏe, ăn uống, vệ sinh an toàn thực phẩm và

2


phòng tránh tai nạn tại các cơ sở này còn nhiều hạn chế, tiềm ẩn nhiều nguy cơ có
ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc giáo dục và sự an toàn của trẻ.
Do tốc độ đô thị hóa nhanh, người dân có xu thế tập trung về các thành phố
lớn nên nhu cầu gửi con đến trường ngày một gia tăng.Theo con số thống kê, hiện
nay ở Hà Nội có 1.270 trường mầm non công lập và 1886 cơ sở mầm non ngoài
công lập. Trong đó Quận Thanh Xuân là địa bàn quận xếp thứ 4 trong tổng số quận
huyện có nhiều cơ sở mầm non ngoài công lập nhất(gần 140 cơ sở mầm non ngoài
công lập). Vì thế, việc quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại các cơ sở mầm
non ngoài công lập nói chung và tư thục nói riêng cần được thực hiện sát sao và
hiệu quả để tạo điều kiện giúp đỡ và phát huy những mặt tốt và ngăn chặn, hạn chế
mặt còn tiêu cực, để giáo dục ngoài công lập nói chung ngày một khẳng định và hòa
nhập với giáo dục công lập, tạo cho lớp trẻ sự phát triển hài hòa và đúng đắn cả về
Đức, Trí, Thể, Mĩ.
Nghiên cứu về quản lí hệ thống GDMN NCL nói chung, và các nhóm lớp tư
thục nói riêng đã được quan tâm chú ý từ lâu, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào
vềquản lý các cơ sở mầm non tư thục trên địa bàn phường Khương Đình, quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

Xuất phát từ những lí do trên, tác giả lựa chọn đề tài: Quản lý hoạt động
chăm sóc giáo dục trẻ tại các cơ sở mầm non tư thục phường Khương Đình,
quận Thanh Xuân, Hà Nội. Đây là vấn đề có tính cấp thiết cả về lí luận lẫn thực
tiễn cần giải quyết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục mầm non là mắt xích quan trọng đầu tiên trong hệ thống giáo dục
quốc dân. GDMN góp phần quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo
thế hệ trẻ, vì giáo dục mầm non là giai đoạn khởi đầu đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách trẻ em. Đây là thời kì tăng trưởng về thể chất và phát
triển các mặt trí tuệ, tình cảm, xã hội nhanh nhất, nhân cách bắt đầu hình thành,
khối lượng thông tin thu được rất lớn khiến ta có thể coi sự phát triển những năm đó
có tác dụng quyết định đến toàn bộ tượng lai sau này. Bởi thế nên, trường mầm non
là cái nôi quan trọng để giúp trẻ phát triển và định hướng nhân cách thông qua hoạt

3


động chăm sóc nuôi dưỡng và học tập. Nói đến hoạt động chăm sóc trẻ thực chất là
nói đến việc đảm bảo an toàn cho trẻ trong mọi hoạt động tại các cơ sở mầm non: từ
ăn, ngủ, nghỉ, sinh hoạt, vui chơi, học tập ..v.v. Các hoạt động này có mối liên hệ và
ảnh hưởng qua lại với nhau. Hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong các cơ sở mầm
non được tổ chức theo mục tiêu, nội dung, nguyên tắc riêng và có những yêu cầu
cần đạt cụ thể của từng lứa tuổi. Đây là căn cứ định hướng cho cán bộ quản lý, giáo
viên, nhân viên ngành mầm non trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
của mình. Trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về quản lý hoạt
động chăm sóc giáo dục mầm non như:
- Trong bài viết của tiến sĩ Robert. G. Mayer đã nhấn mạnh: “Tại sao phải
đầu tư vào chương trình chăm sóc và phát triển trẻ thơ từ những năm nhỏ tuổi, coi
đây là một phần của chiến lược cơ bản, bởi vì cũng như trước khi xây dựng tòa nhà,
ta cần xây dựng một cái nền bằng đá vững chắc trên cơ sở đó làm nền tảng xây lên

toàn bộ công trình kiến trúc”.
- Tác giả Đặng Quốc Bảo có tham luận “Chiến lượng phát triển giáo dục mầm
non - một số vấn đề nhìn từ bối cảnh kinh tế - xã hội nước ta hiện nay” (Những vấn
đề về chiến lượng phát triển giáo dục trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa).
Trong bài viết này tác giả đã phân tích bối cảnh kinh tế - xã hội trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chiến lượng phát triển giáo dục mầm non [2].
- Tác giả Trần Thị Bích Liễu với cuốn sách: “Kỹ năng và bài tập thực hành
quản lý trường mầm non của hiệu trưởng” đã cung cấp những tri thức khoa học về
nghiệp vụ quản lý trường mầm non và hệ thống các bài tập hình thành các kỹ năng
cơ bản của người hiệu trưởng như: kỹ năng lập kế hoạch.
Tác giả Trần Thị Bích Liễu trong bài báo đăng ở Tạp chí Nghiên cứu Giáo
dục:“Một số biện pháp nâng cao chất lượng lập kế hoạch của Hiệu trưởng trường
mầm non” đã mô tả các biện pháp lập kế hoạch trong quá trình quản lí nhà trường
của hiệu trưởng các trường mầm non. Đây là cơ sở để hiệu trưởng quản lí tốt hơn
công tác chăm sóc, giáo dục trẻ tại các trường mầm non nói chung, trong đó có các
trường tư thục[31].

4


- Tác giả Nguyễn Thị Hoài An với đề tài: “Biện pháp quản lý mầm non tư
thục ở Hà Nội nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ” đã chỉ ra các biện
pháp quản lí các cơ sở giáo dục mầm non tư thục ở Hà Nội.
- Tác giả Nguyễn Thị Bích Liên với đề tài: “Biện pháp quản lý chất lượng
các trường mầm non theo quan điểm quản lý chất lượng tổng thể” đã xây dựng quy
trình quản lí nhà trường mầm non theo mô hình quản lí chất lượng tổng thể (TQM).
- Tác giả Trần Ngọc Trâm có bài viết: “Đổi mới quản lý cơ sở giáo dục mầm
non ngoài công lập trong quá trình hội nhập quốc tế” đã chỉ ra cách thức quản lí các
trường mầm non trong quá trình hội nhập.
- Tác giả Nguyễn Thị Thuận có công trình nghiên cứu về “Công tác xã hội

hóa giáo dục mầm non ở quận Cầu Giấy - Hà Nội” đã chỉ ra các biện pháp tiến
hành xã hội hóa giáo dục mầm non trong bối cảnh hiện nay ở quận Cầu Giấy, thành
phố Hà Nội.
Một số kinh nghiệm về quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục các cơ sở
giáo dục mầm non ngoài công lập trên thế giới và ở Việt Nam
Tại Hoa kỳ
Giáo dục Hoa Kỳ chủ yếu là nền giáo dục công do Chính phủ liên bang, tiểu
bang, và địa phương ở Hoa Kỳ điều hành và cung cấp tài chính. Việc giáodục trẻ
em ở độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo mang tính chất bắt buộc cơ bản đượcthực hiện
thông qua nền giáo dục công. Hầu hết trẻ em Hoa Kỳ đi học trong các cơ sở giáo
dục công lập ở tuổi lên 5 hay 6. Năm học thường bắt đầu vàotháng 8 hay tháng 9,
sau kỳ nghỉ mùa hè. Trẻ em được phân thành từng nhómxếp theo năm học gọi là
lớp (grade), bắt đầu với các lớp mầm non, sau đó làmẫu giáo, và tích lũy dần lên lớp
12. Tuy vậy, trẻ em chậm phát triển có thể ở lại lớp hay học sinh tài năng có thể học
lên lớp nhanh hơn so với các bạn học cùng tuổi.
Hoa Kỳ không có các chương trình nhà trẻ và mẫu giáo quốc gia có tính chất
bắt buộc, mà ở mỗi bang xây dựng chương trình GDMN riêng phù hợp với điều
kiện cụ thể của mình. Chính phủ liên bang hỗ trợ tài chính cho
chương trình Head Start - chương trình nhà trẻ và mẫu giáo dành cho các gia
đình có thu nhập thấp. Còn hầu hết các gia đình tự tìm trường và trả chi phí

5


nhà trẻ và mẫu giáo cho con cái mình. Ở những thành phố lớn, đôi khi có
những nhà trẻ và trường mẫu giáo phục vụ nhu cầu của các gia đình có thu
nhập cao.
Tại Singapore:
Chương trình giáo dục mầm non được thực hiện qua hệ thống các nhà
trẻ, mẫu giáo và các trung tâm chăm sóc trẻ em từ 3 đến 6 tuổi. Hệ thống nhà

trẻ ở Singapore do các tổ chức doanh nhân và xã hội điều hành và đăng ký với Bộ
Giáo dục. Các trung tâm nuôi dạy trẻ phải được Bộ Phát triển Cộng đồng và Thể
thao cấp giấy phép hoạt động.
Phần lớn các trường mẫu giáo hoạt động 2 buổi trong ngày và 5 ngày
trong tuần. Chương trình học thông thường bao gồm các chương trình Anh
ngữ và một ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, tuy nhiên cũng có các trường mẫu giáo
dành riêng cho học sinh ngoại quốc. Hệ thống giáo dục bậc mầm non giúp trẻ
em phát triển về ngôn ngữ và các kỹ năng đọc, các khái niệm về khoa học và
số học, các kỹ năng về xã hội và sự thưởng thức âm nhạc, các hoạt động và
cách thức vui chơi.
Tại Canada
GDMN Canada không chỉ thuộc Bộ Giáo dục mà còn thuộc cả Bộ Gia
đình và Xã hội. Trong những năm gần đây, GDMN Canada ngày càng phát
triển. Do nhận thức được tầm quan trọng của bậc học này nên GDMN được
coi là một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân. Ngoài chủ
trương thực hiện phổ cập giáo dục cho trẻ 5 tuổi, Chính phủ Liên bang có
chính sách quốc gia về hỗ trợ chăm sóc giáo dục trẻ thông qua việc cung cấp,
hỗ trợ tài chính hằng tháng đến từng gia đình. Từng gia đình có thể lựa chọn
tự chăm sóc trẻ ở nhà hoặc gửi trẻ đến các trung tâm chăm sóc giáo dục trẻ.
Chính phủ các bang cũng rất quan tâm đến các trung tâm chăm sóc
trẻ ngoài công lập.
Tại New Zealand:
Chương trình giáo dục mầm non của New Zealand được xây dựng trên
nguyên tắc thúc đẩy học sinh học tập và phát triển toàn diện, giáo dục mầm non gắn

6


kết tích cực với việc tăng tính chuẩn bị cho việc học lớp 1, giảm tình trạng học lại
và giảm nguy cơ phải học lớp đặc biệt.

Mục tiêu lớn của giáo dục mầm non New Zealand là giúp trẻ tự tin vào bản
thân, khoẻ mạnh về thể chất và tâm hồn, có khả năng giao tiếp và tôn trọng tri thức.
Trẻ mầm non ở New Zealand có những kỹ năng học như được tự tìm điều
mình quan tâm; biết chuyên tâm vào công việc của mình; biết đối mặt với khó khăn
và tìm cách giải quyết ở mức độ nhất định; trẻ cần học cách thể hiện ý tưởng và
chịu trách nhiệm với ý tưởng của mình...
Tóm lại, qua phân tích tình hình GDMN ở một số nước cho thấy:
Chính phủ các nước đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác
GDMN, nhằm chuẩn bị tốt về mọi mặt cho trẻ vào tiểu học và tạo cơ hội cho
cha mẹ trẻ tham gia lao động và các hoạt động XH, góp phần tạo công bằng
trong GD và phân công lại thu nhập.
Hầu hết ở các nước đều chú trọng đến XHH GDMN, Chính phủ không
trực tiếp tổ chức, quản lí các cơ sở GDMN mà có sự phân cấp rõ ràng giao
trách nhiệm cho các tổ chức Nhà nước, chính quyền địa phương, tư nhân tổ
chức quản lý. Chính phủ có thể đóng vai trò tư vấn thêm về quản lí, chuyên
môn, GDMN có sự tham gia của liên ngành: Giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội và gia
đình, trong đó giáo dục là cơ quan chủ quản.
Các nguồn kinh phí cho GDMN từ 3 nguồn:
• Nhà nước hỗ trợ một phần, ưu tiên khu vực khó khăn.
• Từ tập thể doanh nghiệp, tư nhân.
• Từ đóng góp của cha mẹ.
Kinh phí cho GDMN được chia sẻ bởi từng cấp chính quyền địa
phương. Việc đóng góp có sự khác nhau giữa các nước và giữa các vùng
trong một nước.
Nhiều nước đầu tư trên đầu trẻ (sử dụng “Phiếu học đường”) trong các
dịch vụ GDMN không phân biệt loại hình trường công lập, dân lập hay tư
thục với điều kiện các trường phải đáp ứng được các chuẩn do Bộ GD&ĐT
đưa ra (Thái Lan, Thụy Điển, New Zealand, Oxtraylia).

7



Đầu tư của Nhà nước, kết hợp các nguồn khác (từ các tổ chức phi Chính phủ)
tập trung cho vùng nghèo, vùng khó khăn nhằm rút ngắn khoảng cách giàu- nghèo.
Tất cả những điều này thể hiện rõ chính sách đảm bảo sự công bằng cho mọi trẻ em.
Tại Việt Nam:
Ở Việt Nam bậc học mầm non được xem là bậc học cơ sở của hệ thống
giáo dục quốc dân. Trong quá trình phát triển của bậc học này, nhiều chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã được ban hành. Những vấn đề cơ bản
của bậc học này cũng đã được qui định trong Luật Giáo dục. Điều 24 Luật Giáo dục
năm 2005 đã qui định rõ về việc “Xây dựng chương trình CS - GD mầm non”.
Ngày 25 tháng 7 năm 2009 Bộ GD&ĐT đã có Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT
ban hành Chương trình GDMN.
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương khuyến khích phát triển các
cơ sở giáo dục mầm non tư thục của Chính phủ, nhiều tổ chức, cá nhân ở các
địa phương đã tiến hành lập dự án xây dựng trường MẦM NON TƯ THỤC. Một số
địa phương đã ban hành các văn bản nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước,
kiểm tra, giám sát, chỉ đạo sự phát triển của các trường, lớp đối với các cơ sở
giáo dục mầm non tư thục phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, vùng
miền, nhằm hướng tới nâng cao chất lượng CS-GD và đảm bảo an toàn cho trẻ. Bộ
GD&ĐT đã ban hành Qui chế “Tổ chức và hoạt động trường MNTT”, ban hành
kèm theo Quyết định số 41/2008/QĐ/ BGDĐT, ngày 25 tháng 7 năm 2008, của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT. Theo Qui chế này, các cơ sở MNTT được tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về quy hoạch, kế hoạch phát triển, tổ chức các hoạt động giáo dục, xây dựng
và phát triển đội ngũ giáo viên, huy động, sử dụng và quản lý các nguồn lực để thực
hiện mục tiêu giáo dục mầm non, góp phần cùng Nhà nước chăm lo sự nghiệp giáo
dục, đáp ứng yêu cầu xã hội.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh của hệ thống cơ sở giáo dục mầm non tư thục
hiện nay cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần tập trung tháo gỡ, sửa đổi cả về cơ chế,
chính sách và công tác quản lý.

Hội thảo “Quản lý nhóm, lớp mầm non độc lập tư thục”do Bộ GD&ĐT
tổchức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 27/2/2014, chủ trì hội thảo là Thứ trưởng

8


Bộ Giáo dục & Đào tạo Nguyễn Thị Nghĩa và Vụ trưởng Vụ Giáo dục mầm
non Nguyễn Bá Minh đã đi đến kết luận của Hội thảo: “Thành phố Hồ Chí
Minh xây dựng nhiều chương trình đề án phát triển mầm non ngoài công lập,
nhiều cơ chế chính sách xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội để phát
triển mầm non ngoài công lập, tuyên truyền sâu rộng cho các cấp, các ngành, các
tổ chức. Có nhiều doanh nghiệp tham gia phát triển xây dựng trường mầm non
ngoài công lập ở quận Bình Tân. Các lớp mầm non tăng nhanh đáp ứng nhu cầu
gởi trẻ của phụ huynh đặc biệt là khu công nghiệp, các nhóm lớp tư thục góp
phần giảm tải cho trường, giúp cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên cần có cơ chế để hỗ trợ, để quản lý các nhóm lớp mầm non độc
lập tư thục, cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Tiếp tục quan tâm đến
giáo dục mầm non ngoài công lập. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, quản
lý, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục ở các nhóm, lớp độc lập, trường
mầm non tư thục. Tiếp tục tìm giải pháp để quản lý và nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục ở các nhóm, lớp độc lập, trường mầm non tư thục”.
Nói tóm lại, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lí giáo
dục mầm non, trong đó có quản lí hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Tuy nhiên,
chúng tôi nghiên cứu việc quản lí việc chăm sóc giáo dục trẻ ở các cơ sở giáo dục
ngoài công lập, cụ thể là các cơ sở mầm non tư thục vẫn có tính mới và có ý nghĩa lí
luận và thực tiễn nhất định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực tiễn, đề tài đề xuất các biện
pháp quản lí nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động chăm sócgiáo dục trẻ

trong các cơ sở giáo dục ngoài công lập tại phường Khương Đình, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về quản lí hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ
trong các cơ sở mầm non.

9


3.2.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động giáo dục trẻ; thực trạng quản
lý hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập tại
phường Khương Đình, quận Thanh Xuân và phân tích nguyên nhân của thực trạng.
3.2.3. Trên cơ sở phân tích thực trạng và nguyên nhân, luận văn đề xuất một
số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động chăm
sóc,giáo dục trẻ tại các cơ sở GDMN ngoài công lập ở phường Khương Đình, quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lí hoạt động chăm sóc, giáo dục
trẻ tạicác cơ sở giáo dục mầm non tư thục tại phường Khương Đình, quận Thanh
Xuân, TP Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Quản lý cơ sở GDMN bao gồm nhiều lĩnh vực, đề
tài giới hạn việc nghiên cứu bốn lĩnh vực sau: Quản lý hoạt động phòng chống tai
nạn thương tích, quản lý chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng, quản lý chất lượng giáo
dục (chương trình, giáo viên, kiểm tra - đánh giá); tổ chức và quản lý nhân sự của
các cơ sở giáo dục mầm non tư thục phường Khương Đình từ năm 2014 - 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sưu tầm các văn kiện, tài liệu, các tạp chí, các văn bản có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu.
+ Phân tích, tổng hợp các giáo trình, sách báo, các công trình như các đề tài

luận văn, luận án, các báo cáo khoa học liên quan đến khoa học quản lí giáo dục,
quản lý giáo dục mầm non để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài nghiên cứu.
+ Phân loại và hệ thống hóa các cơ sở lí luận liên quan đến vấn đề quản lí
hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ ở các trường mầm non.
+ Mô hình hóa một số cơ sở lí luận để tiện cho việc khái quát hóa vấn đề
nghiên cứu.
+ Trên cơ sở lí luận, đưa ra các giả thuyết ban đầu, định hướng cho công tác
nghiên cứu.

10


5.2.Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1. Phương pháp quan sát: Quan sát cách thức tổ chức và quản lí chỉ đạo
các hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở một số cơ sở mầm non tư thục phường
Khương Đình; quan sát hoạt động thực hiện chăm sóc nuôi dưỡng trẻ của GVMN,
theo các yêu cầu của qui chế nuôi dạy trẻ, Điều lệ trường MN, các thông tư về chăm
sóc sức khỏe và an toàn của trẻ MN, yêu cầu của đề án nâng cao chất lượng GDMN
thành phố HN.
5.2.2. Phương pháp điều tra khảo sát: tiến hành điều tra bằng bảng hỏi, đối
tượng là cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên nhằm tìm hiểu và đánh giá sơ bộ về
việc thực hiện và quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo dục
mầm non tư thục phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
+ Lấy ý kiến của cán bộ quản lý phòng giáo dục và đào tạo, lãnh đạo các
trường mầm non công lập phụ trách quản lý trực tiếp, cán bộ phụ trách y tế giáo dục
Phường nhằm tìm hiểu sâu hơn về quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong
các cơ sở mầm non tư thục phường Khương Đình.
5.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu phân tích
các sổ theo dõi sức khỏe trẻ, biểu đồ tăng trưởng, sổ tính khẩu phần ăn, sổ ghi nhật
kí hàng ngày, sổ theo dõi công tác y tế học đường…

5.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tổng kết kinh nghiệm quản lý của các cơ sở mầm non tư thục trên cả nước
thông qua các báo cáo kinh nghiệm, hội thảo khoa học...
5.3. Các phương pháp nghiên cứu bổ trợ
5.3.1. Phương pháp chuyên gia
Sử dụng phương pháp này trong quá trình xây dựng đề cương, xây dựng
công cụ nghiên cứu, đánh giá các biện pháp đề xuất...
5.3.2. Phương pháp thống kê toán học:Dùng các công thức toán học thống kê
để xử lý kết quả khảo sát, định lượng kết quả nghiên cứu và đưa ra các nhận xét,
đánh giá khoa học.

11


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận của luận văn:
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã hệ thống hóa các lí luận và thực tiễn về
công tác quản lý, chăm sóc giáo dục trẻ tại các cơ sở mầm non tư thục , góp
phầnlàm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản lý hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ tại các
cơ sở GDMẦM NON TƯ THỤC nói chung và mầm non tư thục nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Phản ánh thực trạng hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ và quản lí hoạt động
chăm sóc, giáo dục trẻ ở các cơ sở GDMN tư thục ở phương Khương Đình, quận
Thanh Xuân, Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ ở phường
Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong quản lý hoạt
động giáo dục trẻ tại các cơ sở mầm non tư thục trên địa bàn quận Thanh Xuân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn dự kiến được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ mầm non
Chương 2: Thực trạng việc quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại các
cơ sở giáo dục mầm non tư thục thuộc địa bàn phường Khương Đình, Quận Thanh
Xuân, Hà Nội
Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại các cơ
sở giáo dục mầm non tư thục tại phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà nội.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC,
GIÁO DỤC TRẺ MẦM NON

1.1. Một số khái niệm công cụ
1.1.1. Quản lý
Quản lý là một hoạt động bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động trong
một tổ chức nhất định. Sự phân công, hợp tác đó nhằm đạt được hiệu quả và năng
suất cao hơn, do vậy cần có người chỉ huy, điều phối, điều hành, kiểm tra…Vì thế,
quản lý được coi là một thuộc tính lịch sử, vì nó phát triển theo sự phát triển của xã
hội, thường xuyên biến đổi, nó là hiện tượng xã hội xuất hiện sớm trong quá trình
lao động sản xuất và tổ chức xã hội.
Có nhiều quan niệm về quản lý, tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau.Theo
Harold Koontz và cộng sự thì: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó bảo đảm
phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm”[24,tr.33].
Theo tác giả Nguyễn Hữu Long - 2009: “ Quản lý(QL)- phạm trù của khoa
học QL, tác động qua lạicủa chủ thế QL và khách thể QL, trong đó chủ thể QL đóng
vai trò chủ đạo: vận dụng các nguyên tắc QL trong xác định mục tiêu QL, nội dung
QL,phương pháp QL,phương tiện QL, kết quả của từng công đoạn trong quy trình

QL (-Lập kế hoạch QL- Tổ chức các nguồn lực đế thực hiện kế hoạch QL- Thực
hiện kế hoạch QL- Kiếm tra thực hiện kế hoạch QL- Hành động hiệu chỉnh để đạt
mục tiêu chung của QL trong kế hoạch QL đã lập)”. Đây là một định nghĩa làm
việc, làm cho hoạt động quản lý vừa mang tính khoa học, vừa mang tính công nghệ,
đặc biệt là bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ khi xác định “QL...tácđộng
qualạicủa chủ thể QL và khách thể QL trong đó chủ thể QL đóng vai trò chủ đạo”.
Tác giả Trần Quốc Thành quan niệm: “Quản lý là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và
hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đúng với ý chí của nhà quản lý phù
hợp với quy luật khách quan”[36].

13


Theo các tác giả Vũ Dũng, Nguyễn Thị Mai Lan cho rằng “Quản lý là sự tác
động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể
đến khách thể của nó” [20].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể hiểu: Quản lý là một
quá trình tác động có định hướng, có mục đích của chủ thể quản lý tới khách thể
quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích
đề ra.
Từ những khái niệm trên cho thấy, về mặt cấu trúc khái niệm có khác nhau,
song đều thể hiện những điểm chung đó là:
Người quản lý giữ vai trò chủ thể quản lý với chức năng điều khiển hệ quản
lý làm cho nó vận hành với mục tiêu đặt ra
Người bị quản lý giữ vai trò khách thể quản lý, bao gồm những người thừa
hành, trực tiếp sản xuất và bản thân quá trình sản xuất.
Mục tiêu quản lý là căn cứ để chủ thể quản lý tạo ra các biện pháp tác động
lên đối tượng quản lý.
Quản lý là một quá trình tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý

nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục
tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
1.1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội, cho đến nay chưa có khái
niệm thống nhất. Trong lịch sử phát triến của xã hội, khoa học quản lý xã hội ra đời
muộn hơn khoa học quản lí kinh tế. Do cách nhìn nhận giáo dục ở góc độ không
đồng nhất nên dẫn đến những khái niệm về quản lý giáo dục có nội dung rộng hẹp
khác nhau. Có rất nhiều cách định nghĩa về quản lý giáo dục của các tác giả trong
và ngoài nước:
Theo học giả nối tiếng M.I.Kônđacốp: “Quản lý giáo dục là tập hợp những
biện pháp kế hoạch nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của cơ quan trong hệ
thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về sổ lượng cũng như
chất lượng” [29, tr.34].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: "Quản lý giáo dục là quản lý trường học, thực

14


hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học
sinh.[23, tr. 34].
Tác giả Đặng Quốc Bảo lại cho rằng: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành, phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội”[2, tr.45].
Trên đây là những quan điểm khác nhau về quản lý giáo dục, ở mỗi cách tiếp
cận khác nhau mỗi tác giả lại có cái nhìn khác nhau về quản lý giáo dục. Mặc dù
vậy, khi nghiên cứu kỹ về nó ta có thể nhận thấy trong các quan niệm khác nhau về
quản lý giáo dục ấy lại có những điếm tương đồng.
Thực chất trong quản lý giáo dục là quản lý nhà trường vì nhà trường là cơ
sở giáo dục quan trọng nhất, chủ yếu nhất trong hệ thống giáo dục của tất cả các

quốc gia. Theo tác giả Trần Kiểm:“Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo
dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với học sinh”.Tác giả cũng cho rằng "Việc quản lý
trường học là quản lý hoạt động dạy và học làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái
này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu đào tạo”.
Từ những khái niệm trên, có thể khái quát khái niệm quản lý giáo dục như
sau:“Quản lý giáo dục (hay quản lý hệ thống) là tác động qua lại cóhệ thống, có kế
hoạch, có hướng đích của chủ thế quản lý ở các cấp khác nhau cho đến tất cả các mắt
xích của toàn bộ hệ thống giáo dục (từ Bộ đến trường và đối tượng được quản lý)
nhằm đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận
dụng những quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục,
của sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em và hoàn thiện nhân cách chủ thể quản lý”.
1.1.3. Quản lý giáo dục mầm non
Quản lí giáo dục mầm non nằm trong hệ thống quản lý giáo dục nhưng khách
thể là các cơ sở giáo dục mầm non, nơi thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ từ
3 tháng đến 72 tháng tuổi. Cũng như các bậc học khác trong hệ thống giáo dục quốc
dân, giáo dục mầm non cũng có mạng lưới quản lý chuyên môn của bậc học từ trên

15


xuống: Từ cấp Bộ xuống Sở, Phòng và tới các trường, lớp mầm non.
Quản lý giáo dục mầm non có thể được định nghĩa như sau:
- Theo tác giả Phạm Thị Châu “Quản lý giáo dục mầm non là hệ thống

những tác động có mục đích, có kế hoạch của các cấp quản lý đến các cơ sở giáo
dục mầm non nhằm tạo ra những điều kiện tối ưu cho việc thực hiện mục tiêu đào
tạo” [17, tr.10].
1.1.4. Quản lý trường mầm non

Theo tác giả Đinh Văn Vang (1997), Một số vấn đề quản lý trường mầm non:
“Quản lý trường mầm non là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thế quản lỷ
(Hiệu trưởng) đến tập thê cán bộ, giáo viên nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu,
kế hoạch giáo dục của nhà trường, trên cơ sở tận dụng các tiềm lực vật chất và tinh
thần của xã hội, nhà trường và gia đình [37, tr. 15].
Theo tác giả Phạm Thị Châu - Trần Thị Sinh (2000), Một số vấn đề quản lý
Giáo dục mầm non: Quản lý trường mầm non là “quá trình tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thế quản lý (hiệu trưởng) đến tập thế cán bộ giáo viên để chính
họ tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc giáo dục trẻ nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục đổi với từng độ tuổi và mục tiêu chung của bậc học”[17, tr.6].
Quản lý giáo dục mầm non cũng như quản lý các ngành học khác đều thể
hiện rõ các chức năng của công tác quản lý như: Kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo,
kiểm tra đánh giá các nội dung cụ thể của quá trình quản lý giáo dục mầm non. Có
nhiều nộidung quản lý song với thời lượng có hạn, chúng tôi xin đi sâu vào các nội
dung sau, cụ thể là:
+ Quản lý việc thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non: Mục tiêu của GDMN
là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố
đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1 (Điều 21 - Luật Giáo
Dục,2005) [33]. Bởi vậy việc lập kế hoạch quản lý nhằm phát triển sốlượng, qui
mô, chất lượng, cơ cấu mạng lưới trường, lớp, học sinh, là việc làm đầu tiên của nhà
quản lý. Vì số lượng cũng là yếu tố cần thiết đế duy trì sự phát triển của nhà trường.
Từ quy mô sẽ đặt ra những yêu cầu về các điều kiện thiết yếu khác để phục vụ cho
sự phát triển của nhà trường theo yêu cầu của chuyên môn.

16


+ Quản lý đội ngũ CBGV, NV và trẻ em gửi vào trường; quản lý sử dụng đất
đai, trường sở, trang thiết bị, tài chính của nhà trường theo quy định của pháp luật;
Tuyên truyền các kiến thức nuôi dạy trẻ cho cha mẹ và cộng đồng cùng CS-GD trẻ.

+ Quản lí quá trình chăm sóc - nuôi dưỡng: Khác với các bậc học khác, giáo
dục mầm non thu hút trẻ từ 3 đến 72 tháng tuổi là độ tuổi mà đòi hỏi sự chăm sóc tỉ
mỉ, nuôi dưỡng khoa học, đòi hỏi sự kết hợp hài hoà giữa sự chăm sóc ở nhà trường
và sự chăm sóc ở gia đình. Bác Hồ đã từng dạy rằng:“Làm mẫu giáo tức là thay mẹ
dạy trẻ, muốn làm được như thế phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ
chịu khó mới nuôi dạy được các cháu... ” (Những lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch,
NXB Sự thật - HN 1960, tập 5, tr.263)[34, tr.263].
Hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ là tất cả những hành động, việc làm của
giáo viên mầm non thực hiện trong quá trình chăm sóc trẻ tại trường mầm non,
nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt: nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ và
tình cảm kỹ năng xã hội, nhất là sức khỏe, thể chất.
Quản lý hoạt động CS-GD trẻ tại trường mầm non được hiểu là việc xây
dựng, tổ chức các hoạt động CS-GD theo chương trình giáo dục MN nhằm giúp trẻ
phát triển toàn diện theo yêu cầu của xã hội.
Trong quá trình chăm sóc - nuôi dạy trẻ, các nhà quản lý cần quan tâm đến
những công việc cụ thể: Đảm bảo an toàn cho trẻ; Chăm sóc sức khỏe: Tổ chức
khám sức khoẻ định kỳ cho trẻ, cân kiểm tra sức khoẻ cho trẻ 3 tháng 1 lần, với các
cháu suy dinh dưỡng hoặc béo phì một tháng cân một lần để có những biện pháp
kịp thời về tình trạng sức khoẻ của trẻ nói chung và tình trạng phát triển cân nặng
của trẻ nói riêng, từ đó có biện pháp chăm sóc trẻ hợp lý. Ngoài ra phải tổ chức cho
trẻ ăn theo thực đơn đảm bảo bữa ăn đủ chất, hợp lý và phù hợp với chế độ ăn theo
từng độ tuổi của trẻ trong trường mầm non, thực đơn phải thay đổi theo ngày, theo
tuần và theo mùa. Mặt khác nhà quản lý còn phải lưu tâm đến vấn đề vệ sinh thân
thể của trẻ, vệ sinh phòng nhóm, lớp học và phòng chống dịch bệnh.
Hoạt động giáo dục trẻ mầm non bao gồm: Hoạt động có chủ đích, Hoạt động
vui chơi, hoạt động lao động, hoạt động vệ sinh, hoạt động ăn ngủ.

17



1.1.5. Hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ
Điều 24 Điều lệ trường Mầm non quy định:
Việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ được tiến hành thông qua các hoạt
động theo quy định của chương trình GDMN.
Hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ bao gồm: chăm sóc dinh dưỡng; chăm
sóc giấc ngủ; chăm sóc vệ sinh; chăm sóc sức khoẻ và đảm bảo an toàn.
Việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ còn thông qua hoạt động tuyên
truyền phổ biến kiến thức khoa học về nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục trẻ em cho
các cha mẹ trẻ và cộng đồng.
Hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng trẻ mầm non là quá trình tác động lên cơ thể trẻ
trong độ tuổi từ 3 tháng đến 6 tuổi một cách hợp lý, khoa học giúp trẻ phát triển cân
đối, hài hoà về thể trạng sức khoẻ, tinh thần vui vẻ, hoạt bát, phòng chống bệnh tật
hướng tới mục đích thiết yếu là trẻ phát triển toàn diện về mặt thể chất và tinh thần.
Tóm lại: Hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ là tất cả những hành động, việc
làm của giáo viên mầm non thực hiện trong một quá trình tại trường mầm non,
nhằm giúp cho trẻ phát triển có mục đích về mặt thể chất, nhận thức, ngôn ngữ,
thẩm mỹ và tình cảm, kỹ năng xã hội.
1.1.6. Quản lý hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ
Quản lý hoạt động CS-GD trẻ được hiểu là việc xây dựng, tổ chức các hoạt
động CS-GD theo chương trình giáo dục MN nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện
theo yêu cầu của xã hội.
Hoạt động CS-GD trẻ bao gồm: đảm bảo an toàn cho trẻ, chăm sóc sức khoẻ,
nuôi dưỡng trẻ.
Hoạt động giáo dục trẻ: hoạt động học, hoạt động chơi, hoạt động lao động,
hoạt động vệ sinh, hoạt động ăn ngủ…
Quản lí được thể hiện ở công tác kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế
hoạch, kiểm tra, giám sát, đôn đốc, nhắc nhở…làm cho quá trình chăm sóc, giáo
dục trẻ thực hiện được mục tiêu đề ra.

18



×