Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Nghiên cứu các hợp chất thành phần nhằm góp phần đánh giá tác dụng điều trị tiểu đường của cây vối (cleistocalyx operculatus roxb merr et perry)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 61 trang )

MỞ ĐẦU
Hàng nghìn năm phát triển của loài người cho đến thời đại của Hóa học tổng
hợp với các sản phẩm thuốc và hương liệu nhân tạo con người vẫn phải dựa vào các
sản phẩm từ thiên nhiên, chủ yếu là từ thực vật. Ngày nay, Hóa học các hợp chất thiên
nhiên nhiên vẫn tìm được ứng dụng của mình trong các sản phẩm dược từ các loại
thực phẩm chức năng, các loại thuốc thay thế, bổ sung hoặc dự phòng, các chất màu và
hương liệu trong công nghiệp thực phẩm, và các chất thơm tinh tế cho các sản phẩm
nước hoa và hương liệu có giá trị cao. Dù cótính an toàn vì có nguồn gốc thiên nhiên,
khoa học vẫn cần giải quyết nhiều vấn đề phức tạp như cơ chế tác dụng thực sự của
các hợp chất thiên nhiên, cách thức chúng tương tác hiệp đồng với nhau khi tác dụng
lên các hệ sinh học, và con đường chuyển hóa chúng đi qua khi được đưa vào trong
các hệ sinh vật sống … cũng như bổ sung thêm cho các chất này nhiều tính chất phù
hợp cho các sản phẩm ứng dụng và tăng cường tác dụng sinh học.Các nghiên cứu này
chỉ có thể được thực hiện thành công trên cơ sở kiến thức khoa học toàn diện về thành
phần hóa học của các chất có trong các thực vật dùng làm thuốc, thực phẩm và hương
liệu.
Đái tháo đường là một bệnh mãn tính nội tiết do mức glucose cao trong
máu. Chất peptid hocmon insulin trong cơ thể chuyển hóa đường, tinh bột và các
thực phẩm khác thành năng lượng, nếu chất này không được tạo thành hoặc sử
dụng hợp lý dẫn đến bệnh đái tháo đường các dạng I và II.Ở dạng I cơ thể không
thể tạo thành insulin, còn dạng II kết quả từ sự kháng insulin. Điều trị các bệnh tiểu
đường dạng II thường sử dụng các thuốc như insulin, sulphonyl urea, biguanide,
metformin, acarbose, thiazolidinedion, ví dụ như acarbose là thuốc ức chế enzym
thủy phân cacbohydrat α-glucosidase, qua đó làm chậm và giảm sự hấp thu và tiêu
hóa cacbohydrat. Các tài liệu dược lý học dân tộc cho thấy thế giới có khoảng 800
cây thuốc được ghi nhận có tác dụng điều trị đái tháo đường dạng II,con số được
kiểm chứng qua các thử nghiệm sinh học không nhiều, mặc dù các hoạt chất thuộc
các nhóm flavonoid, terpenoid-steroid, alkaloid, cacbohydrat, amino acid được phát
hiện qua một số mô hình thử nghiệm in vitro và in vivo.Y học dân gian Việt Nam
cũng ghi nhận một vài cây thuốc có thể tác dụng lên bệnh đái tháo đường dạng II như
Mướp đắng (Momordica charantia L.) thuộc họ Cucurbitaceae, Ổi (Psidium



1


guajava L.), Chuối hột (Musra barjoo Sieb.) thuộc họ Musaceae, Dây thìa canh
(Gymnema sylvestre), Xoài (Mangifera indica L.) thuộc họ Anacardiaceae, Quế
(Cinnamomum cassia Bl.) thuộc họ Lauraceae, và Vối (Cleistocalyx operculatus
(Roxb.)Merr & Perry)thuộc họ Sim (Myrtaceae).Vối là một cây lớn mọc ở nhiều vùng
nông thôn miền Bắc, có nụ và lá được dùng để sắc nước uống. Một vài nghiên cứu
sàng lọc hoạt tính hạ đường huyết máu của các cao chiết từ lá và nụ Vối qua tác dụng
ức chế enzym -glucosidase được công bố trong những năm gần đây cho thấy cơ sở
khoa học của các ghi chép dân gian trên. Tuy nhiên cần có thêm các chứng cớ khoa
học liên kết được các tác dụng này với các chất thành phần có trong hỗn hợp phức tạp
của các cao chiết từ lá và nụ Vối. Nếu như có thể phát hiện được các hoạt chất ảnh
hưởng đến bệnh đái tháo đường sự sử dụng hợp lý cây thuốc này có thể được đưa ra,
dựa trên các phân tích cẩn thận về định tính và định lượng các hoạt chất và liều lượng
thuốc chứa lượng đủ hoạt chất được sử dụng. Các nghiên cứu hóa học trên cây Vối của
Việt Nam được thực hiện cho đến này còn thiếu hệ thống và chưa tương quan được
các thành phần hóa học với việc điều trị bệnh đái tháo đường, do đó, trong khuôn khổ
của một luận văn thạc sĩ nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu góp phần hệ
thống hóa các thành phần hóa học có trong lá cây Vối và liên hệ chúng với tác dụng
chữa bệnh đái tháo đường của lá cây Vối.
Các nội dung nghiên cứu chính của luận văn là:
1)

Thực hiện các qui trình chiết etanol và etanol-nước để điều chế

các cao chiết có tác dụng ức chế enzym -glucosidase từ lá cây Vối.
2)


Phân tách sắc ký phân tích và điều chế để phân lập các hợp chất

thành phần có trong các phần chiết etanol và etanol-nước từ lá cây Vối.
3)

Xác định cấu trúc các hợp chất được phân lập bằng các phương

pháp phổ hiện đại như MS và NMR.
4)

Liên hệ các hợp chất được phân lập với tác dụng lên bệnh đái tháo

đường của lá cây Vối.

2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỌ SIM–MYRTACEAE [8]
Họ Sim-Myrtaceae phân bố ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới, chủ yếu ở
châu Mỹ và châu Úc.Họ Sim là một họ lớn gồm 90 chi và 3000 loài, các cây thuộc họ
Sim có đặc điểm thực vật như sau:
Cây gỗ lớn, cây nhỡ hoặc cây bụi. Lá đơn, hoặc mép có khía răng, lá thường
mọc đối nhau và có tuyến mỡ. Hoa mọc thành cụm ở nách hay ở đầu cành, có hình
xim hoặc hình chùm. Hoa đều lưỡng tính. Đài hình ống dính hoàn toàn vào bầu hay
chỉ dính một ít. Lá đài gồm 4-5 cánh xếp lợp vào nhau, ít có ống dài nguyên.
Lá của chúng thuộc loại thường xanh, mọc so le hay mọc đối, lá đơn và thông
thường có mép lá nhẵn (không khía răng cưa). Hoa thường có 5 cánh hoa, mặc dù ở
một vài chi thì cánh hoa rất nhỏ hay không có. Nhị hoa thường rất dễ thấy, có màu
sáng và nhiều về lượng.Nhị xếp thành một hay nhiều dãy rời nhau hoàn toàn hoặc dính

ở gốc thành ống ngăn: bao phấn đính ở lưng hay gốc. Đĩa mật không có hay nếu có thì
hình vành khăn, che kín ở phía gốc vòi. Bầu hoàn toàn hạ hay hạ một phần, có 4-5 ô
hay nhiều hơn; vòi đơn kéo dài, đầu tròn, rất ít khi chia 3-4 thùy; trong bầu thì noãn
xếp thành hai hay nhiều dãy. Quả nang hoặc thịt, có sợi và thường được bọc kín bởi
ống đài.Trong quả thường có 1 hạt, hạt có nội nhũ, phôi thẳng hay cong, đôi khi nạc
với hai lá mầm không xa nhau.
Các cây thuộc họ Sim thường mọc xen lẫn với các cây gỗ khác thành đai rừng
nhiệt đới, ít khi mọc thuần loại.
1.1.1. ChiCleistocalyx [5, 11]
Chi Cleistocalyx là một chi tương đối lớn của họ Sim. Ngoài đặc điểm chung
của họ Sim: thường là cây gỗ hoặc cây nhỡ, lá mọc đối, có cuống; phiến lá có gân bên
xếp hình lông chim.Cụm hoa ở nách hoặc ở ngọn, dạng chùy. Hoa lưỡng tính, đài có
các lá đài dính nhau từ trong nụ và khi rơi toàn bộ thành một vòng trên phần còn lại
của đài và bầu, các loài cây thuộc chi Cleistocalyx còn có đặc điểm thực vật riêng: quả
nạc, khi chín không nở. Vòi không có lông, ô quả không có vách ngang chia thành ô
nhỏ, ống đài nguyên hay rách bất định, đài nguyên thành mũ, quả mập có một hạt.Cụm
hoa xim hay chuỳ.
Sau đây là một số cây đại diện thuộc chi Cleistocalyx thường thấy ở Việt Nam.

3


1.1.1.1. Cleistocalyx circumcissa (Trâm ô)
Đặc điểm thực vật: Cây đại mộc cao 15m, nhánh mảnh, lá có phiến xoan thon,
dài 4-7cm, chót có mũ, có đốm trong gân phụ, rất mảnh, nụ cao 13mm, rộng 3mm,
phần của đài và cánh hoa làm thành một lớp rụng sớm với nhị, noãn gồm 3 buồng, quả
mập.

Hình 1: Cleistocalyx circumcissa
Phân bố: rừng Biên Hoà.

1.1.1.2. Cleistocalyx nigrans (Trâm lá đen)
Đặc điểm thực vật: Cây đại mộc nhỏ, nhánh vàng đỏ. Lá có phiến bầu dục, màu
nâu đen trên mặt lúc khô, gân phụ cách nhau 2-3mm, cuống dài 1cm. Chùm tụ tán cao
6cm ở ngọn nhánh, hoa trắng, nụ dài 5mm, hoa 5 cánh rụng 1 lượt, tiểu nhị nhiều. Quả
mập tròn, lúc khô đen, to hơn 1cm, một hạt.

Hình 2: Cleistocalyx nigrans

4


Phân bố: rừng Bình Dương, Thủ Đức.
1.1.1.3. Cleistocalys nervosum(Trâm nắp vối)
Đặc điểm thực vật: Cây đại mộc trung, nhánh non dẹp, không lông. Lá có phiến
bầu dục thon, dài 12-13cm, có đốm nâu, gân phụ vào 10 cặp, gân cách bìa 3-5mm.
Phát hoa ở nách lá rụng, cao 5-8cm, đài hình đĩa hơi đứng, nắp cao; hoa có 4 cánh, cao
3mm, có nhiều tiểu nhụy. Phì quả tròn hay dài, to 7-14mm, đỏ hoặc đỏ đen chói, nạc
ngọt, một hạt.

Hình 3: Cleistocalys nervosum
Phân bố: rừng Bắc Trung Nam.
1.1.1.4. Cleistocalyx rehnervinus(Vối gân mạng)
Đặc điểm thực vật: Cây đại mộc nhỏ, nhánh tròn xám, to 2-3mm. Lá có
phiến bầu dục đến trái xoan, to 9-14x5,5-7cm chót lá rộng, đáy tròn gân phụ mịn,
cách nhau 4-8mm, gân cách bìa 2-3mm. Phát hoa ở lá và ngọn. Hoa như không
cọng, cao 7mm, đài rụng thành chóp, tiểu nhụy nhiều. Trái tròn, to 1,5mm, lùm bụi.

5



Hình 4: Cleistocalyx rehnervinus
Phân bố: các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam.
1.1.1.5. Cleistocalyx consperipuactatus (Vối nước)
Đặc điểm thực vật: Cây gỗ thường xanh, cao 20-25m. Vỏ dày 6-8mm, màu
xám trắng hay nâu đen nhạt. Cành non màu nâu xám, hình vuông, lúc già hình cột
tròn. Lá đơn, mọc đối, hình bầu dục dạng trứng ngược dài 6-12cm, rộng 2,5-5,5cm,
đầu tròn tù. Hoa mọc cụm, sinh ra đầu cành.Hoa lưỡng tính, đài đính thành 1 thể
dạng mũ, lúc nở hoa rụng dạng vòng.Nhiều nhị, rời nhau, lúc chồi hoa cong vào.
Quả mọng hình cầu hay hình trứng, lúc chín có màu nâu tím. Một năm có 2 mùa
hoa nở vào tháng 3 và giữa tháng 7.

Hình 5: Cleistocalyx consperipuactatus
Phân bố: Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng,
GiaLai-KonTum.

6


1.1.2. Một số nghiên cứu dược lý về chi Cleistocalyx
Năm 2012, Charoensin S.và cộng sự đã đánh giá tác dụng chống đột biến dịch
chiết nước của Cleistocalyx nervosumvar. panialainvitrovà mô hình động vật thực
nghiệm [16]. Cleistocalyx nervosum var. paniala, được tìm thấy ở miền Bắc Thái Lan,
có quả ăn được chứa một lượng lớn các hợp chất phenolic có tác dụng chống oxi
hóa. Dịch chiết nước của trái cây chín được đánh giá an toàn và tác dụng gây độc gen
và độc tính. Dịch chiếtC. nervosum không gây đột biến ở vi khuẩn Salmonella
typhimurium chủng TA98 và TA100 khi có và không có sự kích hoạt trao đổi chất,có
tác dụng chống gây đột biến trung bìnhvới độc tố aflatoxin B1. Phân tích phổ ESI-MS
cho thấy dịch chiết có một lượng lớn anthocyanin, bao gồm cyanidin-3,5diglucosid,cyanidin-3-glucosid và cyanidin-5-glucosid. C. nervosum ở nồng độ 5.000
mg/kg thể trọng không gây ra độc tính cấp tính ở chuột. Một thử nghiệm được thực
hiện để phát hiệnảnh hưởng của cáccleistogenlàm đứt gãy nhiễm sắc thể. Các dịch

chiết ở liều 1.000 mg/kg không gây ra sự hình thành vi nhân trong gan của chuột. Các
nghiên cứu này cung cấp dữ liệu cho thấy sự an toàn và hiệu lực chống gây đột
biếncủa dịch chiết nước trái cây C. nervosum.
Năm 2014, Taya S. và cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng của
Cleistocalyxnervosum (CE) trên diethylnitrosamine (DEN) và phenobarbital (PB)
gây stress oxy hóa trong giai đoạn đầu ung thư gan chuột. Chuột đực Wistar được
chia thành 4 nhóm, với nhóm 1 làđối chứng âm và nhóm 2 là nhóm tích cực được tiêm
DEN mỗi tuần một lần và PB trong nước uống trong 6 tuần. Hai tuần trước khi bắt đầu
điều trị DEN và PB, các nhóm 3 và 4 được cho ăn với liều 500 và 1000 mg/kg
CEStrong 8 tuần. Kết quả một số ổ GST-P, tổn thương tiền ung thư trong gan tăng
đáng kể trong chuột gây ung thư, nhưng giảm trong chuột được điều trị bằng 1000
mg/kg CE. CE gây giảm malondialdehyde trong huyết thanh và trong gan chuột được
điều trị với DEN và PB. Hơn nữa, CE tăng đáng kể peroxidase, hoạt tính của
glutathione và catalase trong gan chuột. Như vậy nghiên cứu đã chỉ ra rằng
Cleistocalyx nervosum (CE) điều chỉnh trạng thái chống oxy hóa và ngăn ngừa ung
thư[40].
Năm 2015, Manosroi J. vàcộng sự đã nghiên cứu hoạt tính chống lão hóa in
vitro của các chất chiết từ lá Cleistocalyxnervosum var. paniala[31].Lá cây được chiết
bằng nước, metanol, và chloroform bằng cách chiết siêu âm và chiết nóng.Các dịch

7


chiết được xác định tổng phenolic và flavonoid. Các dịch chiếtở 0,001-10 mg/mlđược
thử nghiệm hoạt tính chống oxi hóa và hoạt tính ức chế tyrosinase sử dụng phương
pháp so màu. Khả năng gây độc của dịch chiết ở 0,0001-1 mg/ml được xác định với
các nguyên bào sợi da người. Ngoài ra, các dịch chiết ở 0,001, 0,01 và 0,1 mg/ml
không có độc tính.Dịch chiết lạnh metanol lá già cho tổng sốliều phenolic cao nhất
511,44±18,23 mg GAE/mg và hàm lượng flavonoid 262,96±2,98 mg QE/mg. Dịch
chiết này cũngquét gốc tự do, ức chế sự peroxid hóa lipid, và ức chế tyrosinase với các

giá trị SC50, IPC50 và IC50là 0,02±0,004, 0,23±0,13 và 0,02±0,006 mg/ml. Dịch chiết ở
0,1 mg/ml ức chế MMP-2 cao nhất 91,14±1,67%.Dịch chiết lạnh metanol từ lá già có
thể được tiếp tục phát triển thành tác nhân chống lão hóa.
Năm 2016, Poontawee W. và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng bảo vệ của
Cleistocalyx nervosum var. paniala. đối với cadmium. Cadmiumgây độc thận là một
vấn đề sức khỏe môi trường nghiêm trọng vì cuối cùng nó sẽ kết thúc với bệnh thận
giai đoạn cuối [36]. Cơ chế sinh hóa các kim loại nặng độc hại này có liên quan đến
stress oxi hóa. Nghiên cứu khảo sát xem liệu Cleistocalyx nervosum var.
paniala(CNFE) có thể bảo vệ chống lại sự hư hại oxi hóa thậngây bởi cadmium. Phân
tích ban đầu cho thấy khả năng chống oxy hóa caocủa dịch chiết và nồng độ
polyphenol, đặc biệt là catechin. Tác dụng với thận của dịch chiết đượcnghiên cứu ở
chuột đã được xử lývới tá dượcCNFE, cadmium (2 mg/kg), và cadmium cộng CNFE
(0,5, 1,2 g/kg) trong bốn tuần. Sự hư hại thận bởi oxi hóathận được phát triển sau tiếp
xúc với cadmium như sự lưu giữ nitơ urê máu và creatinin, sự giảm lọc cầu thận, sự
tổn thương cấu trúc thận, cùng với nitric oxide và malondialdehyde tăng, nhưng chất
chống oxi hóathiol, superoxide dismutase, catalase giảm trong các mô thận. Sự gây
độc thận bởi cadmium giảm đi trong chuột được bổ sung CNFE, đặc biệt là ở liều 1 và
2g/kg. Có thể kết luận rằng CNFE có thể bảo vệ chống lại sự gây độc thận cadmium,
chủ yếu qua tác dụng chống oxi hóa. Các kết quả cho thấy vai trò của chất chống oxi
hóa thiên nhiên này trong việc chống lại các bệnh khác gây bởi sự phá vỡ sự cân bằng
nội môi oxi hóa khử.
1.2. CÂY VỐI (CLEISTOCALYX OPERCULATUSROXB. MERR. ET PERRY)
1.2.1.Đặc điểm thực vật [7]
Cây Vối có tên khoa học là Cleistocalyx operculatus Roxb. Merr. et Perry,
thuộc họ Sim (Myrtaceae), là loại cây thân mộc cỡ vừa, có thể cao tới 12-15 m. Vỏ

8


màu nâu đen, nứt dọc. Cành cây tròn hay đôi khi có hình 4 cạnh, nhẵn.Lá có cuống

dài 8-20 cm, hình trái xoan ngược hay bầu dục, hình trứng rộng 5-10 cm, giảm
nhọn ở gốc, có mũi nhọn ngắn, hai mặt cùng màu nhạt có đốm màu nâu, phiến dày,
dai, cứng, lá già có chấm đen ở mặt dưới. Hai mặt lá có những đốm màu nâu, cuống
lá ngắn tầm 1-1,5 cm. Hoa nhỏ gần như không có cuống, màu trắng lục, họp thành
cụm 3-5 hoa ở nách lá. Nụ hoa dài, 4 cánh, nhiều nhị. Cụm hoa hình tháp, trải ra ở
kẽ các lá đã rụng. Cây ra hoa tháng 5-7. Quả hình cầu hay hơi hình trứng, nhăn
nheo, đường kính 7-12 mm, nháp, có dịch, khi chín màu tím. Toàn lá, cành non và
nụ vối có mùi thơm đặc biệt dễ chịu của câyVối [1,8].

Hình 6:Lá cây Vối (Cleistocalyx operculatus Roxb. Merr. et Perry)
1.2.1.1. Phân bố
Cây Vối được trồng và mọc hoang ở khắp các tỉnh nước ta hoặc trồng ở
nhiều vùng quê miền Bắc, chủ yếu để lấy lá ủ nấu nước uống. Có 2 loại vối thường
gặp là vối nếp (lá nhỏ hơn bàn tay có màu vàng xanh) và vối tẻ (lá to hơn bàn tay,
hình thoi màu xanh thẫm). Vối còn thấy ở các nước nhiệt đới thuộc Châu Á như các
tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam Trung Quốc; Bangladesh, Ấn
Độ, Myanma, Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, các đảo Java, Kalimantan,
Sumatra của Indonesia, Malaysia, Philippines và lãnh thổ Bắc Úc của Úc[4,8].
1.2.1.2.Công dụng dân gian[4]
Vối được trồng để lấy gỗ dùng trong xây dựng, làm công cụ, vỏ có chất dùng
để nhuộm đen. Quả vối ăn được.Lá vối tươi đem thái nhỏ, rửa sạch nhựa rồi cho

9


vào thùng ủ cho đến khi đen đều thì lấy ra rửa sạch, phơi khô dùng để nấu làm
nước uống rất thông dụng ở nông thôn Việt Nam.
Theo Viện nghiên cứu Đông y: lá vối tươi hay sắc khô nụ vối và lá vối có
tác dụng kháng sinh đối các nhiều loại vi khuẩn như Gram (+), Gram (-),
Streptococus (hemolytic và staman), vi trùng bạch hầu, Staphyllococcus,

Pneumcoccus, phế cầu, Salmonella, Bacillus subtilis, ... và không gây độc hại đối
với cơ thể. Chính vậy mà lá vối tươi hay khô sắc đặc được coi như một loại thuốc
sát khuẩn dùng trị liệu các bệnh ngoài da như ghẻ lở, mụn nhọt hoặc lấy lá vối tươi
nấu lấy nước đặc để gội đầu chữa chốc lở rất hiệu nghiệm.
Nụ vối, lá vối chữa một số bệnh đường ruột, viêm họng đạt kết quả tốt, có
thể dùng dưới dạng thuốc sắc, thuốc cao hay viên hoặc dạng muối natri.
Nụ vối có khả năng hạn chế tăng đường huyết sau ăn và hỗ trợ ổn định
đường huyết, hỗ trợ giảm lipid máu, phòng ngừa biến chứng của đái tháo đường khi
điều trị lâu dài mà được sử dụng nước nụ vối uống thường xuyên.
Nước vối còn là loại có công hiệu giải khát trong những ngày hè nóng nực,
làm mát và lợi tiểu nên còn có công năng đào thải các độc chất trong cơ thể qua
đường tiết niệu vì vậy lá và nụ vối được hãm lấy nước uống hàng ngày ở các làng
quê Việt Nam. Người ta uống nước sắc lá vối để chữa bệnh tiêu chảy và tắm nước
sắc lá vối. Nước sắc lá vối ủ có tác dụng lợi mật điều này giải thích được vì sao
nhân dân ta thường uống nước sắc lá vối để chữa bệnh đầy bụng, khó tiêu.
Một số bài thuốc chữa bệnh từ cây Vối:
- Trị đau bụng đi ngoài, phân sống: Lá vối 3 cái, vỏ ổi 8 g, núm quả chuối
tiêu 10g. Cùng thái nhỏ phơi khô sắc với 400 ml nước, còn 100 ml chia 2 lần uống
trong ngày, dùng liền 2-3 ngày.
- Chữa đầy bụng, không tiêu: Vỏ thân cây vối 6-12 g, sắc kỹ lấy nước đặc
uống 2 lần/ngày hoặc dùng nụ vối 10-15 g, sắc lấy nước đặc uống 3 lần trong ngày.
- Chữa lở ngứa, chốc đầu: Lá vối vừa đủ nấu kỹ lấy nước để tắm, rửa nơi lở
ngứa và gội đầu.
- Viêm gan, vàng da: Dùng rễ vối 200 g sắc uống mỗi ngày.
- Chữa viêm đại tràng mạn tính, đau bụng âm ỉ, thường xuyên đi phân sống:
200g lá vối tươi, vò nát, dùng 2 lít nước sôi, ngâm trong 1 giờ uống thay nước.

10



1.2.2. Thành phần hóa học
1.2.2.1. Tinh dầu
Năm 1994, Lê Thị Anh Đào và cộng sự đã nghiên cứu thành phần hóa học
của tinh dầu vối ở các địa phương khác nhau của tỉnh Nghệ An [3]. Hàm lượng tinh
dầu dao động trong khoảng 0,1-0,4% tập trung ở nụ hoa (0,48%), hoa đã nở lượng
tinh dầu giảm dần (0,28%) và ít nhất trong hoa già (0,18%). Các thành phần chính
của tinh dầu hoa vối, nụ vối và lá là β-myrcen (khoảng 24-38%) (1), (Z)-β-ocymen
(29-35%), (E)-β-ocymen (9-13%) (2).
CH2

CH3
H3C

CH3

2

1
1.2.2.2.Các phần chiết hữu cơ

Lá Cleistocalyx operculatus chứa tannin, flavonoid, alcaloid, tinh dầu, các
bộ phận khác chứa sterol, chất béo…
Năm 1990, ZhangF. X. và cộng sự (Trung Quốc) đã phân lập một số chất
trong hoa và nụ Cleistocalyx operculatus: axit cinnamic (3), axit gallic (4),
etylgalat (5), 7-hydroxy-5-metoxy-6,8-dimetylflavon (6), 2,4-dihydroxy-6-metoxy3,5-dimetylchacon (7), 5,7-dihydroxy-6,8-dimetylflavanon (8), axit oleanolic (9),
axit ursolic (10),β-sitosterol (11)[49].
COOH

COOC2H5


CH=CH-COOH

HO

OH
OH

3

4

11

HO

OH
OH

5


CH3

CH3

HO

O

HO


H3C

OH

H3C
OCH3

O

OCH3

6

O

7
H3 C

CH3

CH3

OH

HO

O

CH3


H
O

H

CH3

H3C
OH

HO

O

H3 C

H
CH3

8

9
CH3
H3C

CH3
H3C
CH3


CH3

CH3

H

CH3
H
CH3

COOH
CH3

H

CH3
H

H

HO
H3C

HO

CH3

11

10


Năm flavonoid đã được phân lập và xác định cấu trúc từ nụ Cleistocalyx
operculatus là myricetin-3'-methyl ete 3-O-β-D-galactopyranosid(12), myricetin3',5'-dimethyl ete 3-O-β-D-galactopyranosid (13), quercetin (14), kaempferol (15)
và tamaricetin (16)[33].

12


OCH3

OCH3
OH

HO

OH

O

HO

OH

OCH3

OH

O
OH


O

OH

O

O

O

OH

HO

O

O
HO

OH
CH3

12

OH
CH3

13
OH
OH


HO

OH

O

HO

O

OH
OH

OH

O

OH

O

14

15
OH
OCH3
HO

O


OH
OH

O

16
Năm 2004, Ye C. L. và cộng sự đã phân lập được 2 flavonoid là 3'-formyl4',6'-dihydroxy-2'-methoxy-5'-methylchalcon(17)và

(2S)-8-formyl-5-hydroxy-7-

methoxy-6-methylflavanon(18) cùng 5 flavonoid khác đã biết từ nụ Cleistocalyx
operculatus Trung Quốc[47].

13


H

H

O

O

CH3

H3CO

O


OH

H3C

CH3
O

O

OH

OH

O

18

17

Năm 2008, Min B. S. và cộng sự đã phân lập được 4 flavonoid mới 3'formyl-4',6',4-trihydroxy-2'-methoxy-5'-methylchalcon

(19),

3'-formyl-6',4-

dihydro-2'-methoxy-5'-methylchalcon 4'-O-β-D-glucopyranosid(20), (2S)-8-formyl6-methylnaringenin(21)




(2S)-8-formyl-6-methylnaringenin

7-O-β-D-

glucoyranosid (22)từ dịch chiết hoaCleistocalyx operculatus[32].
OH

OH

CHO
HO

OH
OCH3

CHO
O

O

OCH3

OH
H3C

HO
OH

H3C


HO

O

OH

19

O

20
OH

OH
OH

CHO
HO

CHO
O

O

O

O

OH
HO


H3C
OH

HO

H3C
OH

O

21

O

22

Năm 2010, Min B. S. và cộng sự nghiên cứu các hợp chất flavonoid từ nụ
cây Cleistocalyx operculatus [34].Trong nghiên cứu này, một hợp chất flavonoid
glucosid mới và 6 chất đã biết: 5,7,8,4'-tetrahydroxy-3',5'-dimethoxyflavon-3--D-galactopyranosid

(23), gossypetin-8,3'-dimethyl ete-3---D-galactopyranosid

(24), myricetin-3'-methylether-3---D-galactopyranosid (25), myricetin-3'-methylete (26), quercetin (27), kaempferol (28) và tarmarixetin (29) đã được phân lập.

14


OCH3


OCH3
OH

OH

OH

OCH3

HO

O

HO

O

OCH3

OCH3

O
OH

O

O

OH


HO

O
HO

O

O

OH

OH

OH

OH

23

24
R1

OCH3
OH

HO

R2

O


HO

OH

O

OR
OH

OH

O

OH

O

25 R = D-galactose

27 R1 = OH, R2 = OH

26 R = H

28 R1 = H, R2 = OH
29 R1 = OH, R2 = OCH3

Năm 2010, Dao T. T. và cộng sự đã phân lập được các hợp chất C-methyl
flavonoid30-43[19].
CH3

HO

CH3
O

HO

H3 C

O

H3C
OCH3

O

OH
OH

30

O

31

15


CH3


CH3

OH

HO

O

HO

OH

OH

H3C

H3C
OCH3

OCH3

OH

O

33

32
CH3


CH3

HO

O

H3CO

H3C

O

H3C
OCH3

O

OH

34

35
CH3

CH3
HO

O

HO


OH

OH

H3C
OCH3

OCH3

O

O

36
37
CHO

CH3
H3CO

H3CO

O

O

H3C

H3C

OH

OH

O

38

O

39

16


CH3

CH3
HO

HO

O

OCH3

O

OH


O

41

40
CH3

CH3
HO

O

HO

O

OH

CH3
OH

OCH3

O

O

OH

43


42

Năm 2014,Chen L. S. và cộng sự đã nghiên cứu phương pháp định lượng vỏ
khô Cleistocalyx operculatus[17]. Nó là nguyên liệu thô của thuốc chống ngứa
Compound Hibiscuse. Tiêu chuẩn chất lượng của vỏ cây khô Cleistocalyx operculatus
"chuẩn theo thuốc cổ truyền Trung Quốc" của tỉnh Quảng Đông chỉ được nhận dạng
bằng TLC và không thể kiểm soát hiệu quả chất lượng Cleistocalyxoperculatus. Một
phương pháp HPLC pha đảo được sử dụng để xác định axit 3,3'-O-dimethylellagic
(44) từ vỏ cây Cleistocalyx operculatus và hàm lượng đã được tính toán bằng phương
pháp ngoại chuẩn. Theo các điều kiện sắc ký được lựa chọn, axit 3,3'-Odimethylellagic chuẩn ở nồng độ 1,00-25,0 mg/ml cho mối quan hệ tuyến tính
tốt. Đường chuẩn là Y = 77,33X + 7,904, r = 0,9995, thu hồi trung bình là 101%, RSD
là 1,3%[17].

17


O
OH
O
H3CO

OCH3
O
O O
OH

O

OH

OH

44
1.2.3.Hoạt tính sinh học và dược lý của Cleistocalyx operculatus
Năm 1972, Nguyễn Đức Minh đã nghiên cứu tính chất kháng sinh của lá và
nụ cây vối đối với một số vi khuẩn Gram(+) và Gram (-)cho thấy lá và nụ vối đều
có tác dụng kháng sinh, cao nhất ở lá và hoàn toàn không độc đối với cơ thể [9].
Năm 2002, Woo A. Y. và các cộng sự đã xác định dịch chiết nước từ nụ
Cleistocalyx operculatuscó hoạt tính ức chế Na +/K+-ATPase trong màng bao cơ tim
chuột và ức chế Ca2+-ATPasase trong dịch mô đồng thể tim chuột với liều tương
tự. Hoạt tính ức chế enzym này đã góp phần giải thích cho hoạt động co cơ tích cực
và tiêu cực của tim chuộtđược truyền dịch [44].
Năm 2003, Đào Thị Thanh Hiền đã thử nghiệm một số tác dụng của cây
Vối[6]. Tính kháng khuẩn của lá vối, đặc biệt là lá vối ủ có tác dụng rất tốt trên vi
khuẩn E. coli gây bệnh đường ruột, và hai vi khuẩn Gram (+) và Gram (-) thường
gặp ở bệnh viêm da. Cho chuột nhắt trắng uống nước lá vối ủ thấy lá vối ủ có tác
dụng lợi mật rất mạnh, và khả năng ức chế sự phát triển tế bào ung thư. Kết quả thử
tác dụng độc tế bào của lá vối cho thấy cả tinh dầu và cao thô đều có khả năng ức
chế sự phát triển tế bào ung thư (ung thư gan, ung thư màng tim, ung thư tử cung).
Năm 2003, Lu Y. H. và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng bảo vệ
của Cleistocalyx operculatus với sự peroxid hóa lipid gan chuột và sự tổn thương của
các tế bào PC12 gây bởi H2O2.Kết quả cho thấy Cleistocalyx operculatus có thể được
sử dụng như chất chống oxi hóa để ngăn ngừa hoặc trì hoãn sự sinh bệnh của các bệnh
tế bào thần kinh [27].
Năm 2004, YeC. L.và cộng sự đã phân lập được 2',4'-dihydroxy-6'-methoxy3',5'-dimethylchalcon (DMC)(7) từ nụ Cleistocalyx operculatus và điều tra tác dụng

18


của chúng lên 6 dòng ung thư người. Trong số các tế bàoSMMC-7721, 8898, HeLa,

SPC-A-1, 95-D, GBC-SD và SMMC-7721 thì SMMC-7721 là dòngnhạy cảm nhất
với IC50 bằng 32,3±1,13 M, EC50 bằng 9,00±0,36 M và chỉ số điều trị 3,59.
NhuộmHoechst 33,258 cho thấy sự phân mảnh và sự ngưng tụ của chất nhiễm sắc
thể trong tế bào được điều trị bằng 9 M DMC trong 48 h. Phân tích dòng
cytometric đã được thực hiện để xác định các tế bào hypodiploid. Các kết quả của
dòng cytometry cho thấy tỷ lệ phần trăm của các tế bào SMMC-7721 hypodiploid
là 49,44±1,06% sau khi điều trị 48 h với 18,0 M DMC. Điều trị dẫn đến sự xuất
hiện của một đỉnh hypodiploid (vùng A0), có thể là do sự hiện diện của các tế bào
tự chết hoặc các cơ quan tự hủy với lượngADN ít hơn 2nM[46]. Đến năm 2014,
nhóm nghiên cứu đãđịnh lượng phân mảnh DNA phát hiện ảnh hưởng của DMC ở
các nồng độ khác nhau trên tế bào SMMC-7721; phương pháp của Sellins và Cohen
cho thấy tỷ lệ phân mảnh DNA tăng phụ thuộc nồng độ, sau khi điều trị với DMC
trong 48h. So với nhóm chứng, tác dụng của telomerase bằng 66,2±2,1% sau khi
điều trị 48 h với 20 mmol/l DMC, các biểu hiện mRNA của c-myc và hTERT giảm
tương ứng 67,3±2,1% và 64,4±2,3%, và sự biểu hiện protein của c-myc và hTERT
giảm tương ứng 69,6±1,9% và 71,3±2,4%. Theo kết quả nghiên cứu, DMC có thể
gây ra sự tự chếttế bàoSMMC-7721 và cơ chế tự chết có thể liên quan đến các
mRNA và biểu hiện giảm protein của c-myc và hTERT [45].
Năm 2007, Trương Tuyết Mai và Nguyễn Văn Chuyên nghiên cứu hoạt tính
kháng sự tăng đường huyết máu của dịch chiết nước nụ hoa Cleistocalyx
operculatus[30].Dịch chiết có tác dụng ức chế enzym-glucosidase.Dịch chiết
nước có khả năng điều trị tiểu đường qua thử nghiệm in vitro và in vivo. Trong thử
nghiệm in vitro, dịch chiết có tác dụng ức chế maltose vàsucrose trong ruột chuột,
IC50 lần lượt là 0,70 và 0,47 mg/ml. Kiểm tra lượng glucose trong máu sau bữa ăn ở
chuột đối chứng và chuột được gây tiểu đường STZ bằng sự nạp maltose (2g/kg thể
trọng) cho thấy sự giảm lượng glucose máu (500 mg/kg thể trọng) ít hơn một chút
so với khi dùng acarbose (25 mg/kg thể trọng), nhưng tốt hơn so với dịch chiết lá ổi
(500 mg/kg thể trọng). Trong một thí nghiệm 8 tuần, mức glucose máu của chuột bị
tiểu đường STZ được điều trị với lượng dịch lá vối 500 mg/kg thể trọng/ngày giảm
đáng kể so với chuột bị tiểu đường không được điều trị.


19


Năm 2008,Nguyễn Thị Dung cùng các cộng sự đã nghiên cứu hoạt tính
kháng khuẩn và chống oxi hóa của tinh dầu và các phần chiết etanol nụCleistocalyx
operculatus. Tinh dầu nụvối được phân tích bằng GC và GC/MS. Tổng cộng có 55
hợp chất chiếm 93,71% hàm lượng tinh dầu đã được nhận dạng. Tinh dầu ức chế
mạch sự hư hỏng thực phẩm, các vi khuẩn gây bệnh da, Staphylococcus
aureuskháng methicillin (MRSA), Enterococci kháng vancomycin (VRE) và vi
khuẩn kháng đa kháng sinh (MARB). Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) và nồng độ
diệt khuẩn tối thiểu (MBC) của tinh dầu với các vi sinh vật thử nghiệm ở trong
khoảng 1-20 g/ml. Trong khi đó, các phần chiết etanol có hoạt tính kháng
khuẩnvới các vi khuẩn Gram (+) và MBC trong khoảng 0,25-32 mg/ml. Tác dụng
chống oxi hóa và quét gốc tự do 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl (DPPH) của tinh
dầu và phần chiết ethanol cũng được nghiên cứu[21].
Năm 2009, Nguyễn Thị Dung và cộng sự nghiên cứu về tác dụng chống
viêm của tinh dầu nụ vối. Nhóm đã nghiên cứu các tác dụng in vitro và in vivo của
tinh dầu nụCleistocalyx operculatus. Trong các thử nghiệm,tinh dầu ức chế đáng kể
sự tiết các cytokine gây viêm, bao gồm cả yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-) và
interleukin-1 (IL-1), trong đại thực bào chuột RAW 264.7 được kích thích bởi
lipopolysaccharide (LPS). Sự biểu hiện mRNA của TNF- và IL-1 đã bị ức chế
bằng cách xử lý với tinh dầu trong tế bào RAW 264.7 được kích thích bởi
LPS.Phân tích reporter gene cho thấy tinh dầu ức chếsự hoạt hóa phiên mã NF-B
gây bởi LPS trong tế bào RAW 264.7. Tinh dầu ức chế sự phù tai ở chuột BALB
gây bởi phorbol ester. Các kết quả này cho thấy tinh dầucó thểcho tác dụng chống
viêm bằng cách ức chế sự biểu hiện của các cytokine tiền viêm qua ngăn chặn ít
nhất một phầnsự hoạt hóa NF-B[20].
Năm 2010, Trương Tuyết Mai và cộng sự đã nghiên cứu về tác dụng bảo vệ
và chống đục thủy tinh thể của chiết xuất dung dịch nước của nụ hoa vối (COB)

trên tế bào beta của chuột gây tiểu đường bằng streptozotocin. Sau 9 tuần bổ sung
COB (500 mg/kg thể trọng), nhóm COB có mức insulin ổn định hơn đáng kể so với
nhóm chuột đối chứng tiểu đường. Ngoài ra, COB trì hoãnmạnh sự đục thủy tinh
thểvà gây sự giảm đáng kể lượng glucose, sorbitol, fructose trong thủy tinh thể của
chuột bị tiểu đường[29].

20


Năm 2010, Min B. S. và cộng sự nghiên cứu các hợp chất flavonoid gây độc
tế bào từ nụ cây Cleistocalyx operculatus[34].Các hợp chất 23-25có gốc galactose đã
được đánh giá gây độc tế bào in vitro đối với các dòng tế bào ung thư Hela, HL-60,
A549 sử dụng phương pháp MTT.Các hợp chất 23-25có tác dụng gây độc tế bào yếu
đối vớidòng tế bào ung thư Hela với giá trị IC50 38,7 , 42,1 và 45,5 mM. Đối với HL60, tác dụng gây độc tế bào đạt giá trị IC5013,7-18,1 mM. Các chất ức chế yếucác dòng
tế bào A549 với giá trị IC50 hơn 100mM.
Năm 2010, Trong T. D. và cộng sự đã xác định hoạt tính ức chế mạnh virus
H1N1 và H9N2 của các flavonoid33, 36, 37 và 43[19]. Hợp chất 33 ức chế mạnh
nhất virus cúm H1N1 và ức chế biến thể H274 của H1N1 trên các tế bào 293T với
các giá trị IC50 lần lượt là 8,15±1,05 và 3,31±1,34 M. Các hợp chất33, 36, 37 và
43là các chấtức chế không cạnh tranh neuraminidase trong các nghiên cứu dược
động lực [19].
Năm 2010, Bajpai V. K. và cộng sự đã nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn của
tinh dầu và các phần chiết từ nụCleistocalyx operculatusđối với các vi khuẩn gây bệnh
thực vậtXanthomonas spp.[14]. Đường kính kháng khuẩn của tinh dầu (1.000 mg/đĩa)
và các phần chiết (1.500 mg/đĩa) với các vi khuẩn thử nghiệm được tìm thấy trong
khoảng 7-23 mm. MIC và MBC của tinh dầu và các phần chiết vớiXanthomonas spp.
từ 31,25-125 với 62,5-250 µg/ml và 125-500 với 250-1,000 µg/ml. Nghiên cứu thể
hiện tác dụng ức chế của tinh dầu (1.000 mg/ml) và phần chiết hexan (250 mg/ml) với
Xanthomonas spp.. Ngoài ra tinh dầu có tác dụng kháng khuẩnin vivovới Xoo KX019
và XSP SK12 trên các cây dưa (Cucumis melo L. var. Makuwa) trồng nhà kính. Các

kết quả của nghiên cứu này cho thấy tinh dầu và các phần chiết Cleistocalyx
operculatus có thể được sử dụng như các chất diệt khuẩn tự nhiên trong các ngành
công nghiệp thực phẩm và nông nghiệp.
Năm 2012, Huang H. Y. và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng đảo ngược sự
kháng đa thuốc của chất 2',4'-dihydroxy-6'-methoxy-3',5'-dimethylchalcon (DMC) có
nguồn gốc từ nụ của Cleistocalyx operculatus trong mô hình xenograft u tế bào gan
người[25].Một mô hình u xenograft u tế bào gan người đã được thiết lập với dòng tế
bào BEL-7402/5-FU. Kết hợp điều trị 5-fluorouracil (5-FU) và DMC (40 mgkg-1) nâng
tỷ lệức chế khối u tới 72,2%. DMC cũng có thể làm tăng nồng độ 5-FU trong các mô
khối u và tăng cường hoạt tính caspase-3. Ngoài ra, liệu pháp điều trị kết hợp dẫn đến

21


tăng cường hoạt tính tự chết của khối u và giảm hoạt tính tăng sinh. Kiểm tra trọng
lượng cơ thể và các dấu hiệu độc tính không mong muốn của các nhóm điều trị khác
nhau không cho thấydấu hiệu của tác dụng phụ. Kháng đa thuốc (MDR) là một trở
ngại chính trong việc hóa trị liệu nhiều bệnh ung thư người. 2',4'-Dihydroxy-6'methoxy-3',5'-dimethylchalcon (DMC) được phân lập từ nụCleistocalyx operculatus
(Roxb.) Merr. et Perry (Myrtaceae), cho các hiệu ứng đảo ngược sự kháng đa thuốc 5FU của các tế bào ung thư.
Năm 2012, Luo Y. và Lu Y.đã nghiên cứu 2',4'-dihydroxy-6'-methoxy-3',5'dimethylchalcon ức chế sự tự chết của tế bào MIN6 qua tăng cường chức năng của ty
lạp thể[28]. Rối loạn chức năng của ty lạp thể do sự stress oxi hóa và sự tự chếtđồng
thời của tế bào beta có thể đóng một vai trò quan trọng trong các bệnh tiểu đường loại
2. Ức chế sự tự chết của tế bào beta qua rối loạn chức năng của ty lạp thể do oxi hóa
với các chất thiên nhiên có tiềm năng phòng ngừa hoặc chữa bệnh. Tác dụng ức chếsự
tự chết tế bào của 2',4'-dihydroxy-6'-methoxy-3',5'-dimethylchalcon (DMC) từ nụ
Cleistocalyx operculatus, trên tế bào MIN6 gây bởi H2O2 với nồng độ 250µM trong 3
h, sự sống của các tế bào MIN6 đã giảm đáng kể và sự tự chết tế bào gần như đã xảy
ra. Tiền xử lý với DMC ở nồng độ của 12,5-25µM trước khi cho H2O2, đã giảm sự
phân mảnh hạt nhân, giảm sự sản sinh các tiểu phần oxi hóa, và thế ty lạp thể tăng
cường (MMP), ức chế quá trình tự chết tế bào. Hơn nữa, đã quan sát được sự giảm

hoạt tính của caspase-3 và caspase-9. Các kết quả này cho thấy DMC bảo vệ tế bào
MIN6 chống lại sự tự chết tế bào do tác dụng bảo vệ ty lạp thể cao của nó, và do đó là
một thuốc tiềm năng cho việc chăm sóc bệnh tiểu đường.
Năm 2014,Hu Y. C. và cộng sự đã nghiên cứu thấy 2',4'-dihydroxy-6'-methoxy3', 5'-dimethylchalcon bảo vệ sự tiết insulin suy giảm gây ra bởi độc tính glucose
trong các tế bào βtuyến tụy. 2',4'-Dihydroxy-6'-methoxy-3',5'-dimethylchalcon (DMC),
được phân lập và tinh chế từ nụ hoa khô của Cleistocalyx operculatus (Roxb.) Merr.et
Perry(Myrtaceae), đã được điều tra cho hoạt tính insulinotropicvới độc tính glucose
trong các phương pháp in vitro. Vớinồng độ glucose cao ở mức độ gây độc tế bào
trong 48 h, tế bào β RIN-5F chết đáng kể và suy giảm chức năng tiết insulin, trong khi
đồng xử lý với DMC có thể bảo vệ tế bào βchống lại sự giảm tiết insulin gây bởi độc
tính glucose trong một sự phụ thuộc liều lượng mà không ảnh hưởng đến sự tiết insulin

22


nền. DMC tăng sự tiết insulin chống lại độc tính glucose bằng cách mô phỏng tác dụng
của GLP-1 và tăng sự biểu hiện GLP-1R, nối tiếp bằng cách hoạt hóa đường truyền tín
hiệu của PDX-1, PRE-INS và GLUT2-GCK. Một cơ chế khác là DMC tránh các rối
loạn chức năng đảo tụy do tổn thương tế bào qua ức chế sự sản sinh oxit nitric (NO)
bởi iNOS, và biểu hiện MCP-1. Kết quả này cho thấy ứng dụng tiềm năng của DMC
trong việc can thiệp sự tăng đường huyết gây bởi độc tính glucose [24].
Năm 2015, Yu W. G. và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng chống viêm của
dimethyl cardamonin(DMC) qua đường tín hiệu PI3K-PDK1-PKCα[48]. Trà thảo
dược [nụ hoa Cleistocalyx operculatus (Roxb.)Merr. et Perry (Myrtaceae)] có tác dụng
chống lại nhiều bệnh tật như bệnh tiểu đường, hen suyễn và bệnh viêm ruột. HMGB1
được xem như yếu tố tiền viêm chìa khóa trong các bệnh trên. Dimethyl cardamonin
(2',4'-dihydroxy-6'-methoxy-3',5'-dimethylchalcon(DMC) là một thành phần chính của
nụ hoa C. operculatus. Trong nghiên cứu này, các tác dụng chống viêm của DMC và
tác dụng cơ chế phân tử đã được nghiên cứu trên đại thực bào được gây viêm
bởi lipopolysaccharide (LPS).DMC ức chế sự biểu hiện mRNA của TNF-α, IL-1β, IL6, và HMGB1, và giảm sự sản sinh chúng trong sự phụ thuộc vào liều lượng. DMC

giảm sự tiết HMGB1 gây bởi LPS. Hơn nữa, DMC ức chế sự hoạt hóa của
phosphatidylinositol 3-kinase (PI3K), kinase phosphoinositide 1 (PDK1), và protein
kinase C alpha (PKCα). Tất cả các dữ liệu chứng minh rằng DMC có tác dụng chống
viêm qua việc làm giảm TNF-α, IL-1β, IL-6 và HMGB1thông qua việc kết hợp với
PI3K-PDK1-PKCα.
Năm 2016, Choi J. W. và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng và cơ chế điều chỉnh
của

2',4'-dihydroxy-6'-methoxy-3',5'-dimethylchalcon(DMC)

được

phân

lập

từCleistocalyx operculatus trên các thông số chuyển hóa trong các bó cơ, tế bào mỡ và
mô hình chuột béo phì[18]. Kết quả cho thấy DMC làm tăng sự hấp thu glucose và sự
oxi hóa acid béo (FAO) trong các bó cơ. Ngoài ra, DMC ức chế sự phân chia tế bào
mỡvà mật trong các tế bào 3T3-L1. DMC kích thích phosphoryl hóa trên đơn vị alpha
(T172) protein kinase (AMPK) bằng cách liên kết trực tiếp vào AMPK.Hơn nữa,
DMC gắn vào AMPK với ái lực cao hơn AMP. Các kết quả này cho thấy tác động của
DMC chủ yếu qua trung gian bởi AMPK kích hoạt. Ngoài ra, chuột điều trị ăn nhiều
chất béo với DMC cải thiện dung nạp glucose và tăng đáng kể FAO của các cơ.

23


CHƯƠNG 2:THỰC NGHIỆM


24


2.1. HÓA CHẤT VÀ THIẾT BỊ
2.1.1. Hóa chất
- Etanol thực phẩm 96o(Việt Nam).
-Dung môi n-hexan, diclometan, etylaxetat, axeton, metanol (Hàn Quốc)
dùng cho sắc ký lớp mỏng và sắc ký cột.
- Axit sulfuric tinh khiết (Trung Quốc).
- Vanillin tinh khiết (Trung Quốc).
- Silica gel: các cỡ hạt 0,040-0,063 mm và 0,015-0,040 mm(Merck, CHLB
Đức) cho sắc ký cột.
- Bản mỏng silica gel tráng sẵn nền nhôm, DC-Alufolien 60 F 254 (Merck,
CHLB Đức).
2.1.2. Dụng cụ, thiết bị
- Máy cô quay chân không 1 lít hãng Büchi(Thụy Sĩ).
- Cân kỹ thuật, cân phân tích (Đức).
- Cột sắc ký các cỡ (CC, FC, Mini-C).
- Bơm nén cột (FC, Mini-C).
- Các thiết bị đo điểm nóng chảy Boetius (Đức) và Thermo Scientific MelTemp 3.0 (Mỹ).
- Phổ khối lượng (ESI-MS) đo trên hệ thiết bị LC/MSD Trap Agilent Series
1100.
- Các phổ 1 H-NMR (500 MHz),

13

C-NMR và DEPT (125 MHz) được ghi

trên thiết bị Bruker Avance 500 với TMS (tetrametylsilan) là chất chuẩn nội.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Phương pháp xử lý mẫu và điều chế các phần chiết
Mẫu lá cây được phơi trong bóng râm đến gần khô sau đó sấy ở nhiệt độ 45 oC
đến khối lượng không đổi và xay thành bột nguyên liệu.
Bột nguyên liệu khô được ngâm chiết 3 lần với etanol 96% hoặc etanol/nước
60% ở nhiệt độ phòng. Các dịch chiết được gộp lại, cất loại dung môi dưới áp suất
giảm thu được phần chiết etanol hoặc etanol-nước. Cao thô sau đó được hòa nước

25


×