Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới kinh tế từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.82 KB, 13 trang )

Mục lục
Α. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Phương pháp nghiên cứu
Β.Nội dung
1.Hoàn cảnh lịch sử
2.Nội dung đường lối đổi mới
3.Thành tựu, hạn chế từ công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay
C.Kết luận
Tài liệu tham khảo


Α.Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt của
cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quần chúng
nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống Thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật,
thực hiện cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945.
Nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời lại phải đương đầu với các âm mưu
xâm lược và can thiệp của Pháp và Mỹ, phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc kéo dài suốt 30 năm sau đó. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh ”Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã đứng vững và giành
nhiều thắng lợi trên cả hai miền Nam và Bắc. Mùa xuân năm 1975, trên tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộc hòa bình, công
lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện
cuộc tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 2/71976, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa đổi tên thành nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Với những thắng lợi giành được ở thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường


Chủ nghĩa xã hội, có quan hệ rộng rãi, vị thế ngày càng quan trọng tong khu vực và
trên thế giới. nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước,
làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu bước vào thời kỳ
đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên một chặng đường dài với nhiều biến số, sự kiện phức tạp của tình hình
trong nước và quốc tế, đất nước phải đương đầu với bao khó khăn thử thách có lúc
trong tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc” nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng và đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh con thuyền cách mạng đã cập bến vinh quang. Thực tế
lịch sử đã chứng minh một điều không thể phủ nhận, đó là sự lãnh đạo của Đảngnhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
87 năm qua Đảng ta đã không ngừng tôi luyện lãnh đạo nhân dân đi theo
con đường Bác chọn “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Sau nhiều năm


tìm tòi cuối cùng Nguyễn Ái Quốc cũng tìm ra được “cẩm nang” để giải phóng dân
tộc. Từ chủ nghĩa yêu nước Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin: “Chính chủ nghĩa
yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến cuộc gặp kỳ thú đó. Nó tạo ra bước chuyển
căn bản, quyết định trong nhận thức tư tưởng của nhà cách mạng Việt Nam trẻ tuổi
và mở đầu một chuyển biến cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng nước ta”
(Trích PGS.TS Phạm Xanh, Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin
ở Việt Nam (1921-1930), H.2009). Đọc Sơ thảo luận cương của Lê-nin, Nguyễn Ái
Quốc đã rút ra những lý luận cách mạng phù hợp với con đường cách mạng Việt
Nam: Con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con người. Độc lập dân tộc kết hợp
với chủ nghĩa xã hội chính là tiền đề cho một nền hòa bình, độc lập và phát triển bền
vững vì những giá trị nhân văn của con người. Thực tế lịch sử nhân loại đã khẳng
định, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm đảo cho độc lập dân tộc bền vững và mới có
đủ điều kiện đảm bảo tính triệt để cho độc lập dân tộc. Đó là sự thống nhất biện
chứng của độc lập dân tộc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con người.
Nghiên cứu đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng bởi “đi lên

chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sang suốt cả Bác
Hồ, của Đảng ta. Xây dựng Nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa là mục tiêu là lý
tưởng của Đảng, của nhân dân ta.” Nghiên cứu vấn đề này giúp chúng ta nhận thức
một cách hệ thống, cơ bản ban đầu về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, của
quá trình nhận thức của Đảng về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhất là bước
ngoặt có tính sáng tạo và đột phá được thể hiện rõ trong đại hội Đảng lần thứ VI và
cương lĩnh đại hội VII.
Được sự hướng dẫn, giúp đỡ của PGS.TS Phạm Đình Phương, chúng tôi đã cố
gắng phân tích tìm hiểu về thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới mà cụ thể ở
đây là: “Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới kinh tế nước ta từ năm 1986
đến nay. Đánh giá, nhận xét về chủ trương đổi mới của Đảng trong Đại hội đại biểu
toàn quốc làn thứ VI (12/1986)”. Đại hội VI có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
cách mạng Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam bước sang một trang sử mới.
Để hoàn thiện bài tiểu luận, nhóm chúng tôi tập trung vào giải quyết các vấn
để sau:
1. Hoàn cảnh lịch sử.


2. Nội dung đường lối đổi mới.
3. Thành tựu, hạn chế từ công cuộc đổi mới.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các
phương pháp lịch sử nói chung: phương pháp lịch sử, logic, thống kê, mô tả so sánh,
khái quát các vấn đề lịch sử có liên quan.

Β.Nội dung
1.Hoàn cảnh lịch sử
a. Bối cảnh quốc tế
Từ những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước, thế giới đã chứng kiến những
quá trình mới diễn ra đang làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế-chính trị và xã

hội nhân loại. Toàn cầu hóa kinh tế trở thành xu thế và tất yếu chi phối thời đại. Mỗi
quốc gia muốn phát triển buộc phải mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Cùng với toàn cầu hóa kinh tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới lần thứ 3
diễn ra với nhịp độ ngày càng mạnh mẽ, mà cốt lõi dựa trên việc ứng dụng các phát
minh khoa học công nghệ, phát triển các ngành nghề công nghệ cao, như công nghệ
truyền thong và tin học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học,…Tình hình này
trước hết tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế thế giới. Các lực lượng sản xuất và cơ
cấu kinh tế thế giới có nhiều thay đổi theo hướng dựa vào tri thức và khoa học
công nghệ, làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới, giá trị gia tang cao, ngành dịch
vụ ngày càng có vai trò quan trọng và tỷ trọng lớn dần trong cơ cấu kinh tế quốc
dân. Mặt khác, nó làm thay đổi các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế buộc các nước
phải có có biện pháp đổi mới.
Như vây, có thể thấy làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp trên thế giới cùng
với quá trình toàn cầu hóa, cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 đã tạo áp
lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
b. Bối cảnh trong nước


Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách
mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới- giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Trong 5 năm 1976-1980, trên mặt trận kinh tế, nhân dân Việt Nam đã đạt
những thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của
chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây ra và của cuộc chiến tranh biên giới; khôi
phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây
dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá; củng cố kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể ở miền Bắc, bước đầu cải tạo và sắp xếp công thương
nghiệp tư doanh ở miền Nam;… Tuy nhiên, kết quả sau 5 năm chưa tương xứng với
sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh
đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút.

Ngay từ những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981-1985), nhiều
Nghị định và Quyết định quan trọng của Đảng và Chính phủ được ban hành nhằm
từng bước sửa đổi cơ chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế
tư nhân và xóa bỏ quan liêu bao cấp. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ
10 khóa V (6/1986) đã đánh giá tình hình sau cuộc điều chỉnh giá-lương-tiền
(9/1985) và khẳng định chính thức đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp.
Với những bước đi đổi mới từng phần theo những chủ trương, chính sách
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, những sang kiến, sự năng động, sang tạo của
nhân dân của các địa phương, cơ sở sản xuất kinh doanh, đã làm cho kinh tế Việt
Nam những năm 1981-1985 có bước phát triển khá. Sản lượng lương thực bình
quân mỗi năm đạt 17 triệu tấn, sản lượng công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm.
Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm 6,4%. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã
hội được xây dựng đáng kể với hàng trăm công trình tự động hóa và hang nghìn
công trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi
măng, cơ khí, dệt, giao thông. Tuy vậy, tình hình kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân
vẫn còn nhiều khó khăn, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn trầm trọng mà biểu hiện
là: (1) Kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển. Nếu tính chung
từ năm 1976 đến năm 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hằng năm
chỉ tăng ở mức 4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình quân hằng năm chỉ tăng
3,7%, trong khi tỷ lệ dân số tăng trung bình hằng năm 2,3%; (2) Không có tích lũy
từ nội bộ nền kinh tế vì làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80-


90% thu nhập quốc dân sử dụng; (3) Siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ
1976-1985 chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so với năm trước luôn tăng ở mức
hai con số và giao động ở mức 19-92%. Năm 1986 lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc
độ tăng giá 774,7%; (4) Đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.
2.Nội dung đường lối đổi mới
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi

mới toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Đường lối đổi mới
của Đảng đã tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ.
∗. Nội dung đổi mới.
a.Về kinh tế
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với một cơ cấu
hợp lý, một nền kinh tế phát triển theo những quy luật của kinh tế thị trường, đồng
thời chịu sự chi phối bởi bản chất và những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu hợp pháp, quyền bình đẳng của các thành phần kinh tế; khuyến khích mọi
thành phần kinh tế sản xuất, kinh doanh. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Cải tạo quan hệ sản xuất, cải tạo đi đôi với sử dụng, làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là nhiệm vụ thường xuyên trong
suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Quản lý nền kinh tế không phải bằng những
mệnh lệnh hành chính, mà bằng những biện pháp kinh tế , khuyến khích lợi ích vật
chất.
Thực hiện nhiều phương thức phân phối, chủ yếu là phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế.
Thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, mở rộng sự phân công lao động và hợp tác quốc tế, tích cực khai thác nguồn
vốn, công nghệ và thị trường.
b.Về chính trị


Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân
và vì dân; lấy liên minh công-nông và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân
dân, coi dân chủ vừa làm mục tiêu là động lực của công cuộc đổi mới.

Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, chuyên chính với mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.
Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng dân tộc,
phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, vì hòa bình, hữu
nghị và hợp tác. Chủ động hội nhập quốc tế. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của
tất cả các nước trên thế giới.
c.Về nhận thức, tư duy lý luận và lãnh đạo
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi
mới từng phần, lắng nghe, tổng kết sang kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các
địa phương và cơ sở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) đã hoạch định đường lối đối mới. Trong quá trình tổ chức thực hiện
đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, nhiều Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị và đặc biệt Đại hội VII (6/1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII (6/1996) và Đại hội IX
(4/2001) đã không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm rõ
hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Có thể thấy rõ những nội dung của đổi mới quan trọng và chủ
yếu về nhận thức, tư duy lý luận và cả về lãnh đạo.
Trước hết, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận
dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan,
duy ý chí.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ , Đảng quyết định đổi
mới cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ.


Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò,
chức năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị.
Thứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động
quần chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa
dạng hóa, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới
trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến
lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình mới.
3. Thành tựu, hạn chế của công cuộc đổi mới.
Gần 30 năm đổi mới là một chặng đường lịch sử quan trọng trong sự
nghiệp phát triển của đất nước và dân tộc Việt Nam. Đổi mới mang tầm vóc và ý
nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, là sự nghiệp cách mạng
to lớn của nhân dân Việt Nam vì “một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh” (Hồ Chí Minh), góp phần vào mục tiêu hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của thời đại.
Đổi mới ở Việt Nam là quá trình thử nghiệm, trong quá trình này cái mới và
cái cũ xen kẽ nhau, cái cũ không mất đi ngay mà lùi dần, có lúc, có nơi còn chiếm ưu
thế hơn cái mới, nhưng xu hướng chung là cái mới dần dần được khẳng định và
đưa tới thành công.
Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn luôn lấy sự ổn định
chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới, phát
triển và chính sự phát triển đó sẽ tạo ra sự ổn định mới vững chắc hơn.
a. Thành tựu của công cuộc đổi mới
∗.Về kinh tế
Việc thực hiện Ba chương trình kinh tế lớn (lương thực – thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu) đạt được những kết quả quan trọng:


Về lương thực – thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn, đến năm 1990, Việt Nam đã vươn lên

đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu. Năm 1988 đạt 19,5 triệu tấn,


năm 1989 đạt 21,4 triệu tấn.
• Hàng tiêu dùng trên thị trường dồi dào, đa dạng về mẫu mã, chất lượng ngày càng

nâng cao, lưu thông thuận lợi, một số mặt hàng sản xuất trong nước đã hoàn toàn
thay thế hàng nhập khẩu.
• Kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng, hàng xuất khẩu ngày càng tăng, từng bước
tiến tới cân bằng giữa xuất và nhập khẩu.
Đến năm 1996, đất nước đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế –
xã hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên là chuẩn bị tiền đề cho công
nghiệp hoá đã căn bản hoàn thành; chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, nhằm phấn đấu đến năm 2020 căn bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.


Nền kinh tế tăng trưởng nhanh (tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân trong



5 năm 1991 – 1995 là 8,2%; trong năm 1996 – 2000 là 7%.
Cơ cấu các ngành kinh tế từng bước dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; từng bước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận

hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước.
• Kiềm chế, khắc phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống
mức lạm phát 12% (năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số.



Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển. Năm 1990, lần đầu tiên Việt Nam
xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo, vươn lên hàng những nước xuất khẩu gạo nhiều
nhất thế giới. Đến năm 2000, Việt Nam có quan hệ mậu dịch với trên 100 nước và
vùng lãnh thổ. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam ngày
càng tăng. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng từng bước mở rộng đầu tư ra các
nước trên thế giới. Tính chung bốn năm từ năm 2001 đến năm 2004, tổng kim
ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân bốn năm
khoảng 14,6%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên
305 USD/người.



Những khó khăn – yếu kém: Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, năng xuất lao
động, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; lạm phát vẫn ở mức cao; tình trạng tham
nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn; sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng,
giữa thành thị và nông thôn gia tăng…

∗. Về chính trị- xã hội
Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng – an ninh được tăng
cường. Bước đầu thực hiện dân chủ hoá và công khai hoá các hoạt động xã hội.


Đã giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề xã hội như lao động và việc làm, xoá
đói giảm nghèo, phát triển sự nghiệp văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học – công


nghệ, thể dục thể thao… Tỉ lệ đói nghèo trên cả nước 1995 là 20%, năm 2000 còn
10% đến 2005 chỉ còn 7%.



Mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận; bình thường hoá và phát
triển quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Hoa Kì…; chủ động hội nhập quốc tế,
tham gia các tổ chức quốc tế: ASEAN, APEC, WTO… Việt Nam tham gia tích cực
vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Đến năm 2000, Việt Nam có quan hệ

với 140 nước trên thế giới, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ.
• Bộ máy và đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các cơ quan Trung ương và địa phương
được sắp xếp lại. Ngày 19-4-1987, cuộc bầu cử Quốc hội khóa VIII đã diễn ra dân
chủ hơn so với các kì bầu cử trước. Nhân dân đã lựa chọn bầu được 496 đại biểu.
Ngày 17 đến 22-6-1987, Quốc hội khóa VIII họp kì thứ nhất đã bầu Võ Chí Công
làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Lê Quang Đạo Chủ tịch Quốc hội; Phạm Hùng Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện
truởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
• Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy. Nội dung và phương
thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị có một số đổi mới theo
hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường
quyền lực của các cơ quan dân cử; hiệu lực quản lí của chính quyền các cấp được
nâng cao; bước đầu chỉnh đốn Đảng đi đôi với đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội.
• Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước phá thế
bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường
thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
b.Ý nghĩa và hạn chế của công cuộc đổi mới
Những thành tựu của công cuộc đổi mới chứng tỏ đường lối đúng đắn của
Đảng ta, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp, được đông đảo quần
chúng nhân dân ủng hộ.
Việc mở rộng quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
giữ vững môi trường hoà bình, tạo thêm nhiều thuận lợi để đổi mới và phát triển
kinh tế – xã hội với nhịp độ nhanh hơn.
Là mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, là Đại hội kế thừa
và quyết tâm đổi mới, đoàn kết bền lâu. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã mở

đường cho đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, mở ra một giai
đoạn phát triển mạnh mẽ mới của lịch sử Cách mạng Việt Nam.


Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh
đạo của Đảng. Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, vào những sai lầm khuyết điểm và
đổi mới theo xu thế mới của thời đại mới.
Là Đại hội: "Trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới"
Tuy nhiên, Đại hội VI còn có những hạn chế về những giải pháp tháo gỡ tình
trạng rối ren trong phân phối và lưu thông.

C.Kết luận
Với quyết tâm khắc phục khó khǎn, với tinh thần kiên trì và tích cực trong tìm
tòi thử nghiệm, nhân dân ta vẫn không nao núng trước những biến động về kinh tế
- xã hội. Đảng ta vẫn quyết tâm làm chuyển biến tư duy, nhận thức và tư tưởng, xác
định nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách mới, nhằm khắc phục khủng hoảng
và tìm mọi cách đưa đất nước phát triển theo con đường XHCN.
Những tìm tòi, thử nghiệm trong thời kỳ 1979 - 1986 đã chuẩn bị những tiền
đề cần thiết cho việc Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12-1986). Đại
hội VI đã thực sự mở ra một bước ngoặt trên con đường quá độ lên CNXH ở nước
ta.
Sau nhiều năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng lần VI năm 1986. Việt Nam đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở
vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đó là một trong
những thành tựu mà Việt Nam đạt được qua những năm đổi mới. Năm 2006, Việt
Nam gia nhập hội chợ thương mại quốc tế WTO lại một lần nữa chỉ ra sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảngvề ngoại giao, tạo niềm tin vững chắc cho Việt Nam phấn đấu
đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Như vậy là việc tìm giải pháp cho những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách

trước mắt lại gắn liền với việc nhận thức lại nhiều vấn đề cơ bản của CNXH. Hai
mặt này tác động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau. Nhưng đây cũng thực sự
là cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái đúng và cái sai, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu,
giữa cái mới thúc đẩy sự phát tnển với cái cũ cản trở sự phát triển.



Tài liệu tham khảo
Giáo trình lịch sử kinh tế- Trường Đại học Kinh tế quốc dân- Chủ biên: GS.TS
Nguyễn Trí Dĩnh và PGS.TS Phạm Thị Quý.



×